Throne of Magical Arcana
Ái Tiềm Thủy Đích Ô Tặc (Mực Thích Lặn Nước)
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Vol 04 - Dãy núi Hắc ám (256-324)

Chương 291 - Muôn người trông theo

24 Bình luận - Độ dài: 2,395 từ - Cập nhật:

*Trans+Edit: Lắc

Sức khỏe của Franz cũng không thể coi là khỏe mạnh. Thường xuyên bị bệnh tật hành hạ, thế nhưng đam mê và cảm hứng thì lại chẳng bao giờ tắt, vì vậy anh nói với Lucien, giọng điệu đầy thấu hiểu: “Ngài Evans, tôi hiểu rồi. Tôi sẽ giúp ngài hoàn thành bài hát.”

Sau đó anh nở một nụ cười chân thành: “Sau khi nghe giai điệu ngài chơi trên piano và được biết nó chỉ là điệp khúc trong chương thứ tư của bản giao hưởng, chưa gì tôi đã có thể hình dung ra bản giao hưởng này sẽ đẹp đẽ, thiêng liêng, uy nghiêm và chấn động đến chừng nào rồi. Và đây lại còn là lần đầu tiên hợp xướng được đưa vào trong một bản giao hưởng nữa. Chắc chắn đó sẽ là một cuộc cách mạng sáng tạo!”

“Tôi rất vinh dự khi được góp phần tạo nên một tác phẩm âm nhạc tuyệt vời như vậy cũng như được giúp ngài hoàn thành nó, ngài Evans. Đó sẽ trở thành một kỷ niệm mà tôi có thể luôn luôn nhớ về khi mai này già đi.”

Để có thể sửa đổi bài thơ dài cho phù hợp với nhịp điệu và vẻ đẹp của thông ngữ trên thế giới này, để có thể bỏ đi những ngôn từ có khả năng báng bổ, và để có thể khớp với giai điệu gốc, Lucien đã phải thảo luận hết lần này đến lần khác với Franz, một nhạc sĩ giỏi sáng tác thơ ca. Cả hai đều phải dồn hết tâm huyết vào để hoàn thành.

Franz là một người hết lòng yêu âm nhạc và vô cùng ngưỡng mộ Lucien. Bởi vậy, sau khi hiểu được toàn bộ ý tưởng và nghe xong giai điệu của đoạn điệp khúc, anh liền không do dự cất lời khen ngợi.

“Khụ, khụ. Cảm ơn anh đã hợp tác trong khoảng thời gian này nhé, Franz. Tác phẩm của chúng ta cũng gần hoàn thiện rồi. Bước tiếp theo chỉ cần ca sĩ chính và dàn hợp xướng luyện tập để xem còn có sai sót gì không nữa thôi. Anh có cảm thấy độ khó quá cao không?” Lucien cố ý che miệng ho khan rồi hỏi với giọng điệu cực kỳ phấn khích.

Franz kiên định lắc đầu: “Khó là điều chắc chắn, nhưng nếu phải thay đổi một số phần để khiến nó dễ hơn thì sẽ chỉ làm mất đi sự hoàn mỹ của nguyên bản. Tôi nghĩ sẽ cần phải có một ca sĩ và dàn nhạc xuất sắc để hoàn thành nhiệm vụ này.”

“Tôi cũng nghĩ vậy.” Lucien và Franz nhìn nhau mