Ngày 28 tháng 05 năm XXXX
Hôm nay là ngày thứ bốn kể từ khi tàu rời cảng, trời êm sóng lặng, không có điều gì bất thường. Hy vọng lại là một ngày thật đẹp trời!
Viết vỏn vẹn một dòng, tôi gấp quyển nhật ký lại, vươn vai đứng dậy. Tên của tôi là Thalos Cleveland, vị thuyền trưởng lừng danh của con tàu hàng Serenity. Công việc của tôi là vận chuyển hàng hóa giữa hai lục địa Othesia và Tartaglia. Nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng ước gì nó thật sự đơn giản như thế.
Sở dĩ một tên thuyền trưởng tàu hàng mà lại lừng danh là bởi Serenity không đi qua Thái Bình Dương im lặng, hay Viễn Tây Dương trống trải. Nó là con thuyền dám giương buồm xẻ ngang vùng biển Âu Bắc Dương đầy nguy hiểm và chết chóc.
Ba tôi mất trên chính vùng biển này. Nghề này bạc lắm - hôm nay thì trời xanh sóng biếc, ngày mai có khi chỉ còn lại những mảnh vỡ của thuyền trôi dạt vào bờ. Mẹ tôi thì là công nhân làm việc trong một xưởng sản xuất đồng hồ. Chẳng biết chúng đã dùng chất hóa học quái quỷ gì trong quá trình đó mà chỉ vài năm sau bà đã liệt nửa người, cả hàm dưới như muốn rụng ra, theo nghĩa đen! Lúc ấy, tôi mới tám tuổi còn đứa em gái tôi thì chỉ năm tuổi, thế là tôi buộc phải đi chạy đây chạy đó tìm việc làm kiếm sống.
Ban đầu thì đi chạy vặt trong mấy cửa hàng, nhưng số tiền đó còn lâu mới nuôi sống được cả nhà ba miệng ăn. Sau đó, tôi bắt đầu nhận mọi loại công việc mà mình có thể làm, từ buôn thuốc phiện, vận chuyển hàng cấm đến đánh nhau thuê. May sao, nhờ tài đánh đấm của mình mà tôi lọt vào mắt vài gã thủy thủ, thế là họ bóc tôi lên thuyền.
Có kinh nghiệm từ chuyện của ba mình, tôi biết một điều: nghề này kiếm bộn tiền! Việc tỷ lệ tử vong cao nằm ngoài suy nghĩ của tôi lúc ấy, dù sao sống đã khổ thế này rồi, có khi chết lại là giải thoát, còn nếu không chết thì kiếm được nhiều tiền, rõ là kèo nào cũng thơm. Thế rồi, một phần nhờ may mắn, một phần nhờ thực lực, tôi đã trở thành một vị thuyền trưởng và sống sót đến tận bây giờ, năm mươi sáu tuổi!
Nói cho bạn biết, không có mấy người đi biển ở Âu Bắc Dương mà sống quá bốn mươi đâu. Đến tầm tuổi này, tôi đã gom góp được cả một gia tài, có vợ hiền con ngoan ở nhà. Nhiều người khuyên tôi nên ‘rửa tay gác kiếm’, tôi mới nghĩ, nói vậy cũng không sai! Cả đời bươn chải ở chốn quái quỷ này vậy là quá đủ rồi, tôi nên trở về đất liền, dành phần đời còn lại tận hưởng những ngày bình yên bên gia đình. Thế là viên mãn.
Tôi ngẩng đầu lên, nhìn vào chiếc gương trên bàn. Trong đó là một lão già râu ria xồm xoàm, khuôn mặt đầy nếp nhăn, nhưng ánh mắt vẫn giữ vẻ quyết tâm và sắc sảo như ngày nào. Khó mà liên tưởng đến được, hơn năm mươi năm trước, cũng trên chiếc thuyền này, trước chiếc gương này, lại là một cậu nhóc hỉ mũi chưa sạch, chân ướt chân ráo bước vào cái nghề đầy hiểm nguy.
Khi đó, đứa nhóc đó chẳng màng đến việc sống chết, vậy mà giờ đây, cái lão già lại suy nghĩ về việc rút lui về đất liền.
“Mi nghĩ sao hả Serenity? Chúng ta đã quá già rồi, có lẽ nên đến lúc khép lại chuyến hành trình dài đầy sóng gió này. Rồi hai ta sẽ về vườn an ổn tuổi già… À phải rồi, chỉ có tao mới an ổn thôi. Còn mày thì còn lâu mới được an nghỉ, ha ha ha!”
Tôi tự nói tự cười, còn con thuyền thì chẳng thèm đáp lại trò đùa của người bạn già này. Tất nhiên là thuyền thì sao mà đáp lại được. Tôi bước ra khỏi phòng. Nhưng ngay khi vừa mở cửa, một cảm giác chênh vênh ập tới.
Con tàu đang chao đảo.
Tôi vội nắm lấy cạnh cửa để giữ thăng bằng nhưng mọi thứ vẫn tiếp tục rung lắc dữ dội mà không hề có dấu hiệu ngừng lại. Một cơn bất an dâng lên trong lòng, tôi lập tức lao ra boong tàu. Vừa bước ra tới nơi, tôi nghe thấy lũ thủy thủ trên tàu lẩm bẩm trong sợ hãi.
“Là ông Bão!”
“Ông Bão tới rồi…”
“Xin Chúa từ bi…”
Tiếng người rên rỉ xen lẫn tiếng sóng gào thét khiến tôi cảm thấy inh tai nhức óc, nhưng tôi lại chẳng thể suy nghĩ gì được. Tôi đứng sững tại chỗ, điếng người trước cảnh tượng trước mắt. Một cuộn gió xoáy khổng lồ và xám xịt đang gầm rú, sục sạo mặt biển như một con thú hoang khát máu. Serenity có chiều dài tầm 30 mét, nhưng trước con quái vật khổng lồ đó thì quả thật chỉ như con cá trác nhỏ trước mặt một con mực biển khổng lồ.
À, tôi vẫn chưa nói tại sao Âu Bắc Dương lại nguy hiểm nhỉ?
Nó là vùng biển cận kề với một trong các vùng đất chết - Đại Dương Không Biết Cthustena. Thỉnh thoảng lại có vài thứ kỳ lạ từ Cthustena thoát ra được và đến nơi này, cũng có khi tàu thuyền sẽ vô tình trôi dạt vào đó, và chẳng bao giờ trở lại.
Ông Bão, cái tên thân thương chúng tôi gọi cho nó, thứ đang ở trước mặt tôi lúc này. Người ta gọi nó như thế vì sợ mạo phạm đến nó, nó sẽ tìm đến và kéo người ta vào Cthustena, dù nó còn chẳng có suy nghĩ. Nhưng mà tôi có làm gì đâu nhỉ, thế mà nó vẫn ở đây.
…
Mẹ kiếp.
Ông Bão cái đếch gì chứ, thằng chó đẻ khốn nạn. Tao đã làm gì mày đéo đâu?
Rõ ràng chỉ còn một chuyến hàng cuối cùng mà… chỉ còn một chuyến thôi. Tao đã dong buồm trên vùng biển này hơn năm thập kỷ rồi… tại sao lại là hôm nay? Nếu mày muốn nuốt lấy tao, sao không làm điều đó ngay từ khi tao còn là một thằng nhóc mũi xanh vừa đặt chân lên thuyền đi?
