Ly Đốc – người ta vẫn gọi tôi như thế. Ờ, người đang trò chuyện với mấy người tên là Ly Đốc hay chính tôi đây. Nếu các người có thắc mắc thì "Ly Đốc" phiên âm từ chữ "Uyjiluk", trong phương ngữ Băng Thổ nghĩa là "con hoang". Như đã nói, người ta gọi tôi vậy, chứ chẳng bà mẹ nào đặt cái tên khó nghe đó cho con mình. Tôi dám khẳng định luôn! Bởi tôi sống cùng mấy thằng bạn có mẹ làm gái điếm, đứa nào cũng sở hữu cái tên đẹp đẽ hơn nhiều so với quá trình chúng nó được hình thành, nếu các người hiểu ý tôi, khì khì! Tôi cũng giống chúng nó, sinh ra từ nhà thổ và chẳng biết mặt ông bố. Nhưng khác ở chỗ mẹ bán tôi cho lão quản đốc phu thuyền ngay lúc sinh ra tôi mà chưa kịp đặt tên, thế nên lão quản đốc lấy ngay chữ Ly Đốc mà gọi. Người dưng máu lạnh, tôi chẳng mong lão nghĩ ra thứ gì đẹp đẽ hơn. Bởi cái tên Ly Đốc, tôi có xu hướng dễ bực mình với thế giới xung quanh. Lúc vui không sao, mà hễ buồn bực là tôi nổi khùng phá hoại mọi thứ lẫn mọi người xung quanh. Giải thích dài dòng vậy để các người biết tôi không giấu giếm điều gì về bản thân, kể cả câu chuyện mà tôi sắp kể dưới đây cũng thế.
Nhưng hẳn mấy người vẫn còn thắc mắc về từ "phu thuyền" thì cho phép tôi dài dòng thêm chút nữa. Thuyền ở đây là "thuyền cạn", những con tàu đóng bằng gỗ khép kín, không boong, chạy hoàn toàn bằng sức gió dùng để vượt Đồng Gió – mảnh đất nối liền hai lục địa Băng Thổ và Đông Thổ. Tôi nghe lão quản đốc kể thuyền cạn là phương tiện bay đầu tiên ở thế giới Tâm Mộng, giúp con người hai lục địa biết về nhau thay vì lầm tưởng Đồng Gió là chốn hoang mạc vô tận suốt thời gian dài. Đám bốc dỡ hàng hóa hoặc phục vụ thuyền cạn gọi là phu thuyền. Giờ tàu siêu tốc hay phi thuyền đầy rẫy nhưng chẳng phải ai cũng đủ sức chi trả phí vận chuyển, mà người ta cũng không thể nhồi nhét lũ gia súc hôi rình hay hàng buôn lậu lên mấy thứ đó. Thành thử thuyền cạn vẫn phổ biến, đám phu bởi vậy còn đất sống, dĩ nhiên không nhiều như xưa. Hai nơi sử dụng thuyền cạn nhiều nhất là Hoàng Hôn Cảng ở Băng Thổ - nơi tôi đang sống, kế đến là Khẩu Lỗ thành phía bên kia Đồng Gió.
Đi thuyền cạn tốn sức, cả khách lẫn phu thuyền chủ yếu là đàn ông, đàn bà con gái hiếm vô cùng. Mà nếu có thì tôi dám chắc ả ta không phải đàn bà! Hoàng Hôn Cảng tập hợp hàng nghìn gã đàn ông thở phì phò sau cuộc hành trình dài hay mệt mỏi vì xa nhà, nhà thổ mọc lên như lẽ tất yếu. Ngay lão quản đốc biết tuốt của tôi cũng chẳng biết gái điếm xuất hiện ở đây từ bao giờ. Theo hệ quả, tôi, đám trẻ giống tôi, đám lớn tuổi hơn tôi chung đội phu cùng bao thế hệ con hoang khác đã trở thành một phần lịch sử thành phố. Hầu hết các bà mẹ gái điếm đều gửi hoặc bán đám con bất đắc dĩ này vào đội phu thuyền, cách duy nhất nhưng cũng tốt nhất . Quản đốc khoái phu trẻ con vì chúng đa năng, ngoài bốc dỡ còn chịu làm mấy việc mà đám người lớn ngại làm như nấu ăn, lau sàn, dọn dẹp mấy thuyền cạn vương vãi phân gia súc, quan trọng hơn cả là tiền công rẻ mạt. Tôi mới mười sáu tuổi nhưng tuổi đã làm phu mười năm, vài đứa khác còn lâu hơn song chẳng đứa nào đòi hỏi chuyện tăng lương. À... thực ra là có đứa lên tiếng với lão quản đốc rồi, nhưng răng của nó bể nhanh hơn lời nó nói, thế nên bọn tôi chẳng dám hó hé thêm lần nào nữa. Gọi lão quản đốc là cha, gọi mấy đứa lớn lên cùng mình là anh em, cuộc đời con hoang lẫn phu thuyền của tôi là vậy.
Nhưng làm phu thuyền không đến nỗi nhàm chán. Tin tôi đi, nhiều thú vui lắm, miễn sao các vị đủ sức khỏe! Tôi có cái thú làm việc cật lực, bốc dỡ lau dọn cả ngày cho đến khi mệt nhoài, thường là tầm chiều muộn. Khi đó tôi sẽ leo lên tường thành, ngửa cổ trông từng chiếc thuyền cạn trượt trên đường ray không tà vẹt cao ba trăm mét và đổ nghiêng góc sáu mươi độ, sau đấy bay ra Đồng Gió giữa màu hoàng hôn cam đỏ. Hôm nào hứng chí, tôi cố sức leo lên đỉnh đường ray, chứng kiến cảnh thuyền cạn khởi hành ở một góc độ hoành tráng gấp nhiều lần. May mắn nhất là một lần được lên thuyền ra Đồng Gió, dù rằng chỉ nửa đường là tôi phải đổi ca quay về, tôi chưa từng đặt chân đến Khẩu Lỗ thành. Nhiều năm như thế, không chán sao? – Nếu các người hỏi. À, nhìn hàng chục năm nên lắm lúc hơi chán nhưng hiện tại tôi vẫn yêu thích nó. Còn chuyện sau này? Đấy là chuyện sau này!
Mà đó chẳng phải thú vui duy nhất. Tôi làm việc ở cửa khẩu đông thành phố, ai từng du lịch hay ghé qua đây đều biết quận đông Hoàng Hôn Cảng có cái gì. Phải, hộp đêm và nhà thổ. Nhưng đừng nghĩ cái mà các vị sắp sửa nghĩ, khì! Chẳng thằng phu thuyền mười sáu tuổi nào có tiền vào đấy trừ phi ăn cướp, mà nếu có cũng bị đá ngay vì nơi ấy chỉ tiếp người đủ mười tám tuổi. Ăn diện hay khai gian tuổi cỡ nào cũng chẳng ăn thua vì dấu vết nghề phu thuyền hằn rất rõ trên bàn tay trong khi lũ canh cửa nhà thổ có cặp mắt chó sói. Thú vui mà tôi nói ở đây là đứng ở tầng cao khu chứa hàng, tốt nhất là tầng hai hoặc ba rồi phóng mắt xuống con phố cách đấy chừng năm mươi mét. Con phố rất đặc biệt vì hàng giờ hàng phút đều có gái điếm đi qua. Hồi bắt đầu có nhận thức đầy đủ, thằng nhỏ trong quần tôi đã cương cứng khi nhìn xuống con phố đó, mà tôi không chắc lắm giữa cương cứng và nhận thức đầy đủ thì cái nào xuất hiện trước. Tôi cũng thừa nhận mình lưu giữ hình ảnh những cô gái trong đầu, đợi khi riêng tư thì rút "kiếm" – cái cách mà bọn đàn ông Băng Thổ diễn tả một cách hoành tráng thay cho danh từ ít hoành tráng hơn: dương vật – và thủ dâm. Chuyện càng thêm hay ho khi một thằng trong đội phu mõi được cái máy ảnh ở đâu đấy, sự thể về sau hẳn ai cũng biết. Dưới lớp đệm giường ọp ẹp của tôi có hẳn một xấp ảnh được trả giá hai thùng vàng, vài cái trong số chúng đã nhàu nát ít nhiều. Thật khó cho một thằng con trai đang tuổi lớn. Khì!
