“Một ngày nào đó, tớ sẽ đi…
Đi thật xa khỏi chốn đồng nguyên lộng gió. Đi thật xa khỏi ngọn hải đăng đơn độc dưới bầu trời tháng tư…
Tớ sẽ rời xa khỏi thị trấn thân thương, xa nơi bến cảng với những cánh buồm bạc màu muối…
Nhưng sau đó, tớ sẽ đi đâu?
Tớ chẳng biết…
Cuộc đời tớ vốn đã vô định. Không phải tới mãi bây giờ mới nhận thấy…
Nhưng chắc chắn, tớ sẽ đi…
Vì chẳng gì cả, ngoài cảm giác muốn rời đi.
…Và có lẽ, chỉ khi rời đi, tớ mới cảm thấy rằng mình đang tồn tại…”
Những dòng lưu bút chạy dài trên quyển nhật ký chợt dừng lại, nhoè đi trong vết nước mắt đã thấm ướt, làm loang mực.
Và chỉ vậy. Một quyển nhật ký bị bỏ lại nơi đỉnh ngọn hải đăng cô đơn, đó là cách mà Sanael rời đi.
Đã nhiều năm trôi qua kể từ ngày ấy, sương khói nơi bến cảng vẫn nhạt nhoà, chẳng bận lưu vết thời gian như chưa từng đong đếm.
Ngọn hải đăng đó từng là căn cứ của chúng tôi…
Giờ, nó chỉ còn là tàn tích bên bờ biển. Cuối những trận mưa tháng tư, bầu trời sẽ hửng nắng dịu. Và trong tiết trời quang đãng, bức tường gạch trắng có thể được nhìn thấy từ tận con dốc nơi ngọn đồi Cô Độc.
“Đó…” – Elise chỉ tay về phía bờ biển trong ánh nhìn vô định.
Cô ấy cả ngày hôm nay chỉ cắn một miếng nhỏ từ đĩa bánh táo đã từng rất yêu thích trước mặt, rồi dường như chẳng còn chạm vào nĩa thêm bất cứ lần nào nữa.
“…Tớ vẫn có thể thấy, xa về phía những cuộn mây đại dương.”
“Có vẻ người ta đã không tháo dỡ hoàn toàn ngọn hải đăng” – Cath lên tiếng sau khi đã im lặng đủ lâu.
Chúng tôi thường tụ họp ở đây – Quán Lửng Mật, vào ngày này hàng năm. Nó nằm trên lưng chừng ngọn Cô Độc, với khoảng sân ban công nhô ra bên sườn con dốc, vừa đủ kê vài chiếc bàn ăn nhỏ.
“Từ đợt cơn bão năm 1994, phải không?” – Tôi hỏi lại, nhưng chẳng ai trả lời.
Có lẽ, họ đang bận chìm trong hồi ức hoài niệm.
Rất lâu trước đây, ở cái bàn thứ ba nằm ngoài góc sân kia đã từng có một nhóm bốn người “chiếm đóng” nơi đó mọi buổi sáng chủ nhật.
Tôi, Elise, Cath… và tất nhiên, cả Sanael.
Nhưng giờ thì không, không còn nữa.
Ba người chúng tôi không bao giờ ngồi vào đó lần nào nữa, bởi cảm giác trống ở góc ngoài – nơi hướng về phía cảng biển, sẽ làm Cath nhớ lại những điều tồi tệ. Thực ra không chỉ cậu ta, tất cả đều sẽ cảm thấy nặng nề hơn nếu làm vậy. Nhưng với Cath, đó dường như giống một lưỡi dao cứa lại vào vết thương cũ.
Bởi không như tôi hay Elise, Cath và Sanael… đặc biệt hơn thế.
“Phải… Cơn bão năm 1994. Họ có đem cả cần cẩu tới để phá dỡ nó, nhưng…” – Cath ngập ngừng trong giây lát, rồi tiếp:
“Kì lạ thật… Họ chỉ vừa kịp phá tầng trên cùng và gió lớn đã khiến mọi thứ phải hoãn lại…”
“…Cứ như đó là một phép màu…” – Elise nhấp ngụm trà trong cốc, cô đã chẳng chạm vào nó suốt sáng hôm nay. Thứ trà nguội ngắt khiến cặp lông mày nâu đậm giật nhẹ, có vẻ vị đắng chát đã chẳng còn cứu vãn nổi mặc cho hương trà đen có thơm thế nào.
“Ừ, một phép màu của Sanael” – Khoé miệng Cath khẽ mỉm cười.
Trong giây lát, ánh mắt cậu ta ấm lên sự hoài niệm.
Mũ chóp nhọn, giày da và quần thụng… Sanael đã từng mặc chúng rồi tự gọi mình là “Pháp sư vĩ đại của ngọn hải đăng cảng Elsy”.
“Hm? Đáng yêu mà. Tớ nghĩ nó khá hợp với cậu ấy” – Cath đã lên tiếng khi một trong số chúng tôi hỏi.
“Đáng yêu vì đó là mũ chóp quần thụng… hay, vì đó là Sanael?” – Elise hỏi, nháy mắt châm chọc. Hồi đó, cô nàng khá nghịch ngợm và sẽ chẳng từ cơ hội để bấm chuông một nhà bất kỳ trước khi biến mất tăm.
Chúng tôi sẽ lại tản ra trước khi trở về “căn cứ”. Và mỗi khi bước qua khung cửa dẫn vào trong tháp, mọi mùa hè đều cứ như bất tận.
“Ôi thôi nào! Chúng cute thật, tớ không nói vậy chỉ vì đó là…” – Cath chống chế, mặc cho vành tai cậu ta đã ửng lên. Bên cạnh là Sanael, chỉ đang cười ngây ngốc.
Một tia tinh nghịch ánh lên trong mắt Elise:
“Tớ biết hai cậu làm gì sau gốc đại thụ đấy, trao đổi nhật ký, nắm tay cùng cả mấy thứ khác nữa nhỉ?” – và cô ấy bắt đầu hát, mặc cho Cath có cố gắng ngăn lại :
“Cath và Sanael ngồi trên cây
H-Ô-N N-H-A-U giữa trời mây!
Đầu tiên là tình yêu đong đầy
Họ đám cưới trong căn nhà mới xây
Rồi em bé oe oe trong xe đẩy~”
…Đó là những ngày bình thường của chúng tôi… Đã từng vậy.
Ánh chiều đã dần buông, quán Lửng Mật cũng dần vắng.