À. Vì lúc đó tao sẽ không sợ mày nhỉ. Vì lúc đó tao sẽ không hận mày nhỉ.
Tôi lặng nhìn thằng Bão tham lam nuốt lấy con thuyền. Từ mũi tàu, nó trườn lên, cuốn lấy mạn tàu, rồi há to cái họng nuốt cả boong tàu vào. Tôi nhắm mắt lại và chờ đợi.
Chà… biết nói sao nhỉ? Trời chẳng chiều lòng người.
—
Boong thuyền đầy nước, mực nước dâng cao đến tận bắp chân, như một bàn tay lạnh buốt siết chặt lấy da thịt. Cả chiếc thuyền liên tục phát ra tiếng kêu răng rắc, như thể bản thân nó đang cựa mình rên rỉ bởi cơn bão vừa rồi. Mùi ngai ngái của muối và rong rêu bám vào mọi ngóc ngách của con thuyền.
Những tên thủy thủ tập trung lại trên boong thuyền. Vài tên xấu số hứng trọn cơn bão thì quần áo ướt sũng, mái tóc bết lại trên trán. Bản thân tôi giờ khắc này cũng chả khá khẩm hơn gì. Những người ban nãy còn ở trong khoang thuyền lúc này mới bước ra, nghe những người khác kể lại chuyện vừa xảy ra thì cũng thẫn thờ, tiu nghỉu. Một sự im lặng ngột ngạt bao trùm, đến mức mỗi tiếng thở nhẹ cũng nghe chói tai vô cùng.
Không ai nói một lời, vì không ai biết phải nói gì cả. Đại Dương Không Biết, xứ sở của những điều nằm ngoài trí tưởng tượng của nhân loại, một khi lầm bước đến đây thì bất kể bao nhiêu năm kinh nghiệm sống, bao nhiêu năm kinh nghiệm hàng hải đều như nước lã đổ sông, chẳng còn ý nghĩa gì nữa.
Nhưng những người khác có thể không nói, tôi là thuyền trưởng, tôi phải nói. Tôi khẽ hắng giọng, thu hút sự chú ý của mọi người rồi lên tiếng:
“Được rồi, tập trung nào các chàng trai! Chúng ta vẫn còn sống, đừng có mặt mày ủ rũ như vậy nữa. Jacob, thử liên lạc với trạm cứu hộ biển Bắc. Glenn, tăng số lần ghi chép nhật ký hải trình lên bốn lần mỗi ngày. Percy, lên kế hoạch sử dụng lương thực, chúng ta không biết sẽ kẹt ở nơi quái đản này bao lâu…”
Bất chợt, một gã trung niên với chòm râu vàng giơ tay lên. Hắn ta là Wilson Pearson, thủy thủ trưởng của tàu. Tôi ngừng lại, hất cằm ra hiệu cho hắn nói.
“Thuyền trưởng… làm vậy có ích gì chứ? Đây chính là Đại Dương Không Biết!”
“Vậy chú mày định làm gì?” Tôi nhướng mày. “Ngồi đó mà run rẩy, rồi đợi nó nuốt sống à? Không phải là chưa từng có ai vượt qua Cthustena, và nếu như vậy, tại sao tao không thể?”
“Nh-nhưng những chiếc thuyền từng sống sót rời khỏi nơi đây đều là thuyền của những các nhà mạo hiểm có sức mạnh siêu nhiên! Ch-chúng ta chỉ là người thường mà thôi!”
Tôi áp sát Wilson, gã hơi giật mình lùi lại vài bước, hai bàn tay run run siết chặt lấy vạt áo ướt sũng. Ánh mắt của hắn hiện lên vẻ hoảng loạn tột độ, như một con chuột bị dồn vào góc tường. Quả là một thằng ngu nhát cáy! Lẽ ra tôi không nên để một kẻ như vậy giữ chức thủy thủ trưởng.
“Tao là Thalos, tao là vị thuyền trưởng đã ra khơi suốt 55 năm nay trên cái vùng biển Âu Bắc Dương chết tiệt này rồi. Lũ mạo hiểm giả mà mày kể, bọn chúng chắc gì đã có thể sống sót ở nơi đấy hơn mười năm?”
Gã cúi đầu xuống, im lặng không nói. Tôi rút khẩu lục ổ quay khỏi thắt lưng, cái âm thanh cạch vang lên khi tôi mở chốt an toàn. Wilson co rúm lại, vai hắn run lên. Tôi đưa súng về phía hắn, ánh kim loại lạnh ngắt phản chiếu đôi mắt trợn trừng của gã.
“Cầm lấy. Nếu mày đã từ bỏ rồi thì cầm lấy và tự xử. Thuyền của tao không chứa lũ vô dụng sợ sệt. Tao còn đang lo trên thuyền sẽ thiếu lương thực đây.”
Wilson không trả lời, cả người hắn run lên như cầy sấy. Cuối cùng, hắn ngã quỵ xuống, lắp bắp nói với cái giọng méo mó: “X-xin lỗi thuyền trưởng, t-tôi chưa muốn chết! Làm ơn đừng giết tôi!”
“Hừ!” Tôi cất khẩu lục của mình, đưa mắt dạo quanh lũ thủy thủ trên tàu. “Ai khác muốn từ bỏ thì cứ lên tiếng. Tao đảm bảo mày sẽ được ra đi một cách nhanh gọn và không đau đớn. Nhưng còn tao, tao sẽ không từ bỏ như vậy, và tao sẽ tìm được đường về. Ai còn muốn về thì nghe lời tao mà làm việc!”
“Rõ, thưa thuyền trưởng!” Chúng đồng thanh đáp.
Tôi khẽ gật đầu, đưa tay ngoắc gọi tên hoa tiêu rồi quay đầu trở về phòng.
“Glenn, theo ta đến phòng thuyền trưởng.”
Glenn là một lão già mặt mày nhăn nhúm cả lại, khó mà phân biệt được ngũ quan. Đặc điểm nhận dạng của ông ta là cái vết bỏng chiếm gần nửa khuôn mặt cùng cánh tay trái. Ông ta là hoa tiêu của thuyền đã được hai mươi năm, lúc mới lên thuyền thì ông ta đã hơn bốn mươi. Nghe nói trước đó, lão là một vị giáo sư trong trường đại học nào đó. Chẳng hiểu sao lão lại quyết định chuyển nghề. Tôi hỏi thẳng lão:
“Lão có biết cách nào để rời khỏi Đại Dương Không Biết không?”
Dù sao lão cũng từng là giáo sư, biết đâu lão lại biết được một số thứ hữu dụng. Lão trầm ngâm một lúc rồi chậm rãi nói, với cái tông giọng lề mề như mọi khi:
“Trong Đại Dương Không Biết, la bàn không biết phương hướng, sao trời không biết vị trí, cũng chẳng có bản đồ nào ghi chép lại nơi này. Gần như là không có cách nào để xác định được hướng đi.”
Tôi nhíu mày: “Thế những chiếc thuyền từng thoát khỏi đây đã làm cách nào?”
Không để cho tôi thất vọng, lão từ tốn lên tiếng:
“Thật ra có một đường mốc biển nối từ lãnh hải Othesia đến sâu trong Đại Dương Không Biết, dùng để các nhà mạo hiểm tiến vào khám phá vùng biển này. Nếu… chúng ta may mắn bắt gặp được nó, thì chúng ta có thể thoát ra!”