Khổ nỗi thủ dâm hàng ngày mà chẳng có hơi đàn bà thực sự khiến tôi chán chường. Hồi đầu còn thú vị, sau nản, cảm giác giống thằng bệnh hoạn tự biết mình bệnh hoạn vì không có khả năng hiện thực hóa sự bệnh hoạn đó. Nhưng nói vậy chứ tôi vẫn cắn răng bỏ thêm hai đồng vàng để nhập khẩu thêm tư liệu từ thằng chụp ảnh. Lý trí tuổi này non nớt bao nhiêu thì bản năng mạnh mẽ bấy nhiêu. Bọn choai choai luôn đầu hàng trước bộ ngực lẫn cặp giò đầy đặn, tôi cũng không ngoại lệ. Tôi dần cảm thông cho đám nghiện ngập, đầu óc tôi chẳng khác mấy bọn họ. Cuộc sống cứ như vậy mãi tới ngày tôi gặp chị...
Tôi bắt gặp chị trong một ngày như bao ngày, lúc ấy tôi đang cùng đám bạn chỉ trỏ xuống con phố quen thuộc và mồm miệng không ngớt bình phẩm tục tĩu. Chị đi cùng một cô gái điếm khác nhưng chẳng hề giống cô ta. Đám bạn của tôi để ý cô gái điếm kia vì bộ ngực phây phây cùng cặp mông mây mẩy của cổ, chỉ mình tôi để ý chị. Chị mặc chiếc váy không quá ngắn cũng chẳng quá dài, đôi bốt đen ôm chân cùng áo khoác cao cổ giữ ấm. Gái điếm phố này luôn cố ý hở hang chỗ nào đấy bất kể trời ấm hay rét cắt da, còn chị như cô gái bình thường đang tản bộ, chẳng hề quan tâm có ai ngó mình hay không. Đặc biệt nhất là mái tóc đen của chị. Tóc dài, ngọn tóc xoăn gợn sóng chảy xõa bên vai như che giấu điều gì đó mà nếu được, tôi sẽ hộc tốc chạy đến rồi bất chấp tất cả để hất nó lên. Khoảnh khắc ngắn ngủi, chị mất hút ở đoạn giao lộ, bỏ sau lưng đôi mắt ngờ nghệch và cái miệng há ra ngây ngốc của tôi.
Tối hôm đó tôi về phòng, lấy xấp ảnh đoạn rút "kiếm" như thói quen thường lệ. Giữa lúc ấy, hình ảnh chị hiện lên khiến tôi bần thần. Trong vô thức, tôi cất xấp ảnh đi, "kiếm" cũng xìu từ bao giờ. Có cái gì đó ngăn tôi làm vậy.
Thế giới này thật lắm điều kì lạ.
Té ra đấy không phải lần duy nhất tôi gặp chị. Chừng vài ngày sau, một vị quý tộc cùng đám kiếm sĩ hộ vệ đến cảng thuyền cạn, nghe đâu là đón bạn hàng quan trọng. Họ dừng chân ở khu chờ đặc biệt, chỉ số ít người qua lại trong đó có tôi đang chuyển hàng. Giữa đoàn người, tôi bắt gặp chị đứng bên vị quý tộc nọ, tay tôi luýnh quýnh suýt đánh rơi thùng hàng. Chị đẹp quá! – Tôi chỉ biết thốt lên như vậy, cũng lần đầu tiên tôi hiểu chữ "đẹp" là thế nào. Trên đôi guốc cao lẫn bộ váy đen thêu sợi kim cương, chị như vươn khỏi mặt đất và tách biệt hẳn với đám đàn ông. Giống lần trước, chị vẫn để tóc xõa. Nó chẳng hề rối rắm mà khiến chị càng thêm lộng lẫy, càng khiến tôi khao khát lật mái tóc ấy. Ông quý tộc lùn không ngừng ngước nhìn chị, đám kiếm sĩ đứng sau chồn chân vì mãi chẳng thấy chị ngoảnh lại cho họ thấy mặt, lũ phu thuyền may mắn như tôi được bước vào đây thì không thể chú tâm công việc vì mải ngắm chị. Giữa hàng chục cặp mắt ấy, chị chỉ nhìn về Đồng Gió như vị nữ hoàng đứng trên tất cả trông về điều xa xăm, còn lũ đàn ông lâu nhâu phía dưới chẳng bao giờ hiểu nổi điều xa xăm đó.
Một thoáng trôi qua, chị ngoảnh đầu nhìn quanh như chán vì đợi lâu. Các người, để tôi kể rõ chi tiết này. Nó quan trọng lắm nên tôi phải miêu tả rõ! Nghe này, chị ngoảnh đầu sang và nhìn tôi. Thực sự là thế! Chị nhìn tôi đứng trên tầng lửng phòng chờ. Lần đầu tiên tôi thấy rõ dung diện lẫn đôi mắt sắc của chị. Đôi mắt ấy tựa thể chiếc lá liễu mà bén như mũi kiếm phủ lấy tôi. Tôi cứng người, năm ngón chân khum lại, bấu mạnh ngăn cơ thể sụm xuống. Rồi chị mỉm cười với tôi, không phải điệu nhếch mép khinh khi, chẳng giống cái cười khẩy miệt thị, chỉ là cười. Chị cười vừa trìu mến vừa trêu chọc, khuôn môi son màu đỏ phớt kiểu muốn nói "Nhóc phu thuyền nhìn chị dữ vậy?!". Bị đôi mắt sắc lẫn nụ cười đó áp đảo, tôi bối rối chùn chân. Dùng từ "bối rối" để tả một thằng nhóc Băng Thổ lớn xác như tôi thực bất đồng điệu, nhưng quả thực tôi rất bối rối, thậm chí ngượng ngùng.
Vị khách đến, đoàn người rời đi cùng ông ta, đôi mắt chị tiếp tục lướt qua tôi lần nữa. Đợi lúc họ hoàn toàn biến mất sau cánh cửa nhà chờ, tôi mới nhận thức chân mình hóa đá còn thùng hàng rớt khỏi tay từ lúc nào. Đêm đó về phòng, tôi chỉ mơ tưởng về chị, hoàn toàn quên khuấy chuyện thủ dâm. Tôi không nghĩ thằng nhóc mười sáu tuổi lúc nào cũng hừng hực khao khát làm tình lại quên dễ dàng chuyện thủ dâm như thế.
Thế giới thật lắm điều kì lạ.
Tôi từng nguyền rủa Vạn Thế cho mình thân phận con hoang, nhưng chính tôi cũng tạ ơn cây mẹ vì ban cho may mắn. Đợt tháng 6, hàng hóa phong phú, cảng thuyền lắm việc, lão quản đốc bảo tôi tăng ca lúc ba giờ sáng. Bốc hàng, lau dọn, chuyển hàng... làm việc tầm ấy đã mệt lại buồn ngủ, ban đầu tôi rất ghét. Nhưng vào một ngày đáng ghét như thế, tôi bắt gặp chị bước ra từ khu chợ cảng, trên tay là một bó hoa. Tôi không biết hoa gì vì lũ đàn ông Băng Thổ ngu nhất chuyện định dạng thực vật, chỉ biết hoa nhiều tầng cánh màu hồng phớt, đẹp đẽ vô khuyết như chính chị vậy. Tôi không biết chị vừa ngủ dậy hay đi làm về song chị vẫn đẹp tựa thể có quy luật mặc định rằng hễ xuất hiện giữa cõi đời này, chị luôn đẹp. Tôi vô thức theo chị, đến khi chị dừng chân bên máy bán nước tự động, tôi ngừng bước rồi ngơ ngẩn ngắm nghía. Phát hiện sự có mặt của tôi lẫn vẻ ngô nghê mà tôi mang trên mặt, chị nghiêng đầu cười:
-Ồ, nhóc phu thuyền! Chúng ta lại gặp nhau!