“Tớ về đây, mai còn phải đi làm nữa” – Elise lên tiếng.
Lúc này, cô ấy đã là một “người lớn bận rộn” – kiểu người mà cô từng rất ghét phải trở thành hồi còn bé.
Không phải vì “chúng ta sẽ trở thành thứ mà mình ghét khi lớn lên”, mà là vì khi còn bé, trẻ con ghét quá nhiều thứ ở người lớn.
Sự bận rộn, lịch trình lặp lại, thái độ cau có, gắt gỏng… Khôi hài thay, nền kinh tế tư bản vận hành bằng những điều đó. Vì vậy, khi lớn lên, ta phải trở thành điều mà ta ghét để tồn tại. Rất ít người có thể tồn tại theo cách họ muốn, trừ khi họ cực may mắn hoặc thuộc giới siêu giàu.
Mà… dù vì lý do gì, Elise cũng chẳng còn năng động như hồi xưa.
Khoé mắt cô đỏ hoe như vừa thức cả đêm không ngủ, trang phục công sở gọn gàng nhưng đơn sắc, hoạ tiết có phần lặp lại và nhàm chán.
Còn Cath thì cao hơn, ăn mặc có đôi phần phóng thoáng… Nó giống như kiểu nghệ sĩ đường phố, hơi bụi bặm và chẳng quá để tâm tới việc chăm sóc bản thân.
Ngoài ra, “chàng Romeo” của chúng ta cũng đã có râu dưới cằm. Không nhiều, nhưng đủ để khiến cậu ta có thể mua bia hay vào bar tự do mà chẳng cần đưa bằng lái xe ra nữa. Lần cuối mà tôi nghe được từ người quen, bây giờ cậu ta sống trong chiếc xe van cạnh công viên sau khi rời khỏi gia đình và có một công việc đơn giản ở bãi phế liệu ngoài thị trấn.
Có lẽ cuộc sống trên xe không quá dễ chịu, Cath nhìn có vẻ hơi… rệu rã.
Nỗi đau từ việc trưởng thành mà mất đi người quan trọng… Không phải là tôi chưa từng trải qua.
Hoặc chỉ tính riêng việc phải lớn lên cũng đã là một điều mất mát.
“…Năm sau nhé?” – Tôi đứng dậy, rời khỏi bàn.
Không một tiếng trả lời chắc chắn, nghi hoặc… không gì cả.
Chẳng ai trong chúng tôi dám chắc rằng năm sau họ sẽ ở đây, một lần nữa. Năm ngoái, năm kia, năm trước và trước nữa… Đáng ngạc nhiên là buổi kỷ niệm thường niên có thể kéo dài tới bây giờ.
Thời gian là thứ tàn bạo.
Nó bào mòn mọi thứ ngay cả xúc cảm và ký ức về người thân yêu…
Rồi ngày nào đó, nó sẽ mang cả chính bạn theo.
Sải những bước dài xuống con đường dốc thoải nơi ngọn Cô Độc, tôi bước theo chiếc bóng đổ trên đất của mình đang chảy khỏi sườn đồi.
Không chỉ họ, ngay cả tôi cũng dần thay đổi. Làn da rám nắng khoẻ mạnh ngày nào, giờ đã trắng nhợt và có phần mỏng manh hơn. Lần cuối cùng mà tôi nhớ, chỉ một cú cọ sát nhẹ với tường bê tông cũng đủ khiến lớp da đó trầy ra và chảy máu. Cách đây chục năm, nó đã từng là thứ mà dù có đi qua bụi gai cũng chẳng hề hấn gì.
Những năm tháng ở lì trong phòng tối làm việc đã làm dày ví nhưng lại bào mòn nhiều điều khác.
“Cũng không dày lắm…” – Nhìn lại chiếc ví mỏng đi kha khá sau khi gọi chỉ một đĩa bánh táo, tôi thở dài.
Gió cứ miên man luồn qua những mái hiên dưới thị trấn, đem theo hơi mặn của biển mà thốc lên sườn ngọn Cô Độc.
Sau sự ra đi của Sanael, tôi cũng không ở mãi thị trấn cảng quê nhà. Sau khi cùng Elise lên thành phố, chúng tôi tách ra và học hai trường khác nhau.
Dù cho thi thoảng vẫn liên lạc, nhưng không quá nhiều. Ở góc độ nào đó, việc này cũng gây ảnh hưởng tới Cath. Đôi lúc, Elise vẫn nói rằng điều mà tôi và cô làm giống như bỏ rơi cậu ta để chạy trốn quá khứ, chạy trốn khỏi Elsy.
Sau đó và sau nữa, chẳng ai trong số ba người có thể xây dựng những mối quan hệ mới. Ngay cả khi đã cố, việc này cũng chẳng dễ dàng như đúng ra nó phải vậy.
“Chúng ta có nhau… có lẽ vậy là đủ”
Elise đã nhắn tin cho tôi và Cath vào hồi đầu năm mới, cách đây vài năm.
Và ngay cả vậy, thì Elsy là một thị trấn nhỏ nên mọi người dường như đều biết nhau. Tựa sự an ủi thoáng qua, chúng tôi cũng bớt cô đơn hơn phần nào.
Không tệ nếu phải so sánh với hồi còn vất vưởng ở nơi thị thành tấp nập, xa lạ. Ở Elsy, dường như mọi con hẻm, mọi góc đường… đều có thể gọi là “nhà”.
Con đường chính trong thị trấn này cũng vậy – bắt ngang qua dãy nhà tôi trong ánh chiều với những chuyến xe lạ thi thoảng lướt qua… mà dường như lại có vẻ yên bình theo cách riêng.
Dưới bóng những khóm ngọc giá trổ hoa trắng ngà đôi ven đường; thị trấn, những mái hiên, hòm thư trắng, tiếng gió biển mài lên hàng rào, rồi cả bãi cỏ xanh nằm dưới nền trời hay bờ biển xa xa cũng thật thân thuộc.
“~…Gió có kéo thuyền tới chốn trời xa
Thì giương buồm lên, thuỷ thủ cũng về nhà
Và vì hoàng hôn không chờ ai cả…~”
Từ bên mái hiên của căn nhà có cửa trắng số 103, người hàng xóm già – Ông lão Willson, vẫn thư thả ngồi ngâm nga những câu hát rời rạc trên chiếc ghế bấp bênh cùng tờ nhật báo mọi khi. Thấy tôi, ông hạ tờ báo xuống mà nói vọng ra:
“Bảo Sanael về nhà sớm nhé! Tối nay có súp đậu hầm mà nó thích đấy…”
“…Ừ, sẽ bảo…” – Bước qua bãi cỏ sân trước, tôi trả lời lấy lệ.