Tôi thở dài. Ít nhất thì vẫn có một phương án để bám vào. Vận may sao… tôi là kẻ đã sống sót suốt năm mươi năm năm trên Âu Bắc Dương, vận may chưa bao giờ rời bỏ tôi cả.
“Được rồi, tạm thời lão sẽ không là hoa tiêu nữa. Lão sẽ là Người Ghi Chép của thuyền.”
Người ghi chép, một vai trò vô cùng thiết yếu trong các vùng đất chết. Khi mà chúng mang đến khả năng bóp méo, xuyên tạc tâm trí con người, thứ duy nhất mà ta có thể tin vào chính là sổ ghi chú của người ghi chép. Lão Glenn vừa rời đi, Jacob lại tiến đến.
Jacob là thuyền phó của Serenity, hắn có làn da ngăm nâu, cùng đôi mắt xanh da trời hiếm thấy nhưng lúc nào cũng mang theo vẻ mệt mỏi trong đó. Hôm nay, sự uể oải ấy lại càng lộ rõ hơn bao giờ hết.
“Thuyền trưởng, đài vô tuyến trên thuyền không còn hoạt động.”
Không nằm ngoài dự đoán, dù sao cũng là Đại Dương Không Biết. Tôi kể với hắn những gì lão Glenn nói, đôi mắt hắn thoáng qua vẻ mừng rỡ nhưng chúng lại nhanh chóng lịm đi.
“Mày với Clinton thay nhau lái thuyền đi. Lái đi đâu cũng được, sẽ có lúc chúng ta tìm được đường ra.”
Trên biển, việc lái thuyền mà không xác định được phương hướng là một điều tối kỵ. Nhưng đó là chuyện ở thế giới bên ngoài, Đại Dương Không Biết có quy tắc của riêng nó.
Nhìn Jacob rời đi, tôi với tay vào ngăn bàn, lấy ra quyển nhật ký bìa cứng màu vàng của mình. Thứ này là do Margaret, người vợ yêu quý của tôi tặng. Tôi mở nhật ký ra, cầm bút lên viết.
Đất chết có luật, phải luôn tin vào ghi chú của người chi ghép.
Trong đất chết còn có một luật khác nữa, không được tin bất kỳ ai khác ngoại trừ bản thân mình.
Ngày đầu tiên lạc vào Cthustena, số thành viên còn lại là mười ba.
Tao không yếu đuối như vậy, chỉ là một vùng biển kỳ quặc, muốn giết tao không dễ. Đại Dương Không Biết thì sao chứ, tao sẽ bước ra từ nơi đây, và mọi người trên thế giới sẽ biết đến tên tao.
—
Ngày thứ ba lạc vào Cthustena, số thành viên còn lại là mười ba.
Vượt ngoài dự đoán, biển Không Biết chào đón Serenity một cách vô cùng dịu dàng. Qua hai ngày, gần như chẳng có gì xảy ra. Sự kiện duy nhất là vào tối hôm nay, khi một đám nhớt đen sệt cọ quậy bỗng xuất hiện trên boong thuyền, sau khi ăn vài phát súng kíp thì nó không còn cử động nữa. Đám thủy thủ sau đó đã quăng nó xuống biển.
Lão Glenn gọi nó là Rêu Hắc Ín, không nguy hiểm, nhưng nó báo hiệu một điều đáng quan ngại: thuyền đã tiến vào tầm mắt của các vị chủ nhà trong Đại Dương Không Biết rồi.
Tôi gấp nhật ký lại, cảm thấy lòng vẫn chưa bình ổn, tôi quyết định dạo một vòng quanh thuyền kiểm tra xem lũ thủy thủ làm việc như thế nào. Bước ra boong thuyền, tôi ngẩng đầu nhìn trời. Bầu trời đêm nay quang đãng không một gợn mây, mặt trăng tuy tròn nhưng lại mờ ảo lạ thường, cứ như thể ánh sáng của nó đang dao động theo một nhịp điệu vô hình. Thôi nào! Mới ngày thứ ba thôi mà đã hoang tưởng rồi sao Thalos? Mày yếu đuối đến thế cơ à?
Gạt bỏ suy nghĩ vẩn vơ, tôi đi kiểm tra phòng điều khiển. Jacob đang ngồi trước bánh lái, thẫn thờ nhìn mặt dây chuyền trên tay, trong đó có một bức ảnh gia đình. Thằng nhóc Clinton thì nằm ngủ ở một bên, phát ra tiếng ngáy đều đều. Thấy tôi đến, Jacob vội cất chiếc dây chuyền đi, gật đầu chào. Tôi kéo ghế ngồi xuống một bên, mở lời:
“Thằng John nhà mày sắp kết hôn rồi nhỉ? Có quyết định thời gian chưa?”
“Vào cuối năm nay.” Nhắc đến con trai, khuôn mặt hắn giãn ra, cười tươi như hoa. “Chúng tôi định tổ chức đám cưới cho nó trong nhà thờ thánh Paulo.”
“Mày thì khỏe rồi.” Tôi gật gù, rồi thở dài. “Đứa con gái của tao năm nay hai mươi rồi. Vậy mà hối mãi không chịu đi lấy chồng. Bọn trẻ bây giờ thật là…”
Jacob bật cười, bầu không khí thoáng chốc nhẹ nhõm hơn. Tôi dựa lưng ra sau, tiện miệng nói tiếp:
“Thời tiết hôm nay đẹp thật nhỉ? Cả đời tao lênh đênh trên Âu Bắc Dương, thấy đủ cảnh trời giông bão, chớp giật, gió hú, nhưng loại trời trong mây tạnh thế này lại hiếm có vô cùng. Hóa ra trong Đại Dương Không Biết cũng có một ngày dễ chịu hơn cả ngoài kia.”
“Ha ha, đúng thật. Công nhận trăng hôm nay sáng tỏ rõ phết.” Jacob cười đáp lại.
“Ừm? Trăng hôm nay tuy tròn nhưng mà tao có cảm giác mờ mờ chứ có sáng rõ lắm đâu?”
Nụ cười trên khuôn mặt Jacob cứng đờ lại. Hai mắt hắn mở to nhìn tôi, tròng mắt co lại. Một dự cảm chẳng lành dâng lên trong lòng tôi, hắn cất giọng khàn khàn nói:
“Thưa ngài… hôm nay là ngày trăng khuyết.”
Cả người tôi lạnh toát. Không nói một lời, tôi sải bước ra boong, ngửa đầu nhìn lên lần nữa, vẫn là ánh trăng tròn trịa mờ ảo hiện ra rành rành trước mắt tôi. Tôi lao trở lại phòng điều khiển, chụp lấy ống loa thông báo, hét:
“Glenn! Kiểm tra ghi chép! Đêm nay là ngày trăng gì?”
Rất nhanh, âm thanh ồm ồm của ông lão phát ra từ ống loa kim loại: “Trăng khuyết!”
“Lên phòng điều khiển, nhanh!” Tôi nói gấp với ông ta rồi quay sang đá vào người thằng Clinton một cái. “Dậy! Đi lên bật đèn pha, chiếu thẳng lên trời cho tao.”
“Ừm? A! Rõ thưa thuyền trưởng!”
Thằng nhóc giật mình bừng tỉnh, đưa tay chùi miệng, lật đật chạy đi. Lão Glenn cũng hớt hải bước đến, nách kẹp một quyển sách dày viền bạc.
“Có chuyện gì sao, thuyền trưởng?”