Chị nhớ tôi! Chị nhớ thằng ôn con phu thuyền giống bao thằng ôn con phu thuyền khác vốn chẳng bao giờ lọt vào mắt ai. Trí óc ngập tràn vui sướng lại nảy lật bật những cục hồi hộp, tôi gần như á khẩu, hầu như chẳng thể kiểm soát cái lưỡi hay những ngôn từ sắp thốt ra. Nhưng thật may, trước khi tôi kịp phun lời ngu si nào đấy thì chị nói:
-Nhóc làm giờ này à? Không mệt sao?!
Tôi gật gật đầu rồi cười cười một cách đần độn. Chị cười mỉm đoạn chỉ vào cốc trà thiết mộc trên tay mình, ý hỏi tôi muốn uống hay không. Tôi lắc đầu. Chị hớp ngụm trà, khuôn miệng nhỏ thở làn khói lạnh, thi thoảng cười như biết tôi đang ngây dại ngắm nghía chị. Lần đầu tiên tôi được nhìn chị kỹ càng như thế. Tôi nhận ra chị sở hữu vóc dáng cao gầy, sống mũi cao lẫn đôi mắt to của phụ nữ Băng Thổ - điều mà các cô gái Đông Thổ khao khát điên cuồng, mà gương mặt chị nhỏ nhắn thanh tú như phụ nữ Đông Thổ - điều mà các cô gái Băng Thổ luôn thèm muốn. Chị là con lai như mảnh đất Đồng Gió giao giữa hai lục địa. Bần thần mãi, mãi, mãi, mãi, tôi mới líu ríu mở mồm:
-Chị mua hoa?
-Ừ! – Chị cười.
-Hoa gì thế?
-Hoa trà. – Chị trả lời.
-Sao lại mua lúc này? Mà mua hoa lúc nào chẳng được?
Chị lắc đầu:
-Hoàng Hôn Cảng ít đất trồng, hoa trà hiếm, may ra ở vườn nhà đám quý tộc thì có. Hoa nhập ở tây bắc lục địa về đây, mua sớm được rẻ hơn. Nhóc biết đám lái buôn người Xa Vịnh quốc chứ? Khó mặc cả với họ lắm, chỉ còn cách này thôi!
Tôi gật gật. Nhìn bó hoa rồi nhìn chị, tôi càng thêm ngượng ngùng, người ngợm thu lu co rúm. Các người hẳn sẽ phì cười nếu chứng kiến bộ dạng tôi lúc ấy, cứ tưởng tượng một con gấu to uỵch cuộn tròn vào bụng nó trông thế nào thì tôi y hệt vậy. Chị lại hỏi tôi uống hay không, lần này tôi đồng ý. Chị mua cho tôi cốc trà rồi cười:
-Lần sau gặp nhé!
Chị bước đi, mái tóc đen gợn sóng khẽ rung nơi bờ vai nhưng vẫn không chịu hất lên để tôi trông thấy điều ẩn giấu bên dưới. Chẳng để tâm trà nóng bỏng tay, tôi cứ nhìn theo không biết chán. Một thoáng giật mình, tôi cất bước gọi với:
-Khoan... chị tên gì?
Bấy giờ chị dừng chân, đầu hơi ngoảnh lại:
-Mục Á.
Kể từ đó, tôi đem cái tên "Mục Á" lên giường ngủ thay vì dán mắt vào ảnh gái điếm. Nhưng tôi không mường tượng chị để thủ dâm. Chưa một lần. Chưa bao giờ. Tôi đặt cái tên "Mục Á" ở nơi đẹp đẽ nhất, trang trọng nhất mà một thằng ôn mười sáu tuổi có thể nghĩ ra. Đêm ấy tôi không ngủ nổi vì trà thiết mộc, vì chị, vì cái tên chị, vì cái đẹp của chị, vì "Mục Á". Thế giới thật lắm điều kỳ lạ.
Cũng kể từ đó, tôi yêu thích công việc ba giờ sáng. Tôi làm cật lực, hăng say lẫn hồi hộp mong chị quay lại. Và đúng là chị quay lại thật. Tháng 6 năm ấy hoa trà về nhiều, chị tới thường xuyên, tôi có dịp trò chuyện cùng chị nhiều hơn, lúc nói chuyện xã giao, lúc vài câu vô thưởng vô phạt nào đấy về đám con buôn gian manh người Xa Vịnh quốc. Khi đã quen hơn, tôi hỏi chị làm ở đâu. Chị không giấu giếm:
-Đông Môn Cao Lầu, nhóc biết chứ? Ừ, chị làm gái ở đó.
Tôi không lạ. Đông Môn Cao Lầu nổi tiếng nhất Hoàng Hôn Cảng vì tập trung những gái làng chơi đẹp nhất. Vấn đề là chị nói tự nhiên như thể công việc hành chính. Tôi đồ rằng trong hàng ngũ mười cô đẹp nhất Đông Môn Cao Lầu, chị xếp thứ nhất và bỏ rất, rất, rất, rất xa người đứng thứ hai. Rồi chị hỏi tên tôi. Vì chị thực lòng nên tôi cũng trả lời thành thực. Nghe tên "Ly Đốc" của tôi, chị nhíu mày:
-Ly Đốc? Uyjiluk? Chẳng bà mẹ nào đặt tên con mình như thế... là quản đốc đặt cho, đúng không?
-Ừ... – Tôi gật gật – Em bị mẹ bán, lão quản đốc kể thế.
-Ồ?! Xin lỗi nhóc! – Chị ngạc nhiên.
Mắt chị hơi mở lớn, chị thực sự ngạc nhiên trước việc tôi cho là bình thường. Tôi căm ghét thế giới nhưng không cần chị an ủi. Đàn ông Băng Thổ không cần ai cảm thông. Nhưng chị không nói, chỉ cười đoạn nghiêng đầu về phía máy bán hàng tự động:
-Bia không?
Tôi gật đầu ngay. Tôi ngắc ngứ một cốc trà thiết mộc cả buổi chứ bia thì dăm mười chai không vấn đề, bọn phu thuyền vốn nốc đồ cồn từ bé. Tôi tu một hơi dài đoạn thở phà hơi khói giữa trời rét căm căm. Chị uống trà, nhìn tôi bằng cái nhìn dành cho gã đàn ông trưởng thành. Bỗng thấy tôi mím môi, làm bộ mặt ra vẻ căng thẳng học đòi người lớn, chị phì cười. Chị giấu nụ cười sau cổ tay, sau lòng bàn tay ửng hồng vì lạnh, sau những ngón tay thanh dài đầy đặn, sau vài tơ tóc rối khẽ rung lên vì gió từ ngoài Đồng Gió ập vào. Tôi lại si đần thêm lần nữa như nhà thám hiểm vừa khám phá ra kỳ quan mới. Chị nói với tôi:
-Lần sau gặp nhé!
Phải, lần sau. Tôi tự nhủ, hy vọng sẽ khám phá thêm điều gì khác về chị, hy vọng lúc nào đấy chị sẽ vén mái tóc đen lên để tôi được thấy điều tuyệt vời bên dưới. Những tháng gặp gỡ chị, tôi hầu như chẳng thèm để ý con phố gái điếm hay những xấp ảnh. Có đợt thằng chụp rao bán ảnh gái khỏa thân, lũ bạn giành giật nhau mua còn tôi hoàn toàn bàng quan. Bởi lẽ hình ảnh chị lấp đầy tâm trí tôi mất rồi.