“Lũ trẻ bọn bay đi chơi quên cả giờ về…” – Lão nói, rồi lại để tâm về nơi tờ nhật báo của năm 1994 trên tay.
Đẩy cửa vào nhà, bỏ lại phía sau tiếng kẽo kẹt của cáng ghế bấp bênh, tiếng ngân nga của người thủy thủ già cũng dừng lại sau cánh cửa.
Bầu trời chẳng mất quá lâu để đổ chàm sau 5 rưỡi chiều.
Rồi chạng vạng khi ánh đèn đường đã lên, màn đêm cũng ôm gọn thị trấn nhỏ.
“Tối nay có gì?”
Sau khi rửa sạch bát đĩa của hôm trước trong bồn, tôi lôi ra chút mì ống từ chiếc tủ lạnh vỏ nhựa xanh trong góc bếp.
Gói cuối đã chẳng còn lại bao nhiêu dù là lượng mì hay hạn sử dụng, nhưng chắc cũng vừa đủ để cho bữa tối nay. Cái loại giá rẻ, không quá thơm mùi lúa mì với màu sắc vàng nhạt, được cuộn gọn trong giấy gói đỏ ấy. Điều may mắn là với công việc làm ca đêm tại cửa hàng tiện lợi phía cuối thị trấn, thi thoảng tôi sẽ được mang theo vài túi về trước khi chúng hết hạn sử dụng.
…Tôi đoán là mình không có nhiều lựa chọn.
Cuộc sống của người độc thân cũng không quá ngăn nắp, rõ ràng và hiển nhiên.
Mì cuộn cùng sốt cho một bữa tối đơn giản, trước khi 8 tiếng làm việc sắp tới.
Tôi sẽ lại bật radio trên quầy thu ngân lên rồi chờ thời gian trôi qua.
Đóng cửa trước hừng đông, tìm lấy vài túi mì để lấp đầy tủ lạnh.
Cuộc sống cứ vậy tiếp diễn nhỉ?
Có lẽ không chỉ Elise, tôi cũng đang dần trở thành một kiểu người tẻ ngắt. Cath thì… cũng chẳng khác quá nhiều, mặc cho cuộc sống nhìn như có vẻ không mấy gò bó.
Đứng dậy khỏi bàn ăn rồi thả bát đĩa trở lại vào bồn rửa. Mai, chúng sẽ được làm sạch trước khi sử dụng. Còn giờ thì không, kim đồng hồ đã sắp điểm 8 giờ tối…
Khác với thành phố mà tôi từng ở hồi đại học, cuộc sống về đêm ở Elsy vốn là thứ mờ nhạt hơn nhiều. Từ bên dưới mái hiên nhìn ra, dãy đường cùng những bệ cửa sổ tối đèn, lặng lẽ ẩn mình trong sự tĩnh mịch của gió đêm. Sau bữa tối, người dân sẽ chỉ có hai lựa chọn; Một số ít sẽ đi ngủ từ sớm, trong khi số còn lại đã xuống pub ở nhà hàng ven biển – nơi thường nhộn nhịp khi tấm biển “Chỉ thứ sáu hàng tuần” đã lên đèn, với âm nhạc và vài buổi tiệc nướng tại gia của chủ quán.
Ánh sáng từ ngôi nhà duy nhất trong thị trấn còn đổ bóng xuống đường lúc này là từ căn bếp của lão Willson. Đã qua giờ ăn tối của người già khá lâu, nhưng bên kia lớp vải rèm màu cát vẫn hắt bóng xanh mờ của chiếc mũ đi biển – thứ được treo lưu cữu cạnh tường. Ông ấy gần đây thức muộn, hút tẩu nhiều và thường xuyên hơn khi đêm về.
Và hình như… chỉ hình như thôi, Will luôn đợi điều gì đó trong khi ngả lưng trên chiếc ghế bành tại phòng khách trước nhà – chỗ mà từng bị bỏ không tới bám bụi, hệt như trí nhớ hay chiếc áo choàng của một lão già lẩm cẩm không người thân thích.
Rời khỏi mái hiên, bóng của tôi hoà vào bóng tối dưới quầng sáng mờ từ đèn đường. Ẩn và hiện, đổ đằng trước và bị kéo lại phía sau trước khi đọng lại thành một vết đen tròn dưới chân…
Xe cộ không phải thứ thường thấy ở đây, nhất là vào buổi đêm. Những chiếc xe lạ sẽ chỉ chạy qua thị trấn muộn nhất là trước hoàng hôn. Sau khoảnh khắc đó, gần như chẳng bao giờ có ánh sáng đèn pha từ bất cứ dạng phương tiện nào làm náo động con đường nữa.
Chỉ còn chúng, những cột kim loại xám.
Trước đây, ánh đèn đường là thứ chưa từng tồn tại ở cái thị trấn cảng nơi ven biển này. Chúng mới mọc lên kể từ sau khi bờ cát phía tây trở thành điểm đến địa phương trên vài tạp chí du lịch. Cũng từ đó, Elsy lúc đêm về đã thay đổi hẳn.
Đôi khi, tôi thấy phiền bởi cuốn tạp chí, và cũng có phần khó chịu với thứ đèn điện u uất kia.
Dù cũng từng có lần gia đình nhà Elise trang trí con hẻm nơi họ ở với dây bóng đèn, xong, những đốm sáng lẻ loi đó lại tựa tín hiệu của loài phù du huyền diệu trong biển đêm… Không phải thứ nhợt nhạt màu bê tông của chốn thị thành xa xôi…
Như đã nói, cuộc sống về đêm ở đây khác xa với những thành phố lớn. Thật sự, chẳng thể tưởng tượng ra được dạng người nào trong thị trấn này sẽ tới cửa hàng tiện lợi vào ca làm việc của tôi nữa.
Công việc tối nay vẫn như bao ngày; Trừ những lúc kiểm hàng, đổ rác và lau sàn ra, tôi sẽ dành phần lớn thời gian ngồi để chỉnh qua lại giữa các kênh radio bên quầy thu ngân.
[…Áp thấp… đang– vào vịnh bờ tây–…]
Âm thanh đã cũ rè của chiếc máy vẫn như bao ngày, dù có chỉnh kiểu gì đi nữa.