Tôi không đáp, chỉ tay lên trời. Lão nhìn theo, rồi cả người khựng lại. Đôi mắt già nua của lão run rẩy. Đúng lúc đó, ánh đèn pha bật sáng, rọi thẳng lên bầu trời.
Không. Không phải bầu trời.
Tôi ngẩng đầu lên, tim tôi như đông cứng lại. Những chấm sáng li ti, mà tôi tưởng là sao trời, thực ra là... không, không thể nào... Tôi chớp mắt liên tục, cố gắng phủ nhận cái sự thật bày ra trước mắt. Đó không phải sao trời, đó là những đốm phát quang trên bụng của một thứ gì đó đang lững lờ bơi phía trên con thuyền. Một thứ khổng lồ, che lấp hoàn toàn bầu trời phía trên!
Glenn cà lăm lên tiếng:
“L-là Cá Voi Treo Trăng!”
Cá đéo nào lại bay trên trời? Tôi chửi bậy trong lòng một câu rồi chạy vào buồng điều khiển, gầm thét vào ống loa:
“Terry! Nhồi thêm than vào lò, tăng tốc hết cỡ! Wilson! Kêu bọn thủy thủ tỉnh dậy, tháo dỡ bớt thùng hàng cho nhẹ tàu!”
Từng làn khói phun trào qua các ống dẫn, con thuyền rung lên tăng tốc lao về phía trước. Nhưng ánh trăng treo trên đầu vẫn không nhúc nhích. Nó vẫn ở đó, trơ trơ tại chỗ, cứ như đang nhìn xuống, quan sát chiếc thuyền bé nhỏ này. May mắn thay, thứ quái vật đó dường như không để tâm đến Serenity cho lắm. Dù sao với kích thước khổng lồ của nó thì con thuyền này còn chả đủ bỏ kẽ răng.
Cuộc chạy trốn kéo dài bốn tiếng đồng hồ. Terry đã hét không biết bao lần đến khản cả giọng rằng lò than sắp phát nổ. Cuối cùng, vào một thời điểm nào đó, khi sức lực của mọi người sắp cạn kiệt, con thuyền cuối cùng cũng chạm đến ánh nắng mặt trời. Lúc này đây, mọi người mới biết, đã trưa mất rồi.
Kiệt sức, đói bụng, buồn ngủ, mọi cảm giác đồng loạt ập đến. Đầu tôi nhói lên mỗi khi suy nghĩ về thứ quái vật trên đầu khi nãy, nhưng tôi lại chẳng thể nào dừng nghĩ đến nó được. Như thể con quái vật đấy đã ăn sâu vào tâm trí của tôi. Và của những người khác trên thuyền.
Tôi ngã người ra ghế, thở dài một hơi, yếu ớt nói với Glenn.
“Bổ sung ghi chép ngày hôm nay đi.”
—
Ngày thứ sáu lạc vào Cthustena, số thành viên còn lại là mười ba.
Hôm nay, trời trong biển lặng, tạm thời không có gì bất thường. Những giấc mơ về con cá voi kia đã tạm dừng lại. Có vẻ tất cả mọi người đã bình phục lại sau đó. Chỉ trừ Jacob, hắn ta dạo gần đây bỗng lải nhải điên khùng gì đó, rất đáng lưu tâm.
Kể từ ngày hôm qua, những món đồ lặt vặt trên thuyền bỗng nhiên biến mất. Wilson nói một tên thủy thủ đã đánh mất một cây chổi trên thuyền. Louis nói sách kinh thánh của gã đã không thấy đâu nữa. Đám thủy thủ cũng báo cáo nhiều đồ vật khác bị mất. Tạm thời đồ ăn vẫn chưa có dấu hiệu bị biến mất. Tôi dặn dò Glenn quan sát kỹ quyển sổ ghi chép của hắn, còn bản thân thì trang bị thêm vài ổ khóa cho ngăn tủ chứa cuốn nhật ký này.
Dù chỉ mất những món đồ linh tinh không quan trọng, nhưng điều này đang ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý của các thủy thủ trên thuyền. Tôi cần tìm cách giải quyết thật nhanh chóng.
Margaret, anh nhớ em!
Đóng quyển nhật ký lại, tôi đứng dậy tiến về phòng ăn. Đã đến giờ ăn trưa rồi, đồ ăn trên thuyền vốn không ngon lành gì, còn phải lo nghĩ về vấn đề lương thực nên lượng ăn cũng ít hơn bình thường.
“Trên thuyền còn bao nhiêu lương thực?”
“Còn đủ cho cả đoàn ăn trong hai tháng, thưa thuyền trưởng.”
Lão Neil đáp lại. Ông ta là đầu bếp của tàu, một người lùn với bộ râu rậm rạp thả dài đến tận sàn nhà. Tôi khẽ gật đầu, ít nhất hiện tại không cần lo lắng thiếu thốn lương thực. Nhưng ngay lúc này, Wilson bỗng lên tiếng hỏi tên thủy thủ trẻ tuổi bên cạnh:
“Bob đâu rồi?”
“Chắc cậu ta còn đang lau boong thuyền, để tôi đi gọi cậu ấy.”
Thằng nhóc thủy thủ rời phòng ăn, trong khi mọi người vẫn tiếp tục bữa trưa. Thế nhưng, tầm mười lăm phút sau, cậu ta quay lại, mặt tái mét, môi run run:
“K-không thấy đâu cả.”
“Sao cơ?”
“Tôi đã tìm khắp nơi trên thuyền, nhưng vẫn không thấy Bob! Cậu ta… mất tích rồi!”
Một câu nói dấy lên ngàn cơn sóng dữ. Một cơn hoảng loạn lan tràn khắp phòng ăn. Tôi đứng bật dậy, nhanh chóng phân phó:
“Terry, dẫn thêm hai người nữa xuống tìm trong buồng động cơ. Wilson, dẫn hai người đi tìm trong phòng ngủ. Jacob, dẫn hai người lục soát boong thuyền. Glenn, Louis, đi theo ta.”
Cả đoàn người chia làm bốn nhóm bắt đầu lật tung cả con thuyền lên. Nhưng sau nửa giờ tìm kiếm, tất cả trở về boong với gương mặt nặng nề. Không ai tìm thấy Bob. Một con tàu giữa đại dương, không có chỗ nào để ẩn nấp, vậy mà một người lại có thể biến mất như chưa từng tồn tại. Mọi người không hẹn mà cùng suy nghĩ về những đồ đạc linh tinh bị mất tích gần đây trên thuyền.
Cứ nghĩ nếu chỉ mất những món đồ lặt vặt thì không sao, vậy mà bây giờ, một người sống sờ sờ ra đó mà cũng mất tích được sao?
Tôi ra lệnh mở kho vũ khí, phát cho mỗi người một khẩu súng lục và một con dao găm.
“Từ giờ trở đi, không ai được phép đi một mình. Đi đâu cũng phải có người đi cùng, không rời khỏi tầm mắt của nhau. Tất cả sẽ ngủ chung trong phòng thủy thủ. Mọi công việc lau rửa, bảo trì tạm thời đình chỉ. Cho đến khi tìm ra được chuyện gì đang xảy ra trên con tàu này, không ai được phép tự tiện hành động mà không có lệnh của ta.”
Phòng ngủ của thủy thủ khá rộng rãi, đủ để tất cả mười hai người cùng ngủ một cách thoải mái. Nhưng mà tối hôm đó khẳng định là một đêm khó ngủ của tất cả mọi người trên thuyền.