Nhưng bẵng đi nửa tháng, một tháng rồi ba tháng, chị chẳng quay lại khu cảng dù đang mùa hoa trà. Tôi chờ mãi, cố trông về cửa chính khu cảng nhưng chẳng gặp chị. Thậm chí tôi chạy đi hỏi đám con buôn Xa Vịnh quốc nhưng họ không biết (mà có biết họ cũng không trả lời miễn phí, đám Xa Vịnh luôn bẩn tính!). Ngay cả con phố quen thuộc cũng không còn bóng chị nữa. Tôi đâm lo lắng, không biết chị đi đâu hay sức khỏe thế nào. Thi thoảng tôi ra chỗ máy bán hàng tự động, dằn lòng dốc túi tiền ít ỏi mua cốc trà thiết mộc mà chị thường uống. Tôi có kể về chị cho một đứa bạn thân làm cùng đội phu, thằng này cũng con hoang, lớn lên cùng tôi từ tấm bé. Nó nói:
-Gái điếm thôi mà?! Mày nghĩ gì thế? Thôi nào bạn tôi, chỉ là gái điếm thôi! Gom tiền từ bây giờ đi, khi nào đủ thì đi quậy! Hê hê!
Phải, chỉ là gái điếm thôi mà! – Tôi tự nhủ. Những tháng thiếu vắng chị, tôi trở lại cuộc sống trước kia: làm việc từ sáng đến tối, lúc rảnh rang thì tìm chốn riêng tư giải quyết nỗi bức xúc của thằng ôn hừng hực tuổi lớn. Nhưng thề trước Vạn Thế, trong mọi khoảnh khắc rùng mình năm giây hay kể cả trước đấy, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chị. Chị ở trong căn phòng đẹp nhất ở tim tôi, hễ tôi nổi cơn ham muốn thủ dâm thì căn phòng lập tức đóng sập lại. Nó chỉ hé mở khi tôi lang thang quanh cảng lúc ba giờ sáng và mở toang lúc chiều muộn, khi tôi trèo lên tường thành ngắm thuyền cạn trượt xuống Đồng Gió. Giữa giá rét bạt ngàn phương bắc, tôi mới được phép bước vào căn phòng ấy để ngắm nghía, nâng niu hình ảnh của chị.
Thế giới lắm điều kỳ quặc.
Dạo nọ, lão quản đốc nhận chở thực phẩm đến bữa tiệc cho một nhà quý tộc. Quý tộc Băng Thổ đãi khách hậu, họ không quan tâm thực phẩm thừa mứa ê hề cỡ nào, miễn sao hoành tráng. Nhờ lần đó, tôi được tận mắt thấy những lâu đài chóp nhọn, những cánh cửa sắt trang trí hoa văn, những bờ rào tỉa tót đều tăm tắp, những khu vườn trồng vô vàn thực vật lạ mắt lẫn bọn quái vật không trung vốn chỉ nghe đồn như vân cước hay thiên tặc. Lần đầu tiên tôi trông thấy đám quý tộc ăn vận sang trọng, các cô tiểu thư xúng xính váy đầm cùng mái tóc vấn cao. Đương mải chuyển hàng, tôi chợt ngây người. Bởi lẽ đôi mắt tôi trông thấy chị. Chị ở giữa bữa tiệc, khoác bộ váy đỏ thêu họa tiết màu hoàng kim, đôi mắt sắc kẻ mi cong vút cùng đôi môi thắm đỏ, chỉ duy mái tóc đen vẫn xõa dài. Tôi nhận ra trong bán kính mười mét từ chỗ chị đứng, đám đàn ông lẫn đàn bà đổ dồn ánh mắt về phía chị. Và cái bán kính đó càng lúc càng rộng, tới độ nhiều người lầm tưởng bữa tiệc tổ chức dành cho chị. Nhìn cách chị cười nói với người đối diện, cách chị giữ ly rượu vang bằng ngón nhẫn và ngón giữa, tôi bỗng thương hại cho đám quý cô học đòi làm thượng lưu hay kể cả những tiểu thư thừa hưởng dòng giống thượng lưu. Dường như chị chẳng cần học ai, cứ kiêu lộng lẫy tự nhiên như thể Vạn Thế đã ban cho chị đặc ân đó. Đến nỗi tôi có thể dùng tay trần bới lên vô số sự ghen tị trong ánh mắt của những cô tiểu thư đài các đang nhìn chị.
Một thoáng qua đi, chị nhìn quanh và chợt trông thấy tôi. Chị ngạc nhiên, sau đi tới với những bước chân thanh thoát trên đôi guốc cao. Chị nghiêng đầu cười như lần đầu gặp gỡ:
-Nhóc phu thuyền cũng đến đây sao? Lâu quá không gặp, khỏe không?
Tôi bàng hoàng. Vẫn là chị Mục Á tôi quen biết, nhưng sao chị khác quá! Chị như bà hoàng đứng từ đỉnh cao trông xuống dù tôi cao bằng chị. Chợt thấy người ta chú mục về chỗ này, tôi vội chào trả rồi bỏ đi trong sự ngỡ ngàng của chị. Tôi kiếm chỗ nấp, thấy chị vẫn chờ đợi, tôi bèn trốn kỹ hơn. Đợi khi chị đi khỏi, tôi mới quay lại công việc.
Đêm đó về phòng, tôi chợt hiểu chị thuộc về nơi nào đấy xa xôi diệu vợi hơn cả Đồng Gió. Tôi, dù cách này hay cách khác, dù cố gắng thế nào chăng nữa, dù đàn ông cỡ nào đi nữa cũng chẳng đến được mảnh đất đó. Tôi từng có mộng tưởng về chị, nhưng sau lần gặp gỡ này, tôi chợt nhận ra mộng tưởng chỉ là ảo tưởng. Chị ghé chân khu cảng mua hoa như ánh trăng bàng bạc tìm chốn vắng lặng nghỉ chân, để vài con thú hoang như tôi ra chơi đùa mà không hề biết rằng phía sau ánh trăng ấy là vầng mặt trời rực rỡ khắp thế gian và khiến vạn vật phải phủ phục. Không bao giờ, không cách nào, không một phương thức nào, không một phép thuật thần kỳ nào để tôi có được chị. Tôi buồn. Nỗi buồn xa xôi chẳng thể khỏa lấp.
Nhưng thay vì nảy sinh bực tức, nỗi buồn lại khiến tôi cầu Vạn Thế ban điều tốt đẹp cho chị và chúng nhất – định – phải – là những điều tốt đẹp nhất. Quả thực tôi cầu rằng chị phải sánh vai bên người đàn ông tuyệt vời nào đấy, không phải quý tộc cũng chiến binh hạng nhất, hoặc chí ít là thánh sứ tên tuổi. Cuộc đời chị từ giờ đến lúc biến mất khỏi thế giới phải ngập tràn hạnh phúc. Nếu có thể làm điều gì đó cho chị hạnh phúc, tôi sẽ làm. Lần đầu tiên tôi ước ao như thế. Lạ quá! Sao lạ quá! – Tôi tự nhủ. Tôi luôn chửi thầm lão quản đốc cùng mẹ lão mỗi khi lão đánh tôi, tôi cũng thừa nhận mình luôn bắt nạt đứa đàn em ít hơn năm tuổi, có lúc nguyền rủa vô cớ một đứa trẻ đi ngang qua đường chỉ vì nó mặc quần áo đẹp, trêu chửi gã vô gia cư què chân và lấy việc gã bò lết vỉa hè làm thú trêu chọc. Vì là con hoang nên tôi căm thù cả thế giới. Tôi là thằng khốn, một kẻ xấu, một đứa mất dạy.
Vậy mà tôi đang làm gì? Tin được không? Tôi cầu cho chị hạnh phúc! Tại sao chị không cho tôi dấy lên bất cứ ý nghĩ xấu xa nào? Nghĩ vậy tôi liền vọc tay vào quần, thủ dâm rồi tưởng tượng chị là con điếm đang quẫy đảo trên người mình, vừa kêu rên vừa thở ra mấy câu tục tĩu mà bất cứ thằng đàn ông nào cũng muốn nghe. "Mạnh mẽ lên nào Ly Đốc, nhóc thích chị Mục Á, đúng không? Mạnh nữa lên nào!" – Tôi tưởng tượng vậy hòng làm ô uế hình ảnh chị. Nhưng mọi việc chẳng theo ý tôi muốn. Càng tưởng tượng, tôi càng thấy có lỗi với chị, tới khi không chịu được thì bật dậy rồi vùi mặt trong lòng bàn tay. Tôi không thể làm vậy với chị. Có gán bao nhiêu ngôn từ "con điếm", "nhà thổ" hay "Sukka" cho chị, chị vẫn không hề bị dây bẩn. Nhưng nỗi buồn còn nguyên đó, tôi không thể gạt nó ra khỏi đầu.