Đây không phải kiểu công việc bận rộn, cũng chẳng phải kiểu công việc tốt để làm lâu dài. Người cũ đã rời đi cuối tháng trước và mặc cho nửa tháng lương chưa nhận, anh ta cũng không chờ thêm nữa.
Hiện tại, tôi là nhân viên ca đêm duy nhất ở đây…
Khi làm đêm vài ngày đầu, mấy đứa thiếu niên sẽ thấy thích thú. Công việc đơn giản, tiền công trả ổn, view biển ngoài cửa kính giờ này cũng là điều đáng để ấn tượng khi ở tuổi chúng.
“Cuộc sống khi đêm về” à? Có lẽ ngày nay họ gọi như vậy.
Nhưng sau nửa tháng, lớp sắc màu hứng khởi ban đầu sẽ bị rửa trôi bởi cảm giác lặp lại, sự cô lập về xã hội và những bất tiện mà việc làm ca đêm gây ra.
Tám tiếng vô nghĩa nhất cuộc đời là tám tiếng đi làm; Ta làm điều mà bản thân còn chẳng hứng thú, đôi khi còn chẳng hiểu mục đích của chúng. Ngày nào cũng lặp lại cùng một kiểu môi trường tách biệt con người khỏi những bản sắc tự nhiên, khỏi sự sáng tạo…
Khôi hài thay, thứ giữ ta “sống” cũng đang cũng bào mòn hứng cảm “sống” trong ta. Bỏ qua những phát ngôn về sự “chín chắn” hay “phát triển bản thân” thì dù có thích hay không, việc “chín” này sẽ lặp lại mỗi ngày trong 30 hay 40 năm, cho tới ngày mà ta “rụng”.
Ở đây, tôi có chiếc đài radio nâu café trên mặt quầy, cùng chai soda sẽ trừ thẳng vào lương của tháng này. Thì thoảng, một số bản nhạc của kênh 35.0 khá hay nhưng phần lớn thì chán òm và cũ nát từ cả thập niên trước. Đôi lúc, tiếng của chiếc chuông gió thường hay lách cách trên bệ cửa lại réo lên, cùng với sự xuất hiện của những người khách đêm.
“Tôi cần sổ sách của buổi sáng và chiều”
Là quản lý cửa hàng, J.W – vẫn trong trạng thái cau có như mọi khi. Ngay khi vừa bước qua cánh cửa, anh ta đã mang theo mùi khói thuốc bám trên người cùng tiếng sóng biển vào theo. Với kẻ nghiện thuốc nặng như J.W, thì dù có vẻ như vừa trở về từ bữa tiệc bờ biển tối thứ sáu, hương gia vị và khét nhẹ của lớp caramel trên vỉ đồ nướng cũng chẳng át đi nổi mùi khói thuốc đã ám vào cổ áo hắn.
Sống mũi của tôi giật nhẹ vì cay, tựa như hít phải khói ngay khi người quản lý tiến tới sát quầy để lấy cuốn sổ.
J.W không ở lại quá lâu. Hắn ta chỉ lán lại đôi chút chút, ghi chép trước khi rời đi. Có vẻ đêm nay với hắn sẽ là một đêm dài, giống như của tôi… nhưng chắc chắn rằng dù tiệc tùng hay thứ gì đi nữa, chúng cũng bớt nhàm chán hơn việc ngồi cả đêm tại quầy thu ngân.
Thường thì người dân trong thị trấn không xuất hiện tại nơi đây vào đêm muộn.
Thi thoảng vào những đêm mùa hè, theo cách vội vã, khách du lịch ghé qua để mua pin, đồ ăn hay một vài món vặt vãnh khác. Nhưng cũng chỉ trong mùa hè thôi, và họ đa số tới từ khách sạn nằm bên kia con đường cách đây vài dãy nhà – nơi mà sẽ đóng cửa rồi im lặng cả năm sau mùa du lịch.
Chiếc áo hoen vết dầu máy, dáng vẻ xơ xác bụi bặm… Ngay khi đẩy cửa vào, “vị khách” tiếp theo làm tôi hơi có chút khó xử; Là Cath.
Dưới ánh đèn neon của biển hiệu bên ngoài, đường nét tối tăm trên gương mặt cậu hiện rõ hơn so với hồi chiều.
“Ồ…” – Tiếng thốt của Cath dần tan thành tiếng thở dài trầm ngâm, rồi cậu ta vòng ra sau kệ thuốc lá.
“Tớ không biết cậu làm ở đây đấy…”
Chẳng mất quá lâu, Cath quay lại với bao thuốc trên mặt quầy.
“Nó không phải thứ gì hay ho để kể…” – Tôi ngập ngừng:
“Công việc tại quầy thu ngân, cậu biết họ nói gì về nó mà”
“Và tớ thì đang ở bãi phế liệu, hẳn cậu cũng biết rồi” – Bật cười giòn tan, Cath tự mỉa rồi với tay lấy thêm hai chai soda xanh từ tủ lạnh.
Và trong thoáng chốc, như trở lại thời niên thiếu, đôi mắt xanh mệt mỏi đó giãn ra khi cậu vẫy tay: “Nào, lại đây. Tạm rời khỏi cái quầy đó đi, giờ này thì làm gì có ai cơ chứ”
Lần đầu tiên sau một thời gian rất dài, mặc kệ cát hay bụi bẩn, kệ những đôi giày nặng nề và áo sơ mi… chúng tôi ngồi vắt vẻo trên bờ chắn cát bên ngoài cửa hàng, nơi chỉ cách vài bước chân.
“Peww~!” – Hú lên sảng khoái sau khi nốc gọn phần ba chai soda, Cath dựa lưng vào vách tường rồi nhìn ra biển đêm.
“Soda xanh vẫn là ngon nhất trên kệ, từ ngày đó tới giờ!” – Cậu ta nói rồi đặt chiếc chai thuỷ tinh qua một bên, trong khi chân trần đang đung đưa, chạm xuống bờ cát bên dưới.
Gió đêm lạnh luồn qua cổ áo, cuộn lại nơi bức tường sau lưng trước khi tan đi như bọt soda. Có lẽ cũng như Cath, phần nào đó trong tôi ngày ấy đang dần trở lại.
“Giống trước kia nhỉ…” – Tôi hỏi trong vô thức.