—
Ngày thứ bảy lạc vào Cthustena, số thành viên còn lại là mười hai, Bob Norris đã mất tích, e là lành ít dữ nhiều. Hôm nay vẫn chưa tìm được đường mốc chuẩn của Othesia.
Tôi viết vội một dòng rồi đóng nhật ký lại, chẳng còn tâm trạng nào để mà viết tiếp cả. Trước đó, tôi chỉ ghi chép nhật ký vào mỗi tối, đến sáng dậy lại lật ra xem vài cái. Nhưng kể từ khi lạc vào đây, tôi đã chia ra thành sáng trưa chiều tối, tổng cộng bốn lần lật nhật ký ra ghi chép và xem xét.
Tôi không biết nó có hiệu quả hay không, nhưng đó là quy tắc mà những kẻ thám hiểm đất chết luôn truyền tai nhau, thà thử lầm còn hơn không thử.
Hiện tại, trên thuyền đang chia làm hai nhóm, mỗi nhóm sáu người. Nhóm của tôi thì ở trong phòng điều khiển, còn nhóm của Terry thì dưới phòng động cơ. Tôi không khỏi nhẩm tính, nếu theo lịch trình bình thường thì hẳn bây giờ tôi đã từ Othesia trên đường trở về nhà rồi.
Tôi liếc sang Louis, người đang nắm chiếc dây chuyền hình mũi đinh ba trong tay, lẩm bẩm cầu nguyện. Ông ta là một vị mục sư đến từ giáo hội Biển Sâu, do công ty cử đến. Mỗi con thuyền ra khơi đều phải có một mục sư bên mình, giúp bảo hộ qua những mưa to gió lớn.
Đó gọi là bảo hộ sao?
Giờ chúng ta đang mắc kẹt trong Cthustena, còn y thì nắm lấy cái dây chuyền nó cầu nguyện thần này thánh nọ. Nếu nó có hiệu quả, vậy sao thánh thần còn chưa vớt Serenity ra khỏi Đại Dương Không Biết? Hay ngay cả thánh thần cũng không thể can thiệp vào Cthustena? Vậy thì là thánh thần cái đếch gì chứ.
Tôi đứng dậy, kêu gọi những người khác:
“Đến phòng ăn thôi, tới giờ rồi. Ừm? Clinton và Alan đâu rồi?”
“Hai đứa nó đi vệ sinh rồi. Chúng ta đến phòng ăn trước đi.” Wilson vỗ đùi đứng dậy, chuẩn bị rời phòng.
Tôi giơ tay ngăn lại: “Không. Chờ họ.”
Wilson đành quay lại vào trong. Và rồi chúng tôi đợi, mười phút, hai mươi phút,... không một ai quay lại. Những người khác cũng nhận ra điều bất thường. Wilson liếm môi, gượng gạo nói:
“Có khi nào… họ đã xuống phòng ăn trước rồi không?”
Tôi siết chặt bàn tay, bực bội đáp:
“Không có lệnh của ta mà dám tự hành động, hai thằng ngu này muốn chết sao?”
Vừa bước ra khỏi cửa, tôi lại đụng mặt với nhóm Terry từ bên dưới đi lên. Terry thấy tôi thì thở phào, hỏi:
“Sao mọi người còn chưa xuống phòng ăn?”
Tôi hơi nhăn mặt lại, hỏi ngược lại đám Terry:
“Mấy người có thấy Clinton và Alan không?”
“A? Chẳng lẽ hai người họ…”
Terry tái mặt, sắc mặt của những người khác cũng chẳng khá hơn chút nào. Vậy là cả buổi chiều hôm đó, con thuyền vắng lặng đến đáng sợ. Bầu không khí nặng nề như muốn đè chết con người ta. Từng cử động nhỏ nhất phát ra tiếng động đều có thể khiến người ta giật mình, làm cho mọi người vừa không dám cử động quá mạnh, vừa căng cứng hết từng sợi dây thần kinh, sợ rằng mình là người tiếp theo mất tích.
Tôi biết lúc này tôi phải nói vài lời trấn an thuyền viên, nhưng chính bản thân tôi cũng cận kề bờ vực sụp đổ rồi. Dựa người bên mạn thuyền, tôi nhìn ra biển xa, hy vọng dùng sắc màu thiên nhiên để làm bình tĩnh con tim này đôi chút, nhưng càng nhìn lại chỉ càng thấy một nỗi tuyệt vọng sâu thẳm.
Biển Cthustena êm thật, nhưng cũng chỉ có thế, một màu xanh vô tận trải đến tận chân trời, chẳng có lấy một con chim, đám mây hay hòn đảo nào ngoài xa, thậm chí còn không có gió. Nếu không phải do những thứ kỳ quái xuất hiện trên thuyền, có lẽ người ta sẽ cho rằng đây thực sự là vùng biển chết lặng hoàn toàn.
Tôi luôn sợ hãi những thứ như vậy. Mưa bão có thể gầm rú, sấm chớp có thể xé toạc bầu trời, nhưng khi chúng tan đi, tôi vẫn có thể ngắm nhìn vầng cầu vồng giữa trời trong mà mỉm cười. Nhưng tôi không thể chịu đựng cảm giác hằng định bất biến ấy. Nó giống như một đôi bàn tay vô hình chậm rãi siết chặt lấy tôi, tước đoạt đi sự sống của tôi từng chút từng chút một.
Một dòng nước lưu chuyển, thì gọi là con sông, nhưng một bãi nước đứng yên thì chỉ là cái hồ, cái ao, cái tù đọng. Không ai gọi cái sông, không ai gọi con hồ. Chẳng phải vì đứng yên mà nó mất đi cái sức sống rồi sao?
Tôi nghĩ người ta sợ cái chết là vì nó quá bất biến và cố định. Nó cứ ở đó, chờ chúng ta đến, rồi khi ta chạm vào nó, ta vĩnh viễn không bao giờ thay đổi nữa. Mọi cố gắng, nỗ lực, quyết tâm và hoài bão, chỉ có ý nghĩa nếu nó có thể tạo ra sự thay đổi, một dấu vết dù nhỏ nhoi trong dòng chảy bất tận của cuộc đời.
Tôi ngửa đầu thở dài, bất chợt một vật lọt vào trong khóe mắt của tôi. Tưởng là nhìn nhầm, tôi dụi mắt vài lần, quay đầu lại, và nó vẫn ở đó. Cánh buồm của thuyền. Nó đang được mở rộng đón gió, dù nơi này chẳng có một lọn gió nào.
“Wilson! Ai để bọn mày mở cánh buồm vậy hả?”
“A? Chúng tôi, chúng tôi không có. Từ khi ngài hạ lệnh không cho tự tiện hành động thì chúng tôi không hề làm gì khác!”
Vậy chẳng lẽ cánh buồm mở ra từ trước đó mà quên đóng? Nhưng mà từ đầu mình làm gì cho mở cánh buồm bao giờ. Tôi nheo mắt, nhìn kỹ về phía cột buồm, tay hơi đưa ra sau hông, chạm vào khẩu lục bên người.
“Không đúng… Cánh buồm vẫn chưa mở ra!”
Cánh buồm của thuyền vẫn còn cuộn lại ở yên chỗ, cái thứ đang mở ra trên cột buồm không phải là của thuyền! Lông tóc tôi dựng đứng lên. Không do dự, tôi rút vội khẩu lục ra bắn vài phát về phía cánh buồm giả. Viên đạn xuyên qua cánh buồm, mở ra một lỗ xác thịt đỏ lòm trên đó, một chất lỏng xanh lục phun trào ra. Các thuyền viên khác cũng hoảng hốt cầm súng lên bóp cò hướng về phía chiếc buồm.