Tôi giữ nỗi buồn ấy cho đến một tuần sau, tôi bắt gặp chị quay lại khu cảng mua hoa. Tôi tránh đi chỗ khác và âm thầm theo dõi. Chị ra chỗ máy bán hàng tự động mua cốc trà, thỉnh thoảng nhìn quanh quất. Chị tìm tôi chăng? Không! – Tôi tự nhủ. Đời nào chị để ý thằng nhãi con phu thuyền như tôi? Chẳng qua chị nhìn theo thói quen. Lúc đó thâm tâm tôi nảy ra vô số ý nghĩ bồng bột. Tôi muốn thấy chị đau đớn, muốn thấy đôi mắt sắc lá liễu của chị phải rỏ lệ, muốn thấy hình ảnh chị hoen ố để tôi thoát khỏi nỗi khổ sở này – nỗi khổ mà ta không thể nghĩ xấu xa về người khác dù chỉ một chút. Nó quá phi thực!
Chị đứng đó nửa tiếng rồi rời khu cảng, tôi liền bám theo. Tới con hẻm vắng thiếu ánh đèn, nhận ra nơi này ít người qua lại, tôi nắm chặt tay. Tôi biết mình khỏe hơn chị, biết rõ những góc khuất đằng kia sẽ ngăn cản âm thanh thoát ra ngoài, thậm chí nếu tôi bóp cổ đủ lực thì chị muốn rên cũng khó. Ở khoảnh khắc đó, tôi muốn cưỡng hiếp chị, muốn bôi bẩn chị để thế giới này đúng nghĩa là cái thế giới mà tôi luôn căm thù, để tôi luôn xấu xa và không thể trở thành người tốt. Có vẻ chị không hề biết có người theo đuôi, tôi dợm chân chuẩn bị kế hoạch dơ bẩn. Nhưng càng gần bao nhiêu, tôi càng thấy rõ mái tóc đen hờ hững bên vai chị bấy nhiêu, ngửi được cả mùi dầu thơm từ mái tóc. Tôi chợt nhớ mình đã luôn muốn vén mái tóc ấy lên như thế nào. Đồng thời tôi nhận ra mình sẽ bị Vạn Thế trừng phạt thảm khốc nếu dám động vào chị.
-Ai đấy?
Như nhận ra người theo đuôi, chị quay lại. Đúng khoảnh khắc đó tôi nhào đến giật phăng chiếc túi xách trên tay chị rồi chạy một mạch. Tôi nghe bó hoa rơi trên đất, nghe được đôi chân chị đuổi theo nhưng chẳng có tiếng la hét nào. Tôi hộc tốc chạy khỏi hẻm vắng, vòng qua khu phố kế bên rồi theo dõi sự tình từ một chỗ kín đáo. Tôi thấy chị lao ra ngoài, đôi mắt sắc nhìn quanh quất. Chửi bới đi! La hét đi! – Tôi tự nhủ. Gái điếm coi tiền như mạng, bị cướp chắc chắn chửi mà đã chửi thì ngoa ngoắt. Tôi muốn trông thấy chị giống con người, giống cái dạng thực thể mà tôi luôn thấy hằng ngày và luôn căm ghét. Nhưng tôi chờ mãi mà chị chẳng phản ứng, chỉ lẳng lặng quay lại khu hẻm nhặt bó hoa ra về. Đêm đó rồi cả ngày hôm sau chẳng có cảnh binh nào lai vãng khám xét, dường như chị không báo mất cắp. Tôi đem chiến lợi phẩm về phòng mà buồn rười rượi, buồn hơn cả lúc tôi hiểu sự thật rằng mình chẳng cách nào sở hữu chị. Mà liệu chị nhận ra tôi? Hôm nay tôi mặc bộ quần áo khác, hẻm tối hù, chắc chị nhìn không ra. Vả lại chị quanh năm gặp gỡ hàng trăm con người, sao nhận ra được? – Tôi lắc đầu cười.
Để xua tan nỗi buồn, tôi lục túi xách của chị, bới ra son phấn, ít tiền lẻ, vài tờ hóa đơn và một chiếc đồng hồ đeo tay nạm ngọc trắng gân đỏ. Tôi không rõ ngọc gì cũng chưa từng thấy thứ ngọc nào lấp lánh ánh gân đỏ màu máu như thế, chỉ đoán nó rất mắc. Hẳn giờ này chị nước mắt ngắn dài vì mất chiếc đồng hồ quý giá. Tôi từng khao khát đôi mắt lá liễu của chị rơi lệ nhưng vừa mường tượng cảnh đó, phổi tôi thắt lại như có ngụm nước đá chảy tộc xuống cuống họng. Nhưng vì nỗi quyết tâm làm kẻ xấu, tôi đem bán chiếc đồng hồ ở quận tây thành phố. Tôi vẫn nhớ rõ gương mặt gã chủ tiệm đồ cũ há hốc mồm nhìn chiếc đồng hồ như thế nào, tưởng chừng nhét cả con bò vào vẫn lọt. Gã trả tôi sáu mươi thùng vàng, tôi không chịu mà đòi cao hơn, cuối cùng ngã giá một trăm thùng vàng. Một trăm thùng vàng! Tôi chưa từng thấy xấp giấy bạc nào nhiều như vậy!
Chắc mấy người cũng đoán được chuyện tiếp theo. Tôi cắt tóc, sắm bộ quần áo thật bảnh, lò dò tới quận đông rồi dúi tiền cho đám bảo kê để chúng khỏi quan tâm tôi đủ tuổi hay không. Lần đầu tiên tôi biết những loại rượu mạnh đến mức đủ sức đánh gục thằng đàn ông Băng Thổ mạnh mẽ nhất, những mùi hương đàn ông và đàn bà quấn lấy nhau, những làn khói đặc quánh đầy chất ma dược khiến người ta mất nhận thức về thời gian. Và gái điếm. Trước mặt một cô gái điếm nọ, tôi huyên thuyên đủ thứ, bốc phét những điều hay ho thuộc về tôi mà thực sự là chúng thuộc về người khác. Tôi thấy lạ. Tôi có thể buông lời tán tỉnh không biết sượng mồm với đám gái điếm, mà sao trước mặt chị, tôi như con thú hoang khúm núm sợ sệt trước ánh trăng lộng lẫy? Nghĩ ngợi ít lâu, tôi phẩy tay. Tôi không quan tâm chị nữa, chỉ biết là tôi sắp lên giường với một cô gái. Trông cô bốc lửa hơn chị nhiều!
Sau cơn quay cuồng, tôi lên giường với cô gái nọ. Rốt cục tôi cũng được thấy, được sờ, được vày vò, được nuốt vào miệng bộ ngực đàn bà mà tôi luôn thèm thuồng mỗi khi thủ dâm. Nhưng giữa lúc đó, tiếng đạp cửa vang lên, kế đến là tiếng ả điếm hú hét. Ai đấy hay cái gì đấy đập mạnh vào đầu tôi khiến tôi ngã lăn ra đất. Tôi vùng dậy cố gắng chống trả. Tôi đánh nhau được, xưa nay chưa từng cam chịu, cũng gọi là thằng đầu bò đầu bướu trong đội phu. Nhưng rượu lẫn ma dược làm tôi mềm nhũn dưới trận đòn như mưa trút. Tôi thấy lũ người đánh mình gồm năm sáu gã, trông có vẻ giống kiếm sĩ, phía sau chúng là một tay trẻ măng. Tôi nhận ra gã trẻ măng là quý tộc dựa vào bộ y phục sang trọng và cách bọn kiếm sĩ gọi gã là "Múy" – phiên âm chữ Muj phương ngữ Băng Thổ dùng để chỉ người có địa vị cao. Gã Múy đó cúi xuống đoạn chìa ra chiếc đồng hồ nạm ngọc trắng gân đỏ, chính là chiếc tôi đã bán. Tôi giật mình. Gã Múy gằn giọng:
-Mày biết cái gì đây không? Đồng hồ khảm quang tố! Mày biết quang tố là hàng cấm không? Mày biết phải thân quen quan chức chính phủ cỡ nào mới có nó không? Mày biết lọc được đoạn bụi quang tố rồi nén chúng thành hạt như vậy tốn công thế nào không?