“Ừ…” – Cath trầm ngâm, rồi nói rất khẽ: “…Giá mà được vậy…”
“Biển đêm bây giờ cũng vẫn đẹp mà, không khác đi quá nhiều so với những gì tớ có thể nhớ” – Tôi dựa lưng vào tường, rồi cùng cậu ta ngắm nhìn mọi thứ trong tầm mắt.
Trong âm hưởng của sóng xô bờ, biển và trời nhoà đi ranh giới. Và bầu trời mờ sao cũng chỉ còn như lớp phù du đang tách ra từ màn đêm xa xôi, bị cuốn lên trời đêm sau những đợt sóng trào. Đằng xa về phía bến cảng khoảng vài chục bước chân, bức tường trắng của ngọn hải đăng tàn tích vẫn nằm đó. Dù chẳng ai nói gì, nhưng tôi biết chúng tôi đều đang tránh nhìn vào nó hết mức có thể.
“Chỉ còn thiếu Elise…” – Bất chợt lên tiếng rồi dừng lại đôi chút, Cath nói tiếp sau khi đã tạm rời mắt khỏi bến cảng: “…Và Sanael… là ngày ấy sẽ trở lại”
Lúc này, Cath mới bắt đầu động tay vào bao thuốc vừa mua khi nãy. Tiếng con lăn của chiếc bật lửa lách tách dưới đầu ngón tay, ngọn lửa nhỏ bùng lên để rồi mùi khói thuốc chẳng mất quá lâu lại lan tới chỗ tôi.
Và cậu hỏi, nhưng hẳn cũng chẳng chờ đợi câu trả lời: “Hồi đó thật tuyệt, nhỉ? Chúng ta có nhau, trong cái thị trấn này. Mọi thứ cứ thật đơn giản…”
Tiếng sóng vẫn xô bờ và gió thốc mạnh vào bức tường, đôi khi khiến giọng nói vốn đã trầm đục của cậu ta trở nên còn khó nghe hơn nữa…
Cath rời đi trước khắc chạng vạng, khi mà bình minh chưa lên nhưng những tảng mây ngoài xa đang dần chuyển sắc. Bóng lưng cao mà mờ nhạt, cứ mờ dần theo con đường dẫn vào thị trấn rồi tan đi, hoà sắc vào vệt xám của bầu trời.
Buổi sáng hôm đó không chỉ có sự nhợt nhạt, gió cũng nổi lên bất ngờ.
Trên đường về, tôi chẳng nhớ nổi đã bao lần túi mì trong tay bị hất văng lên như thể gió muốn giật nó đi. Cũng khá may, chỉ ngay khi bước chân mệt mỏi của tôi đặt lên mái hiên nhà, sấm động và mưa mới đổ ập xuống từ bầu trời.
Và ngay lúc này đây, nếu nhìn từ cửa sổ ra, ta sẽ chỉ có thể thấy không quá vài bước chân kể từ mái hiên. Ít nhất thì từ những gì có thể quan sát, con đường bây giờ đang sủi ngầu bọt nước trong cơn mưa tầm tã. Trong bức màn bạc nhạt nhoà của mưa, cả thị trấn như hoà vào chung sắc xám. Không còn những tường gạch đỏ, mái hiên phai màu rêu, khóm hoa ngọc hành trắng, biển xanh… Chỉ còn xám bạc.
Cộm lên trong màn mưa là ánh đèn vàng từ căn bếp của nhà Willson. Có vẻ như ông già lú lẫn đã quên đi việc tắt đèn, hoặc giả như lão đã nhầm bữa sáng thành bữa chiều vì sự tăm tối của ngày giông bão.
“Cuối tháng này tiền điện của ông sẽ cao lắm cho mà xem…” – Tự nhủ, tôi ngả mình xuống tấm thảm trải sàn êm ái.
Căn nhà vào ngày mưa khá tối và có mùi mốc nhẹ ở những chỗ ẩm thấp, cũng dễ hiểu khi mà nó đã không được chăm sóc lâu ngày. Trên tầng có hai phòng ngủ nhưng cũng đã từ lâu, tôi chẳng còn quan tâm tới căn phòng cũ của mình nữa. Quá lười để hút bụi và giặt rèm kể từ khi trở về từ thành phố, tôi chỉ dọn dẹp qua phòng khách và nhà bếp rồi cứ như vậy tới mãi bây giờ.
Xét theo góc độ nào đó, thảm trải sàn cũng không tệ hơn một chiếc giường là bao. Đủ mềm và ấm mặc cho lớp sợi bây giờ đã cũ và lúc nào cũng ngổn ngang những mẩu tin tìm việc được cắt ra từ nhật báo địa phương, nhưng với tôi thì vậy là đủ.
Ngay cả khi tiếng mưa trên mái hiên chẳng còn khiến tâm trí bận tâm nữa, giấc ngủ của ngắn ngủi đó cũng chẳng kéo dài được lâu. Bị đánh thức vào lúc ban trưa bởi tiếng gõ cửa khô khốc, tôi nhận thấy dáng người khập khiễng của Will qua lỗ kính.
“Sanael… Sanael có ở đây không?” – Lão hỏi, ngay khi tôi vừa mở cửa.
Willson đang ướt nhẹp, mặc chiếc áo khoác đi biển sờn vai, chống cây nạng cũ và đứng trước mái hiên nhà tôi. Ông ấy đã từng là một thuỷ thủ đi biển khá giỏi, cho tới lúc bị cây móc lao găm vào đầu gối trong chuyến ra khơi ngày giông bão.
“…Sanael…” – Tôi ngập ngừng: “…Không, nhưng sẽ về sớm thôi. Cath và Elise cũng đang ở đó, không cần phải lo đâu”
Ngay khi tôi trả lời, lão vội quay bước rời đi. Chỉ tới lúc này, tôi mới để ý rằng Willson đã rời khỏi nhà mà chẳng có lấy một chiếc ô.
“Ông định đi đâu vậy!” – Tôi gọi với theo.
Có lẽ tiếng mưa đã át đi tiếng gọi, lão cứ khập khiễng mà bước khỏi bãi cỏ sân trước, men theo con đường dẫn về phía ngọn Cô độc.
Tiện tay vơ lấy chiếc ô trong góc nhà, tôi chạy theo Willson vào làn mưa. Dù cho mưa mùa hạ không quá lạnh, gió lại đang quất những hạt nước nặng trĩu xuống mặt đường khiến mọi thứ cảm giác như tệ hơn.
“Ông định đi đâu?” – Tôi hỏi lại.
Chiếc ô kêu lên thứ âm thanh chát chúa khi mưa rơi xuống, va vào lớp vải nhựa đen, nhưng cũng vừa đủ để giọng nói từ người thuỷ thủ già có thể nghe được.
“Ta phải đi đón nó về. Bão lớn quá, chắc Sanael không về được…” – Willson trả lời mà chẳng nhìn lên.
“Ông định đến quán Lửng Mật à?” – Tôi hỏi trong khi vuốt đi những giọt mưa bám trên mặt.
“Chứ còn đâu nữa. Lũ bọn bay Chủ nhật nào mà chả tới đó…” – Lão tặc lưỡi, rồi rảo bước gấp như thể chẳng quan tâm tới màn mưa.
“Lão cứ về đi, tôi sẽ đi đón Sanael” – Tôi vội trấn an, dù cho có vẻ chẳng lời nào lọt tai Will.
“Bay mới phải về ấy! Chắc bố mẹ bay đang lo sốt vó lên ở nhà rồi kìa.” – Lão nói như gắt, rồi lại hạ giọng: “Về đi, đừng có đi theo mà che ô cho ta nữa, chỉ mưa một chút thôi mà”
“Tôi có còn là trẻ con nữa đâu… Với lại, ông định leo lên dốc đồi kiểu gì?”
“Cái dốc bé xíu đó á?” – Will cười, tiếng cười từ bờ môi khô khốc như đá lở:
“Ta đã từng cưỡi trên ngọn những con sóng cao gấp ba lần ngọn Cô độc, co kéo với loài thuỷ quái đại dương to hơn mạn thuyền và chân ta thì vẫn luôn bám trụ trên sàn tàu…”
Vai áo xanh đi biển cũ sờn của lão ướt sũng, chùng xuống và nặng đi.
Giông tố đã đổi chiều, chiếc ô cứng cáp trong tay tôi bị gió tuốt ngược ra sau. Những chiếc nan kim loại rung lên bần bật như có thể gãy gập bất cứ lúc nào, nhưng lão vẫn sải bước trong mưa, mặc cho vạt áo bị gió cuốn lấy và kéo ngược lại.
“Bão đang lên…” – Will nói thầm, thanh âm bị tiếng gió nghiền vỡ ra trước khi kịp rời khỏi họng: “Nhanh lên thôi, Sanael đang chờ ta…”
Từng bước ngược bão, một tay lão giữ chặt chiếc mũ trên mái tóc bạc cước, tay còn lại kẹp chặt lấy tay nạng bạc màu. Chân dốc đã ngay trước mặt, vẫn cao như nó đã luôn. Nhưng hôm nay, nước từ đỉnh Cô độc tuôn xuống như thác đổ, mặt đường hiện rõ những vết lõm gồ ghề dưới dòng chảy xiết.
Lão lấy một hơi thật dài, đặt chân nạng lên trước, theo đà bật cả người lên rồi bắt đầu leo ngược dốc. Từng bước một, trên cây nạng chênh vênh, Will lội ngược dòng thác, ngược dòng giông bão.
Tôi cố chạy theo, nhưng cứ mỗi bước chân đặt được xuống, dòng nước lại đẩy gót giày trượt đi một đoạn. Việc theo sát tay thuỷ thủ già dường như khó khăn hơn tưởng tượng, ngay cả khi đã đành nhích từng bước một, đôi lần tôi vẫn suýt ngã dúi dụi trên chính con dốc mà ngày thường chỉ tốn chục phút đi bộ.
Khi đã tới lưng chừng, dòng chảy đã vào khúc cua của con đường khiến nó có đôi phần dịu hơn. Đổi lại, chúng tôi đang phải gồng mình chống lại những cơn gió trên cao.
“Đừng lì nữa, đây không phải cuộc thi chứng tỏ bản thân đâu. Về đi, đừng theo ta!” – Ông gằn giọng, rồi thở dài ngao ngán khi tôi vẫn bám theo sát sườn.
Cặp ria mép đang rung lên khi lão thở…
“Hay bay cũng lo cho Sanael à?” – Will gượng cười, dù hơi thở đã có phần khó nhọc.
Bờ vai của người thuỷ thủ đã chẳng còn mấy sức lực, cặp lông mày bạc gồ lên lúc trước nay cũng đã sụp xuống. Ông nói tiếp trước khi ghì chặt tay nạng mà leo từng bước: “Chút nữa nhớ qua nhà ta nhé, có món hầm đặc biệt đấy. Hôm nay là sinh nhật nó …”
Cặp mắt lão khẽ nheo lại khi những trận gió lớn quật mưa xuống, đôi môi mím chặt lại khi vuốt đi những vệt nước đổ dài trên trán.
Chậm dần, những lần mất đà của Will càng lúc càng thường xuyên, bước chân ông cũng dần ngắn lại.
Rồi trong khoảnh khắc ngắn ngủi, lão bước hụt. Cây nạng đã trượt khỏi tay Will...
Ông loạng choạng, bị chính sức nặng của chiếc áo ướt sũng trong cơn bão hất ngã về phía sau. Tôi có thể đỡ kịp lão nhưng chiếc nạng thì đã bị cuốn phăng đi, văng theo dòng chảy mà trôi về phía thị trấn.
“Có lẽ… ta đã già thật rồi…” – Thở hắt ra, Will gượng người dậy rồi vịn vào tôi.
Quán Lửng đã không còn xa, chúng tôi có thể thấy khoảng sân rộng và bằng phẳng của nó chỉ còn cách vài bước nữa. Lão cười trong những âm thanh gắng gượng mà chẳng ra hơi: “Cũng khoẻ gớm… giờ bay có thể tự gọi mình là đàn ông được rồi đấy. Vài bước nữa nào…”
Để rồi ngay khi lên được tới khoảng sân phẳng, Will lặng đi. Mái hiên không sáng đèn, cánh cửa đóng kín và im lặng.
“…Không có ở đây…”
Và ánh mắt lão bần thần trong khi nhìn lại phía tôi.
Nhưng, có lẽ không phải dành cho tôi. Ánh mắt ông ta xa hơn, vô định hơn… Giống như ánh mắt của những kẻ lạc lối giữa biển, nó mơ hồ và tối tăm.
“…Ngọn hải đăng… ” – Willson ngỡ ngàng hỏi, ánh mắt dán chặt về cảng bờ tây: "...Đèn của nó đâu?"
Ngay cả khi đôi chân mệt mỏi kéo lão ngồi sụp xuống mái hiên, cặp mắt Willson vẫn chẳng rời khỏi khoảng không giông bão – nơi đang chỉ còn sự trống rỗng trong sắc bạc: “Ta… Không. Không thể nào nhầm được, từ đây tới cảng chỉ khoảng 2.4 đến 2.6 hải lý…”
“Họ không bật đèn trong khi đang bão sao? Không… không thể nào…” – Ông bần thần, rồi chợt nhìn tôi.
Trong giây lát, Willson nhướn mày kinh ngạc như đang soi kỹ từng đường nét trên khuôn mặt tôi, trước khi mi mắt đổ trở lại phía sau hàng lông mày đã sụp.
Tấm lưng rũ xuống, lão tựa vào tường cùng đôi mắt đang mờ đục dần đi.
Willson, chỉ thều thào hỏi trước khi chìm trong im lặng: “…Ngọn hải đăng đâu… và Sanael… đâu rồi…”
Mưa vẫn đổ trên những mái hiên nơi thị trấn suốt những ngày sau, trong cả ngày cuối của Willson. Dù không còn gắt khi bão đã qua đi, nhưng vệt khí áp ở lại vẫn khiến bầu trời chẳng còn tươi sáng như cách mà mấy hôm trước đã từng.
Ngoài khơi xa, mây hải dương từ những miền xa lạ vẫn trôi.
Thi thoảng, chúng ghé qua, quyện vào bức nền xám của Elsy trước khi bỏ lại thị trấn phía sau.
Có lẽ chúng cũng giống Sanael và Willson, đang vượt biển trên chuyến phiêu du đơn độc.
“…Họ đi thật rồi à?” – Cath hỏi.
Gần đây, cậu ấy ghé qua chỗ làm việc của tôi thường xuyên hơn.
“Ừ…” – Tôi trả lời, trong khi ngắm nhìn chai soda xanh trong tay.
Cath thường ngồi lại tới tận khi hết ca đêm, điều cũng làm tôi bất ngờ chẳng kém cạnh so với khi biết cậu ta đã rời khỏi công việc ở bãi phế liệu.
“…Tớ…” – Cath hướng đôi mắt ra biển, chăm chú ngắm nhìn vào hư vô.
Có gì đó dừng lại ở đầu lưỡi cậu, mãi chẳng thể thốt ra. Đôi mắt xanh đó cứ chăm chú như kiếm tìm, rồi sau hồi im lặng, những gì đáp lại sự chờ đợi của tôi chỉ là cái thở dài:
“Tớ… muốn làm những gì mình thích, đi khắp nơi bên bãi biển, rồi có thể thấy mọi thứ trong lúc mặt trời còn chưa lặn…”
“Cậu có thể mà” – Cười trừ, tôi đưa chai soda sang và chờ Cath cụng lại.
Nhưng không, tất cả những gì hiện hữu vào lúc này chỉ còn giọng nói nơi vòm họng của cậu ta: “Không… không thể đâu…”
Cath đứng dậy khỏi bờ chắn cát, nhả đầu lọc ra và dẫm lên nó.
“Ngày trước, mỗi khi bước vào thị trấn giữa ban ngày ấy… Chúng lại gợi tớ nhớ về Sanael. Nhưng gần đây, mọi thứ cứ thay đổi dần. Thị trấn này ngày càng xa lạ…” – Cậu tiếp tục nghiến mũi chân xuống mẩu thuốc đã tàn:
“Ừ. Đúng ra, điều đó sẽ phải khiến tớ dễ chịu hơn… Đúng ra phải vậy…”
“Hài thật…” – Cath cười: “…Tớ thậm chí còn chả thích vị của thuốc lá”
“Nhiều thứ đã thay đổi, tớ biết…” – Tôi toan trả lời, rồi lại thôi.
Và cậu ta vẫn tiếp tục, trong khi đôi mắt nhìn xuống đầu lọc đã nát vụn trên đất.
“Những gì tớ từng biết, bây giờ đã trở nên thật xa vời. Bãi biển, con đường, áp phích ở bảng thông cáo chung, thứ âm nhạc họ phát trên radio…
Tới khi tớ để ý, thì những người từng biết cũng không còn đó nữa…”
Trong một giây phút ngắn thôi, có lẽ, cậu ta đã nhìn về phía bến cảng bờ tây...
Ngọn hải đăng phía xa xa vẫn đơn độc, vẫn đứng lặng lẽ dưới bầu trời tháng tư trong khắc chạng vạng của hừng đông.
“Cả cậu và Elise nữa, tất cả đều trở nên thật xa lạ. Cô ấy không còn cười như ngày trước nữa, còn cậu thì…” – Bước xuống bờ cát, ánh mắt xanh u uất kia quay lại nhìn tôi:
“Tớ biết sự thay đổi là bình thường. Ai mà chẳng phải sống, nhỉ?”
Nụ cười gượng gạo trên môi cậu ta tắt dần. Và rồi hôm đó, Cath đã nói với tôi… Dù khẽ thôi, chỉ vừa đủ nghe nhưng tới tận bây giờ, hồi ức đó vẫn thi thoảng gợi lại mỗi khi đứng dưới sắc bạc phôi phai của bầu trời:
“Dù vậy, đây rõ ràng không phải cách mà một con người nên tồn tại…”
Sương gió nơi bến cảng vẫn chẳng đổi thay gì…
Hay chỉ mình tôi nghĩ vậy? Sóng đại dương xô bờ, có lẽ cũng xô dạt đi bóng hình năm đó nhoà vào sương trắng.
Giọng Cath mờ đi, như trong suốt hơn, cũng như thể sắp vỡ vụn:
“…Và… tớ thấy mình không còn thuộc về nơi này, sự tồn tại cũng đã chẳng còn nghĩa lý gì nữa… Nhưng ít nhất, có lẽ đây là cảm giác của Sanael ngày đó…”
Lặng lẽ, cậu quay lưng và bước đi, về phía ngọn hải đăng.
Trên bờ cát trắng, vết chân cứ trải dài dẫn lối về hồi ức năm nào. Và bình minh, và biển xanh, và sóng cũng như màn mưa bụi… có vẻ đã chẳng còn quan trọng nữa…
Trước mặt chúng tôi đã là khung cửa năm nào.
“Lớp sơn bóng của nó đã bong tróc hết rồi” – Xoa lên khung cửa gỉ sét, phủi đi lớp sơn đã khô lại, cong lên và đang vỡ vụn.
Bên trong lớp tường trắng là không gian u tối của những cửa sổ hẹp, ván gỗ bạc màu... nhưng đa phần, mọi thứ vẫn hệt như xưa.
Tiếng sóng đập dưới chân của ngọn hải đăng bị giam trong bức tường, vọng lại và vang lên trên đỉnh – nơi đã phơi những tấm ván sàn xô lệch cùng nắng mưa.
“Đó… Chỉ ngay ở kia thôi” – Từng bước, dáng người rệu rã của cậu lê bước trên những bậc thang. Từng bước, theo dãy cầu thang, âm thanh của phiến gỗ mục nát kêu răng rắc dưới chân chúng tôi.
“Cậu nhớ không…” – Cath nói mà chẳng nhìn lại.
Trong bóng tối mờ trong tháp hải đăng, chỉ có bóng lưng cùng chiếc áo của cậu là thi thoảng được chiếu sáng nhờ những cửa sổ hẹp.
“Mùa hè năm đó ấy, thật đẹp… Chúng ta cứ kéo nhau tới đây, mặc cho những gì người lớn nói. Và với Sanael, Elise và cậu, cái nơi vốn trống rỗng này lại dường như là bất tận vậy…”
Giọng của Cath trầm đi, chẳng rõ là do những bức tường cong khép kín chật chội hay bởi hoài niệm ùa về.
“…Mùa hè năm đó ấy…”
Tiếng thở dài vang vọng, tan vào vọng âm của sóng.
“…Tớ cứ nghĩ rằng mọi thứ sẽ kéo dài mãi. Hoặc ít nhất cũng phải tới khi chúng ta lớn lên, nhưng… giờ thì nhìn xem…”
Giọng của cậu ta hơi run nhẹ, có chút nghẹn lại:
“…Đôi lúc, tới ghét Sanael lắm. Nhưng không phải vì đã bỏ đi theo cách đột ngột như vậy, mà là vì quá sớm…”
Những vòng xoáy cầu thanh hẹp dần và bóng tối cũng tan đi, Cath dừng lại đôi chút trước khi đặt một chân lên mặt sàn đã ngả màu sương gió. Cậu ta hít một hơi rồi nhìn quanh, như lưu luyến mảng tường đã vỡ quá nửa. Cơn mưa lúc này như đã ngớt, ánh bình minh cũng đang len lỏi ở phía xa ngoài khơi. Dù cho mới chỉ đang khắc chạng vạng, sắc thiên thanh đã mờ nhạt hiện hữu bên trên tấm nền bạc khói sương nơi bến cảng.
Có lẽ bão đã qua hẳn rồi, và sương mù cũng tan. Có lẽ, hôm nay là ngày đẹp trời… Đủ để có thể thấy được ngọn hải đăng từ dốc sườn Cô Độc.
“…Tớ…” – Cath châm một điếu thuốc.
Có lẽ chỉ là theo thói quen, cậu ta dừng lại ngay khi đầu thuốc bén lửa rồi vứt chúng – cả bao thuốc lẫn chiếc bật lửa, ra khoảng không bên ngoài bức tường vỡ nửa. Gió biển ngày mới đã cuốn chúng đi, tới khi biến mất vào đại dương xanh.
“Nhìn đi. Nhìn xem cái thế giới này đã làm gì chúng ta đi…” – Cath bật cười yếu ớt với vẻ cay đắng. Sự khôi hài xen lẫn mỉa mai cùng lúc hằn sâu trên gò mắt nhô cao, đậm lại thành mảng sẫm màu tăm tối:
“Đó là sự trưởng thành à? Thuốc lá? Căng thẳng? Dạ dày tớ đau, chẳng phải vì giấc mơ lớn lao nào cả, chỉ vì những vấn đề thường nhật. Nhưng nếu không thì lại chẳng biết nên tồn tại vì điều gì…”
Rồi từ đằng xa, bình minh cũng đã lên. Đôi mắt của cậu ta như dịu đi trong một khắc, nắng dịu in vết lên cặp đồng tử xanh mờ nhạt, và khoé mắt đó đã đỏ hoe từ lúc nào.
“Ừ… Tớ biết. Có lẽ, tớ chỉ ghét bị bỏ lại” – Giọng cậu run rẩy như sắp vỡ oà:
“Thế đấy, tớ ghét sự cô độc, và ghét bị bỏ lại. Nhưng lại chẳng thể làm gì hơn khi những thứ bỏ tớ đi lại là thời gian và mục đích tồn tại…”
Nụ cười đó tắt dần, rồi cậu lặng đi trong giây lát như thả hồn vào ánh bình minh.
“…Đúng ra, năm đó, tớ phải đi với Sanael. Những năm tháng cô độc có lẽ sẽ chẳng tới, và những điều tồi tệ sẽ không phải thứ mà tớ phải chứng kiến. Bị bỏ lại tàn nhẫn thật đấy, chẳng thể đi đâu được, cứ vậy mà mắc kẹt lại với thứ cảm giác này…”
Âm điệu của Cath vỡ ra thành tiếng nấc, trước khi biến mất khỏi khung nền xanh của đại dương và bầu trời:
“Này… Hãy tạm biệt Elise giúp tớ…”
Trong khoảng lặng của hừng đông, sắc màu của chiếc áo lem vết bụi tan dần vào sâu thẳm.
Biển xanh vĩ đại nuốt gọn cậu và cả những gì liên quan tới bóng hình năm xưa.
Không còn Cath, không còn Sanael, chẳng còn mùa hạ, cũng chẳng còn “tôi”.
Cũng như năm đó, chỉ còn lại những dòng lưu bút nhoè…
“Ngày hôm nay, tớ đã đi…
Xa khỏi tấm màn bạc trên bầu trời bến cảng, khỏi những mái hiên dưới bóng chiều nơi ngọn Cô Độc.
Xa khỏi bóng đèn neon và âm hưởng màu trà của tiếng radio xưa cũ.
Có lẽ đại dương cũng chỉ là bầu trời, và sắc thiên thanh kia cũng chỉ là biển trên cao. Con thuyền độc hành giữa biển xanh, có lẽ chẳng để tìm về một bến bờ nào cả…
Cũng chẳng quan trọng…
Tớ đi, để cảm thấy như mình đã từng tồn tại.
Đi thật xa, khỏi ngọn hải đăng, xa khỏi cùng nỗi cô đơn đang phai sắc vào sương trắng…”
2 Bình luận