Một tiếng rít chói tai vang lên.
Rồi hàng loạt xúc tu trắng vươn ra từ cái “buồm” đó.
Tôi bỏ khẩu súng lục sang bên, vớ lấy khẩu súng kíp và bắn thẳng vào sinh vật quái dị. Nó gào lên, co giật, rồi trườn xuống đuôi thuyền. Một âm thanh trầm đục vang lên khi nó rơi xuống nước.
Cả đám chạy ra đuôi thuyền nhìn xuống, chỉ thấy mặt nước biển đã nhuộm một màu xanh lục gớm ghiếc. Cái bóng của con quái vật nhanh chóng biến mất dưới làn nước.
“Glenn, thứ đó là gì?”
“...Sứa Diều, một loại sứa khổng lồ thân dẹt, có màu trắng. Chúng thường ăn những món đồ vật linh tinh bị bỏ quên, nhưng cũng có thể… ăn người.”
…Ít nhất hiện tại, lý do mất tích của ba người trên thuyền đã được tìm thấy. Tôi như trút được gánh nặng, hai vai thả lỏng. Biết được thứ quái quỷ như vậy tồn tại không những không khiến người ta sợ mà còn làm người ta thấy thở phào nhẹ nhõm.
Vì thứ đáng sợ nhất là thứ mà ta không biết.
Và đại dương đáng sợ nhất là Đại Dương Không Biết.
—
Ngày thứ mười một lạc vào Cthustena, số thành viên còn lại là mười.
Dù đã tìm được thứ gây nên những vụ mất tích. Mọi người trên thuyền vẫn tiếp tục cùng ngủ chung và hoạt động theo cặp. Dù sao, không ai biết khi nào mấy thứ như vậy lại mò lên thuyền lần nữa.
Dạo gần đây tôi thường hay mơ những giấc mơ kỳ lạ. Có khi tôi thấy những người mặc đồ kỳ lạ, đeo khẩu trang kín khắp mặt mày nói gì đó với tôi. Có khi tôi thấy một con mực khổng lồ, to lớn hơn bất kỳ thứ gì mà tôi biết. Việc tưởng tượng lại hình dạng của nó cũng khiến tâm trí tôi điên cuồng, tôi chỉ nhớ được mỗi hơi thở của nó gây ra sóng thần, mỗi cử động của nó tạo thành địa chấn.
Tôi cẩn thận trau chuốt từng nét chữ trên nhật ký, dù sao cũng chẳng còn gì khác để làm. Nếu theo đúng lịch trình, hẳn giờ đây tôi đã về tới đất liền, được chào đón trong vòng tay của Margaret…
Bất giác, tôi cảm thấy những dòng chữ trên trang giấy khẽ cựa quậy như đang muốn thoát ra. Tôi chớp mắt, lắc đầu, rồi nhìn lại—nhật ký vẫn y nguyên như cũ. Tôi đưa tay xoa thái dương, thở dài. Gần đây tôi thở dài hơi nhiều, có khi nhiều hơn cả chục năm gần nhất cộng lại.
Đang suy nghĩ vẩn vơ, bỗng có một tiếng thét vang lên trên boong thuyền, tiếng gào thét đến mức vỡ vụn khó phân biệt được là giọng của ai.
“Tao chịu cái chỗ chết tiệt này quá đủ rồi!!”
Rồi ngay sau đó, tõm!
Tôi giật mình, vội chạy ra mạn thuyền. Chỉ thấy mặt nước xao động, vài bọt nước nổi lên tung tóe. Những người khác cũng lao đến.
“Có người… nhảy thuyền rồi sao?”
“Lạy Chúa trên cao!”
Tôi gạt tay, ra hiệu cho bọn chúng giải tán:
“Được rồi, được rồi. Giải tán! Chỉ là một kẻ hèn nhát không chịu nổi nữa mà thôi..”
Đôi khi dám sống tiếp mới là dũng cảm, tự sát thì có gì hay. Tôi vừa định rời đi thì bước chân bỗng đông cứng lại.
“Chờ đã!”
“Sao thế thuyền trưởng?”
“Còn có việc gì sao thưa ngài?”
Tôi nghiến răng, gầm lên: “Điểm danh! Một!”
Lần lượt tiếng hô tiếp nối vang lên ‘hai’, ‘ba’ vang lên, đến cuối cùng, tới lượt một tên thủy thủ, hắn ta đã xanh tái mặt mày, run rẩy nói:
“M-mười!”
Trên thuyền có mười người, một người nhảy xuống thuyền, trên thuyền còn mười người. Không ai nói gì, chỉ có những ánh mắt hoảng sợ quét qua nhau. Tôi có thể thấy sự ngờ vực len lỏi trong ánh mắt từng người.
Vì lúc này đây, có một người ở đây không phải là người.
Tôi siết chặt nắm tay, gằn giọng hô:
“Thalos Cleveland, thuyền trưởng, mã thành viên 011.”
Những người khác cũng lần lượt khai báo tên và chức vụ lên.
“Jacob Steele, thuyền phó, mã thành viên 015.”
“Terry Rowe, kỹ sư trưởng kiêm người quản lò, mã thành viên 021.”
“Percy Miller, thuyền y, mã thành viên 022.”
…
“Louis McFarland, mục sư, mã thành viên 049.”
Mọi thứ đều khớp. Không ai chần chừ. Không ai quên mã số của mình.
Tôi hơi nhíu mày, nhìn về phía Glenn, xem lão có cao kiến gì. Không để tôi thất vọng, lão trầm giọng nói:
“Tôi nghĩ chúng ta đang gặp phải… Quái Cải Hình. Một loài quái vật có khả năng thay đổi hình dạng, và thậm chí là đọc tâm trí của những người xung quanh của nó để hoàn thiện lớp ngụy trang.”
“Làm sao để phát hiện Quái Cải Hình?”
Lúc này, tên mục sư giơ tay lên, gã nói:
“Để phát hiện Quái Cải Hình cần có bạc huỳnh lưu, khi máu của nó tiếp xúc với loại bạc này sẽ tạo ra phản ứng đặc thù. Tôi có mang theo nó.”
Tôi hất cằm nói với gã: “Đem ra. Jacob, theo ông ta.”
Hai người nhanh chóng vào khoang thuyền. Một lát sau, Louis quay lại, trên tay cầm một tấm kim loại mỏng hình tam giác. Ông ta đưa cho tôi. Tôi nhìn về Glenn, đợi lão xác nhận mới cầm lấy miếng tam giác. Nếu có đến hai người xác nhận thì thông tin này hẳn không sai, dù sao chỉ có một con Quái Cải Hình trên thuyền.
Hy vọng là thế.
Tôi rút thanh dao găm bên hông ra, cứa đầu ngón tay nhỏ một giọt máu xuống tấm tam giác. Không có phản ứng gì xảy ra. Tôi ra hiệu cho những người khác làm theo.
Cho đến lượt một thằng nhóc trẻ tuổi tóc vàng mắt xanh, nó run rẩy nhìn tôi, kiên quyết không chịu làm theo.
“Mày đang làm gì vậy Bruce? Mau nhỏ máu vào đi.”
Ông Neil vỗ đầu nó một cái, Bruce chính là phụ bếp của ông. Neil đã sớm coi nó như đứa con trai của mình.