Gã vừa nói vừa chỉ chỉ vào chiếc đồng hồ. Khi tôi nhận thức được rằng bán cả gia tài cũng đừng hòng mua nó thì trận đòn tiếp tục giáng xuống. Tôi bắt đầu sợ chết. Tôi biết mình sẽ bị đánh chết và sẽ chẳng ai quan tâm tôi chết vì tôi là con hoang. Ngay khi nỗi sợ lên tới đỉnh điểm, tôi bỗng thấy tiếng chị đâu đây:
-Thôi đừng đánh nữa, thế là đủ rồi!
Tiếng chị vừa dứt, cơn mưa đòn lên tôi cũng dứt. Bằng cặp mắt đầy máu sưng húp, tôi thấy chị đứng cạnh gã Múy nọ và thì thầm chuyện gì đấy với gã. Chị nói tới đâu, mặt gã dãn ra đến đấy. Sau rốt nhờ chị mà tôi được tha. Tôi thấy chị nhìn cơ thể trần như nhộng của tôi, gương mặt chẳng chút biểu cảm như vị nữ hoàng trông xuống kẻ phạm nhân vừa chấp hành xong hình phạt. Đám người bỏ đi, chị cũng bước theo và không nhìn tôi thêm lần nào nữa.
Bằng chút sức lực ít ỏi, tôi lết khỏi quận đông rồi vạ vật trên con hẻm cho người vô gia cư – cái nơi mà tôi vẫn thường ghé qua để trêu chửi gã vô gia cư què chân. Tôi nghĩ về chị. Hẳn chị đã báo cho người tình quý tộc, tay đó nổi điên rồi lùng sục khắp thành phố, cuối cùng tìm ra tôi. Tôi giận chị. Nhưng tôi nhận ra mình xứng đáng bị như vậy. Tôi định cưỡng hiếp và bóp cổ chị, tôi định giày vò chị chỉ vì không tìm nổi lý do để ghét chị, để gán điều xấu xa nào cho chị. Tôi xứng đáng bị như thế, Vạn Thế luôn công bằng. Nghĩ tới đó, tôi mỉm cười. Đến giờ phút này tôi vẫn không thể ghét nổi chị mà thực lòng mong chị hạnh phúc, vậy nên tôi vui sướng khi mình trở thành tạo vật đáng tởm trong mắt chị, trở thành thứ mà chị căm ghét. Bởi lẽ ấy chị sẽ không gặp tôi, không nhen nhóm bất cứ ý định thoát khỏi cái vỏ "thằng mất dạy" mà tôi đã khoác trên người từ bé. Và tôi có lý do để tiếp tục căm thù thế giới này như tôi đã từng.
Nhưng khi gặp Na Li Nã, tôi biết mọi chuyện không phải thế. Na Li Nã – cô gái điếm có bộ ngực phây phây mông mây mẩy thường đi chung với chị mà tôi vừa kể ở trên – bắt gặp tôi trên phố. Cổ lôi tôi ra chỗ vắng rồi chửi xối xả. Cổ nói gã Múy nọ là con của một trong những nhà tài phiệt thế lực nhất thành phố và cả đất nước này, gần xêm xêm với họ Thát nổi tiếng. Gã không tiếc quà tặng chị kể cả chiếc đồng hồ nạm quang tố. Na Li Nã kể chị biết tôi chôm chỉa ở con hẻm vắng đó nhưng không báo cảnh binh vì sợ tôi gặp rắc rối. Gã Múy căn vặn hỏi chiếc đồng hồ, chị đáp ráo hoảnh rằng vì bất cẩn mà đánh mất. Gã Múy nổi khùng nhưng không dám đụng vào chị nên cho người lùng sục khắp Hoàng Hôn Cảng và tóm được tôi. Nghe xong chuyện, tôi bỗng thấy tội lỗi. Gã Múy nọ chắc chắn không phải loại người dễ kiên nhẫn, giả sử không tìm được chiếc đồng hồ, gã sẽ làm gì chị? Tôi không dám tưởng tượng. Đêm hôm ấy tôi không ngủ được vì khóc. Tôi đẩy chị vào rắc rối thậm chí nguy hiểm. Tôi không muốn thế. Cũng đêm đó, tôi nhận ra làm kẻ xấu tồi tệ đến mức nào.
Thế giới này thật kỳ lạ...
Dăm hôm sau, tôi kết thúc công việc lúc ba giờ sáng thì bắt gặp chị bước ra từ khu chợ cảng, trên tay là bó hoa trà trắng. Hoa đẹp đẽ thanh khiết như chị vậy. Tôi thấy chị, chị cũng thấy tôi. Tôi cúi đầu toan chạy thì chị gọi:
-Hèn vậy sao, nhóc?
Tôi dừng chân, máu nóng sôi não. Tôi không hèn, đàn ông Băng Thổ không biết chữ "hèn"! Tôi liền quay lại, chậm chạp bước đến sẵn sàng nghe chị chửi bới. Chị có quyền làm vậy, chị được quyền làm vậy và Vạn Thế cho phép chị làm vậy. Nhưng rồi chị vén mái tóc xù xịt của tôi, rờ nhẹ những vết sưng bằng ngón cái và ngón nhẫn. Tôi thấy rõ bàn tay chị thuôn dài đẹp đẽ tựa hồ đôi cánh thiên nga trắng muốt. Tôi thoáng rùng mình, sợ rằng mồ hôi đương nhễ nhại khắp trán mình sẽ làm vấy bẩn đôi cánh ấy. Nhưng chị không để tâm, chỉ cười:
-Bia không?
Tôi gật đầu. Chị mua bia cho tôi, lần này thay vì trà, chị uống bia cùng tôi. Cũng như bao lần, chị im lặng và để tôi ngắm chị, hoàn toàn không đề cập sự vụ đáng xấu hổ mấy ngày trước. Nhưng tôi không thể im lặng mãi. Tôi cảm thấy mình sẽ vô cùng hèn hạ nếu không lên tiếng xin lỗi. Thu hết can đảm, tôi mở lời:
-Chị Mục Á...
Tôi chưa nói xong, chị đã cướp lời:
-Ở đây có chỗ nào hay ho không? Ý chị là nhóc thích ngồi ở đâu nhất?
Tôi bối rối, sau thành thực đáp rằng mình thích ngồi trên đỉnh đường ray thuyền cạn nhất. Chị bảo tôi đưa mình đến đó, tôi ngập ngừng từ chối nhưng tim phổi mềm nhũn khi nghe chị nài nỉ. Tôi bỗng hiểu tại sao gã Múy nọ chịu nghe lời chị như thế. Tôi dẫn chị ra khu tường thành rồi đưa lên đỉnh đường ray bằng thang máy. Tôi lại hỏi chị lần nữa, giọng hơi run:
-Người yêu của chị, anh ta còn giận không?
-Người yêu? – Chị phì cười – Thằng cha đó? Không, làm ăn thôi, nhóc à! Moi được đồng nào của gã thì moi, chẳng yêu đương gì cả!
-Sao vậy? Anh ta là quý tộc giàu có mà? – Tôi ngạc nhiên.
Thang máy mở cửa, chị vừa đi vừa lắc đầu:
-Nổi khùng vì chiếc đồng hồ rồi đem người đánh một đứa trẻ con, yêu loại người như vậy được không? Mà hắn có cái đồng hồ ấy nhờ cha hắn, không phải hắn. Thà làm mẹ hắn còn hơn là làm vợ. Chị không ngu đâu nhóc!
Nghe chị nói thế, lòng tôi bỗng chộn rộn. Vui nữa!
Đỉnh đường ray là nơi lạnh nhất khu cảng, gió buốt tạt lộng óc, ngay cả kĩ sư bảo dưỡng đường ray còn ngán. Nhưng chẳng hiểu sao đêm ấy gió lặng, thi thoảng mới rãy lên vài đợt, bầu trời quang đãng mở ra cả vũ trụ đầy sao cùng ba mặt trăng xoay quanh thế giới Tâm Mộng. Tôi dám khẳng định rằng vì chị xuất hiện ở đây nên Vạn Thế làm thời tiết bớt khắc nghiệt. Chị vươn vai hít hơi lạnh căng lồng ngực đoạn ngồi xuống ngắm nhìn Đồng Gió phía xa. Tôi nhớ cái ngày chị nhìn về Đồng Gió như vị nữ hoàng trông về điều xa xăm, giờ vẫn vậy. Chị bảo tôi ngồi cùng, tôi nghe theo và cùng chị trông về Đồng Gió. Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy miền đất hoang mạc đơn điệu ấy đẹp xa xôi, đẹp diệu vợi như thế.
-Nhóc sống khó khăn hả? – Chị bỗng cất lời – Phu thuyền mà, khó hơn cả đám Sukka bọn chị nữa! Nhưng đừng trộm cắp, nhóc không phải loại người đó.
Tôi hơi run rẩy. Tôi muốn kể cho chị nghe lý do tôi hành động như thế. Nhưng nghĩ lại, nó thật khùng điên, tôi sợ chị sẽ đánh giá mình là kẻ điên khùng. Tôi muốn thú tội rằng có lúc tôi cố dùng hình ảnh chị nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lý, nhưng tôi không có gan nói. Đấu tranh tâm tư liên tục, lưng tôi chảy đẫm mồ hôi dù trời lạnh ngắt. Thấy vậy, chị vén tóc qua một bên và chống má nhìn tôi trìu mến:
-Nhóc muốn nói gì nào?
Tôi nhớ khoảnh khắc ấy. Tôi nhớ rõ khoảnh khắc ấy, suốt đời không quên! Bởi dưới ánh trăng bạc, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất tôi được thấy nửa sau cổ của chị - cái điều huyền bí nằm dưới mái tóc đen mà tôi vẫn luôn thắc mắc. Nó hơi gồ lên đốt xương sống, thẳng và hơi dài. Chữ "hơi dài" nghĩa là nằm trên trung bình một chút. Chỉ một chút để tôi biết chị có cổ hơi dài chứ không lấn sang khái niệm "dài". Nó đẹp đẽ, đẹp qua cả ngưỡng thuần khiết, hơn cả bó hoa trà trắng nằm trong lòng chị. Dưới ánh trăng bạc, tôi nhận ra chị như thiên nga. Đàn ông Băng Thổ tàn nhẫn máu lạnh nhưng phải tan chảy trước thiên nga. Đàn ông Băng Thổ chưa bao giờ giết thiên nga. Tôi cũng vậy. Ngay khoảnh khắc đó, tôi bưng mặt khóc. Tạ ơn Vạn Thế! Tôi thầm cảm ơn cây mẹ khéo sắp đặt, khiến con quỷ bên trong tôi chưa vọt ra vào cái ngày theo chị vào con hẻm vắng. Và tôi tạ ơn cây mẹ cho tôi được chứng kiến điều mà bao thằng đàn ông Hoàng Hôn Cảng khao khát mỗi khi ngắm chị. Tôi khóc rưng rức còn chị cười lớn:
-Này sao thế? Đừng như vậy chứ! Này nhóc, đàn ông Băng Thổ không khóc vì phụ nữ đâu! Đàn ông Băng Thổ khóc ngoài chiến trường, hiểu chứ hả? Khó coi quá!
Tôi gật gật, mũi sụt sịt. Chị liền đưa khăn giấy và tiếp tục ngắm Đồng Gió. Được một lúc, chị hỏi:
-Nhóc định làm phu thuyền tới bao giờ? Có dự tính tương lai chưa?
Trong cơn kìm nén khóc lóc và ra dáng đàn ông, tôi nói nghẹn:
-Em... em định làm phu thuyền chuyên nghiệp. Em muốn đi qua Đồng Gió. Em muốn thấy bên kia Đồng Gió.
-Nghe như phiêu lưu ấy nhỉ? – Chị cười.
Tôi gật đầu xác nhận nỗi ham thích nực cười đó. Tôi không thích công việc phu thuyền lắm, nhưng nó là cơ hội duy nhất cho tôi tận hưởng cảm giác phiêu lưu. Tôi chưa từng kể niềm ham mê ấy cho ai, chị là người đầu tiên. Nghe thế, chị ngửa cổ nhìn bầu trời, cả vũ trụ đầy sao lẫn ba mặt trăng thu vào đôi mắt sắc của chị:
-Nhóc đã nghe "Đạo Chích Không Trung" chưa? Họ bắt quái vật, đám quý tộc thành phố này mua quái vật từ bọn họ. Đạo Chích không đi thuyền cạn, họ bay trên thăng vân tàu, rong ruổi suốt cuộc đời giữa không trung, đến những miền đất mà không người Tâm Mộng nào có thể đặt chân tới. Chị nghe họ bay qua cả Lằn Ranh Đỏ ở lục địa Kim Ngân, săn bắt vô số loài quái vật trong truyền thuyết. Nhưng nguy hiểm lắm, nhóc chịu được không?
-Có thực sao? – Tôi mở lớn mắt – Có cái gọi là "Đạo Chích Không Trung" sao?
-Ừ. – Chị gật đầu cười – Vì cha chị từng là Đạo Chích Không Trung.
-Vậy ông ấy ở đâu? Em theo ông ấy được không?
Chị lắc đầu, đôi mắt thoáng tia buồn. Chị không kể mà giữ điều đau buồn cho riêng mình. Tôi phần nào đoán được số phận người cha của chị. Giá như tôi có thể chia sẻ cùng chị. Nhưng tôi không dám nói ra, bèn chuyển chủ đề:
-Nhưng tại sao chị nói về Đạo Chích Không Trung? Em theo nghề đó được sao?
-Nhóc đàn ông mà! – Chị gật đầu – Đã phiêu lưu thì phải ra dáng phiêu lưu chứ? Đồng Gió bé lắm, sao rộng lớn bằng bầu trời trên kia? Đàn ông Băng Thổ đâu ngại nguy hiểm, đúng không?
-Em chỉ là thằng mất dạy, em không phải đàn ông... – Tôi lắc đầu.
Chị bật cười đoạn xích đến gần tôi. Chưa kịp hiểu chuyện, tôi bỗng thấy chị hơi rướn người sang rồi hôn lên má mình. Tôi nhớ đôi môi chị. Nó hơi ẩm giống tuyết nhưng không lạnh như tuyết mà như ánh mặt trời ở Hoàng Hôn Cảng trong những ngày ấm áp nhất năm. Tại xứ sở phủ tuyết quanh năm này, mỗi ngày ấm áp quý giá ngang vàng ròng, hàng ngàn con người vốn quen lạnh, quen cả sự nhẫn tâm của mùa đông đều vô thức đưa tay chạm vào ánh nắng như tìm lại sự dịu dàng hiếm hoi giữa thế giới khắc nghiệt. Dưới làn trăng bạc, con sói hoang trong tôi quỳ gục trước làn nắng đó. Vì sống quá lâu trong màn đêm nên con sói nọ nhìn thế giới qua bóng tối, luôn trốn chạy trước khi bình minh tới và chỉ dám quan sát ánh mặt trời từ cái hang nhỏ hẹp của mình. Nhưng giờ con sói ấy dần hiểu phía sau bóng tối là cái gì, nó đã sẵn sàng bước đi giữa nắng ấm, dù còn dè dặt.
-Nhóc đàn ông lắm! Nhóc sẽ vượt Đồng Gió và hơn thế nữa! – Chị ôm vai tôi động viên – Mà nhóc biết chọn chỗ ngắm cảnh đấy chứ? A... nơi này đẹp thật, tự nhiên nhớ hồi ở Diệp quốc, mọi người thường hát dưới ba mặt trăng! Nhóc nghe chị hát không?
Tôi đồng ý ngay. Chị cười đoạn vấn cao tóc – lần đầu tôi thấy chị làm vậy – sau bắt đầu điệu múa truyền thống của người Diệp quốc, gió tràn đến hất tung những lọn tóc lơ thơ sau gáy chị. Và chị bắt đầu cất tiếng hát. Dăm lần trò chuyện ở khu cảng, chị nói với tôi rằng chị không hiểu biết nghệ thuật cũng chẳng thích nghệ thuật. Nhưng những gì tôi đang thấy lại hoàn toàn trái ngược, hoặc có thể chị không quan tâm món quà mà Vạn Thế tặng cho mình. Cảnh tượng sẽ tuyệt mĩ nếu chị mặc chiếc váy truyền thống của người Diệp quốc có vạt tay áo dài, cổ áo rộng để vai trần, xoay cùng điệu múa giữa bầu trời bất tận rực sáng ba mặt trăng. Nhưng tôi biết mình không thể đòi hỏi quá đáng. Giờ đây chỉ cần nghe giọng ca trong vắt như đáy hồ băng của chị nhập hòa cùng phong lộng bạt ngàn Đồng Gió, trôi mãi lên tận phương bắc như bước chân đàn ông Băng Thổ cất bước rời xứ sở truy tìm tự do, tôi đã mãn nguyện.
"Sói con hát
Không nơi nương tựa, không có bè bạn
Sói con hát
Không chốn dung thân, không có bầy đàn
Sói con hát
Hát bài nguyền rủa, hát bài lang thang
Sói hoang ơi, sói hoang hỡi! Đừng ca bài ca nhân loại!
Ca lời quỷ ma, ca tiếng rít rừng sâu bóng quạ
Ca lời hoang dã, ca tiếng tru ngọn đồi băng giá
Ca lời sắt đá, ca tiếng hú đỉnh tuyết thẳm xa
Ca lời nhân loại chẳng hiểu, ca lời lang thang, ca lời lang bạt, ca lời đơn độc nơi viễn xứ xa lạ
Sói hoang ơi, sói hoang hỡi! Đừng hát khúc hát loài người!
Hát khúc săn lùng chiến mã, hát bài đất đỏ máu tươi
Hát khúc trầm thân mưa rơi, hát bài bão tố gầm trời
Hát khúc rong ruổi đồng hoang, hát bài vượt sóng ngàn khơi
Hát khúc loài người chẳng hiểu, hát khúc dông gió, hát khúc tự do, hát bài gào thét trọn một đời
Sói hoang ơi, sói hoang hỡi! Đừng ca lời nhân loại!
Sói hoang ơi, sói hoang hỡi! Đừng hát tiếng loài người..."
...
Sau cái đêm đáng nhớ ấy, tôi làm bạn với chị, cõi lòng không còn buồn bực. Tôi thỉnh thoảng gặp chị ở khu cảng, thậm chí giúp chị vài việc. Nhưng mấy chuyện đó tôi giữ trong lòng một cách ích kỷ và không bao giờ kể cho ai nghe, kể cả mấy người đang lắng nghe lời tôi nói đây, khì!
Một năm sau, tôi tiết kiệm được khoản tiền kha khá và quyết tâm rời khỏi khu cảng. Tôi muốn đi hết Đồng Gió, trông thấy lục địa Đông Thổ một lần trước khi khởi hành đến lục địa Kim Ngân đầy nguy hiểm. Tôi muốn làm Đạo Chích Không Trung. Tôi nghe nói trong giới Đạo Chích có một người tên là Đại Bác, ông ta từng bắt loài quái vật mộ táng, dong thăng vân tàu đi xa hơn bất cứ ai, xa quá cả miền nam Kim Ngân và tiến vào vùng trời vĩ đại Cội Gió. Tôi muốn được như vậy. Hít một hơi can đảm, tôi đề cập chuyện rời đi với lão quản đốc, tâm lí sẵn sàng nghe chửi lẫn ăn đòn. Lão không ưa tôi, thừa biết tôi toàn chửi lão sau lưng là "thằng già lắm mồm có bà mẹ teo não". Nhưng lão nhìn tôi thật lâu rồi đồng ý, cũng chẳng đòi khoản phí nào. Có thể hôm ấy lão cao hứng vì vừa thắng bạc, nhưng đồng ý kiểu dễ dàng như vậy thì thật lạ.
Rồi tôi gửi ít đồng vàng cho đứa đàn em ít tuổi mà tôi luôn bắt nạt nó. Thằng nhóc mở to mắt chừng như không tin, như kiểu nó sợ rằng mấy đồng vàng mang lời nguyền rủa độc địa. Tôi phải dúi vào tay thằng nhóc, tiện thể sút mạnh vào đít nó cho cảnh tượng chia tay này bớt mùi ủy mị. Tôi cũng quay lại con phố người vô gia cư, mua ít đồ ăn rồi cùng ăn với gã què quặt mà tôi thường trêu chửi. Có vẻ tôi không phải người duy nhất chửi gã nên gã chẳng nhận ra, cứ thế ăn ngon lành, còn vỗ lưng tôi thùm thụp. "Muốn làm Đạo Chích?! Hay đấy! Hay đấy!" – Gã cười ha hả.
Dạo đó tôi ít gặp chị. Chị bận bịu nhiều, hầu hết là do đám quý tộc năn nỉ chị dự tiệc. Tôi đành chuyển lời tạm biệt qua Na Li Nã, thông báo cả ngày giờ đi. Nhưng tôi không mong chị đến, chỉ ước chị gặp được người quý tộc tử tế nào đấy. Số phận của chị phải ở nơi huy hoàng đẹp đẽ nhất như cái cách Vạn Thế ngự trị thế giới này. Tôi tin vậy. Cầu cho chị hạnh phúc!
Tuy vậy, rạng sáng hôm khởi hành tôi vẫn đảo xuống khu cảng, hy vọng tia nhỏ nhoi rằng chị sẽ tới. Ba giờ sáng – cái giờ mà chị thường đi mua hoa trà. Song cảng vắng lặng chẳng có bóng chị, tôi đành cất bước ra đi. Chợt nhớ ra chuyện gì, tôi bèn chạy đến máy bán hàng tự động nơi chị vẫn mua trà thiết mộc. Tôi nhận ra trên nóc máy còn một cốc trà cùng đóa hoa trà trắng. Trà còn nóng rãy, hoa trà còn ướt nước tưới, tựa thể ai đấy vừa mới rời khỏi đây chừng vài giây. Phải, là chị. Chỉ có thể là chị! Tôi chợt hiểu con thú hoang nên ra đi trong cô đơn thay vì lợn cợn nhớ nhung một ai đó. Chị biết điều đó, chị muốn tôi là thằng đàn ông Băng Thổ đích thực.
Hiểu ý chị, tôi mỉm cười đoạn cố uống hết cốc trà rồi giữ đóa hoa cho riêng mình. Trước khi đến Khẩu Lỗ Thành, tôi sẽ ép cánh hoa khô để giữ nó vĩnh viễn đẹp đẽ.
Và khi làm Đạo Chích rồi, giả như ai đó hỏi "Nhóc, mày từng thấy kỳ quan nào của Tâm Mộng chưa?, tôi sẽ trả lời "Có, ở Hoàng Hôn Cảng, đẹp hơn mọi kỳ quan trên giới này!". Chắc chắn vậy!
0 Bình luận