“Nhưng… con sợ lắm! Hơn nữa, làm sao biết được thứ này có phải là thật hay không? Lỡ đâu… lỡ đâu ông Louis chính là Quá-”
Nó chưa kịp nói hết thì đã bị ông Neil chặn miệng lại, ông ta trừng mắt nhìn nó. Tôi không nói một lời, rút khẩu lục ra bắn vào chân nó. Những người khác hoảng hốt nhìn tôi, có lẽ không nghĩ rằng tôi sẽ làm vậy. Là một người đi biển lâu năm, tôi biết khi nào nên tin vào trực giác của mình.
“A!!!” Thằng nhóc la toáng lên, ngã xuống, nước mắt nước mũi chảy khắp khuôn mặt.
Tôi cầm tấm tam giác đặt lại gần vết đạn trên chân nó, nhẹ ấn vào. Khi máu của nó tiếp xúc tấm tam giác, nó bắt đầu sủi bọt và kết thành một màu xanh nhớp nháp. Lúc này những người khác cũng không cần tôi nhiều lời, rút súng ra và liên tục bóp cò thẳng vào đầu thằng nhóc.
Thấy ngụy trang thất bại, con quái vật bắt đầu lộ nguyên hình. Làn da thằng nhóc nứt ra, để lộ những cây xúc tu li ti đen ngòm ngọ nguậy. Trông thì ghê gớm, nhưng chỉ sau năm tiếng súng, con quái đã đổ gục xuống sàn bất động.
“Quăng nó xuống biển.”
Tôi bỏ lại câu nói rồi đi về phòng.
—
Ngày thứ mười hailạc vào Cthustena, số thànhviên còn lại là chín.
Tôi mệt quárồi. Tôimuốn về nhà. Anh nhw em, Margaret.
Chợt một cảm giác chênh vênh lần nữa xuất hiện, khiến tôi loạng choạng, suýt đổ gục xuống mặt bàn. Chật vật đứng thẳng dậy, tôi lao ra khỏi phòng, chạy thẳng đến phòng điều khiển. Và rồi một cảnh tượng khiến tôi sôi cả máu lên hiện ra.
Không có ai. Không có một ai trong phòng điều khiển.
Tôi bực tức ghé vào ống loa, định lên tiếng quát gọi… gọi ai?
Ai là người chịu trách nhiệm giữ bánh lái? Hơi thở của tôi bắt đầu dồn dập, tôi gầm lên trước ống loa.
“Tất cả tập hợp trên boong thuyền!”
Mình là, mình là thuyền trưởng! Đúng rồi, mình là thuyền trưởng con tàu này… còn những người khác… Thuyền phó là ai? Quản lò là ai? Không nhớ gì cả, cái quái gì thế này?
Đợi tất cả mọi người đã tập hợp lại đông đủ. Tôi cao giọng hét lên:
“Điểm danh! Khai báo chức vụ! Thalos Cleveland, thuyền trưởng!”
Đáp lại là một khoảng im lặng ngột ngạt. Vài người chậm rãi lên tiếng.
“Percy Miller… tôi… không biết.”
“Neil Lawson… tôi cũng vậy.”
…
Trừ thuyền trưởng ra, không ai nhớ vai trò của mình trên thuyền. Thật nực cười! Một con thuyền mà các thuyền viên của nó còn không biết mình phải làm gì, chẳng khác gì Con tàu của những kẻ khờ trong mấy câu chuyện châm biếm cả! Tôi vò đầu, run rẩy lẩm bẩm:
“Chúng ta đang, đang ở trong Đại Dương Không Biết. Đây hẳn là do nó, nó đã khiến chúng ta quên đi nhiệm vụ của mình! Đúng rồi! Sách ghi chép! Mau tìm sách ghi chép, trên đó hẳn phải ghi lại vai trò của mỗi người!”
Tôi chạy vào phòng ngủ lục tung mọi nơi lên, không lâu sau đó, tôi tìm thấy một quyển sách dày cui có bìa viền bạc. Lật ra xem, đúng như tôi nghĩ, đó là sách ghi chép, nhưng rất nhanh tôi cảm thấy một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.
“Lên boong thuyền!” Tôi đuổi những người khác đi lên lại boong thuyền, còn bản thân thì với lấy thanh súng kíp.
Lên tới nơi, tôi thấy những gương mặt lo sợ thấp thỏm nhìn mình. Tôi nở một nụ cười trấn an họ, nhẹ nhàng nói:
“Điểm danh lần nữa! Báo cáo tên của mình cho ta.”
Nghe xong những cái tên, tôi chỉ điểm ba người đứng ra, rồi tôi giương súng lên, bắn ba phát.
Đoàng! Đoàng! Đoàng!
Những thuyền viên khác kinh hãi tránh sang một bên, còn ba kẻ trúng đạn thì bắt đầu vặn vẹo dữ dội. Da thịt chúng rách toạc, để lộ những cánh tay thừa thãi mọc ra từ sau lưng, làn da dần chuyển thành màu đỏ rực như thể bị thiêu cháy từ bên trong.
“Thuyền chúng ta chỉ có chín người! Bọn chúng là quái vật! Mau bắn!”
Các thuyền viên nghe vậy lập tức rút súng ra bắn về phía ba con quái vật. Không đến một phút, ba con quái tởm lợm đã nằm bất động trên sàn, để lại vệt máu đen loang lổ khắp nơi. Tôi vừa thở ra một hơi thì thuyền lại bỗng chao đảo, tôi bèn gào lên:
“Jacob! Ngươi là thuyền phó! Mau đi cầm lái!”
“Nhưng… tôi không biết lái!”
Tôi sững sờ nhìn hắn.
Phải rồi, đây là Đại Dương Không Biết. Nó không làm người ta quên, nó làm người ta không biết.
—
Ngày thứ mười bốn lạc vào Cthustena, số thành viên còn lại là chín.
Gã đầu bếp đã quên mất cách làm đồ ăn, nên chất lượng thức ăn trên thuyền vốn đã tệ, nay lại hạ xuống một bậc. Tôi còna phải chịu conh này đến bao lâu nữa đây! Đã haituần trôi qua rồi, còn bao lâunữa đây? Còn bao lâu nữa?Cònbao lâu nữa ? Còn bao lâunữa?
Tôi giả vờ không thấy những chữ cái đang nhảy múa xiêu vẹo trên trang giấy. Đóng cuốn nhật ký lại, tôi cẩn thận cất nó vào tủ, cài ổ khóa kỹ càng thật chặt.
Hôm nay, lúc ăn trưa thì mọi người tình cờ phát hiện ra một con cá kỳ lạ đang lơ lửng trong khoang thuyền. Con cá đó có cặp hàm ngang và hai mắt lồi lên, trông như đầu một con kiến được phóng to lên, trông quái đản vô cùng. Lão Glenn nhìn nó một hồi rồi bảo đó là một con Cá Ăn Sách. Các mạo hiểm giả từng bắt gặp nó gặm nhấm lấy những quyển sách, nhưng liệu nó còn gây ảnh hưởng gì khác hay không thì chẳng ai rõ.
Lúc nghe nó ăn sách tôi sợ táng cả hồn, vội lao về phòng kiểm tra nhật ký, may mắn là cuốn nhật ký Margaret tặng tôi vẫn còn nguyên. Dù sao đám thủy thủ khác trên thuyền cũng không mấy người biết chữ, nên cuốn sách duy nhất trên thuyền này là cuốn nhật ký của tôi.
Được một cái là có vẻ thịt của con cá đó có thể ăn được. Tạm thời coi như là gặp may, dù cái vận may này chẳng là gì với việc con thuyền trôi dạt vào Đại Dương Không Biết. Tôi ngã người xuống, kiệt sức sau cả ngày dài. Dù sao chỉ có mình tôi là còn biết nhiệm vụ của mình, nên chính tay tôi phải vừa lái tàu vừa hướng dẫn mấy người còn lại trông coi lò than.
Chẳng biết là do tôi may mắn nên mới nhớ được. Hay là vì Cthustena cố tình đùa bỡn với tôi nên mới bắt tôi phải nhớ.
Tôi không quan tâm, giờ tôi chỉ muốn ngủ.
—
Hôm nay là ngày thứ bảy kể từ khi tàu rời cảng, trời êm sóng lặng, mọi thứ bình yên đến mức bất thường. Hôm nay, tàu Serenity sẽ cập cảng Outis!
Tôi khép nhật ký lại, nhịp bước xuống phòng ăn. Vừa mới mở cửa, một mùi hương thơm phức đã xộc vào mũi. Tôi bật cười hỏi:
“Hôm nay là món gì vậy, ông Neil?”
“Món cá nướng đặc biệt do chính tay Neil già này làm đó ha ha!” Ông ta vỗ tay lên bụng, cười sảng khoái rồi đặt dĩa cá lên bàn. “Mà làm bếp một mình cực thật, ngài lại không chịu thuê thêm phụ bếp cho tôi thì có ngày tôi chết vì lao lực đấy!”
“Tiếc quá, chuyện đó không phải do ta rồi! Sau chuyến đi này, ta sẽ nghỉ hưu.”
“A!” Terry ngồi bên cạnh trừng mắt ngạc nhiên. “Ngài quyết định nghỉ hưu rồi sao, ngài Thalos?”
“Ừm! Ta cũng quá già rồi, không còn đủ sức để đối chọi với Âu Bắc Dương khắc nghiệt này nữa.”
Bữa ăn trôi qua trong bầu không khí vui vẻ. Sau khi ăn uống xong, mọi người lại trở về cương vị, ai vào việc nấy. Rất nhanh sau đó, con tàu đã tiếp cận đất liền. Nghe giọng nói quen thuộc của gã thuyền phó vang lên qua ống loa, tôi nhanh chóng thu dọn hành lý chuẩn bị xuống thuyền.
Không hiểu vì một lý do nào đó, ngày hôm nay tôi cứ cảm thấy bất an trong lòng. Rõ là một ngày đẹp trời, thuyền cũng sắp cập cảng. Thế mà tim tôi cứ nôn nao không yên. Tôi cầm quyển nhật ký lên, định đọc lướt vài trang để bình tĩnh lại cõi lòng.
Nhưng mà những gì tôi nhìn thấy lại khiến trái tim tôi như muốn nhảy ra ngoài.
Không thể nào. Không thể nào.
Đại Dương Không Biết? Nói đùa gì vậy, chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng của tao rồi mà.
Có ai đó đã chơi khăm bằng cách viết bậy lên nhật ký của mình sao? Thằng khốn nào dám chứ?
Một cảm giác nín thở khó chịu ập đến, cả người tôi như tê cứng lại, đầu óc bất chợt đứng máy. Tôi cứ lặng yên trong phòng mình, không biết qua bao lâu, tôi mới chật vật nâng bước chân. Trong thuyền đã không còn ai nữa rồi, những thuyền viên khác đã… lên bờ.
Đại Dương Không Biết không có đảo.
Tôi bước ra mạn thuyền, nhìn về phía đất liền trước mắt. Các thuyền viên khác đang đứng trên bến cảng, họ đứng đó, và chỉ đứng đó. Họ quay lưng lại với tôi, tư thế nhìn như đang bước đi tiến về phía đất liền, nhưng mãi bước chân của họ vẫn không di động. Tôi nhìn chằm chằm cảnh tượng ấy, quên mất cả thời gian.
Đến khi mặt trời ngả về chiều, tôi mới bừng tỉnh nhận ra, những hình bóng trước mắt đang dần mờ nhạt, gần như tan biến khỏi tầm mắt tôi. Chúng vẫn ở yên chỗ cũ, nhưng màu sắc đã quá mờ ảo, gần như có thể nhìn xuyên qua.
Tôi biết. Họ không còn ở đây nữa rồi.
Tôi trở về thuyền. Lấy nhật ký ra, viết ngoáy vài dòng.
Ngày thứ mười lăm lạc vào Cthustena, số thành viên còn lại là một.
Kết thúc rồi.
—
Ngay khi tôi vừa mở mắt dậy, trước mặt tôi là một con cá kỳ lạ. Nó có cặp hàm ngang và hai mắt lồi lên, trông như đầu một con kiến được phóng to lên, trông quái đản vô cùng. Có lẽ là một con quái vật từ Đại Dương Không Biết lạc ra Âu Bắc Dương. Mặc dù không biết làm sao mà nó tiến vào phòng ngủ của tôi được, nhưng tôi đã tiễn nó đi, bằng hai viên đạn.
Hôm nay là ngày thuyền trở về đất liền, cũng là ngày cuối cùng tôi ở trên biển. Tôi bước lên boong, những thuyền viên khác thấy tôi liền cúi đầu kính chào. Tất nhiên rồi. Tôi chính là vị thuyền trưởng lừng danh Thalos Cleveland, với hơn năm mươi năm kinh nghiệm hàng hải ở Âu Bắc Dương đầy hiểm trở.
Khi đất liền lọt vào tầm mắt của tôi, Jacob, thuyền phó cất giọng thông báo khắp thuyền. Những gã thủy thủ trẻ tuổi nhanh chóng bước lên boong thuyền, ánh mắt mừng rỡ nhìn về đất liền. Dù sao, không ai muốn phải ở lại trong Âu Bắc Dương này thêm một phút giây nào nữa.
Thế mà tôi đã ở nơi này hơn năm mươi năm, có khi dùng những kinh nghiệm này đi viết sách bán chắc cũng được bộn tiền. Chà, hơi tiếc là tôi không có viết nhật ký, nếu có nhật ký thì viết lại thành sách sẽ dễ hơn, giờ muốn viết sách phải dựa hết vào ký ức.
Mà có cái gì không đáng tin cậy bằng ký ức đâu chứ!
Sao cũng được, số tiền tôi kiếm được đó giờ đã đủ để sống một cuộc sống ấm no viên mãn đến hết phần đời còn lại mà không cần lo nghĩ quá nhiều. Đợi thuyền cập bến, đám thủy thủ vỡ òa ra trong hạnh phúc, nhanh chóng ùa xuống tàu. Tôi lắc đầu mỉm cười, xách hành lý lên bước xuống thuyền.
Margaret, anh đã về rồi!
—
Vào ngày 13 tháng 06 năm XXXX, sau mười bảy ngày lang thang trên Đại Dương Không Biết, tàu Serenity chính thức đắm chìm, yên giấc ngàn thu dưới biển sâu vô tận.
Con tàu của những kẻ khờ - Kết thúc.
![](https://i.hako.vn/ln/series/chapter-banners/13694/2dc2458a-7500-4983-b608-fedff1f93fba.jpg?t=1727447414)
![](https://i.hako.vn/ln/series/chapter-banners/13694/63e71121-cb31-4692-bc99-5980c02144fc.jpg?t=1727447414)
0 Bình luận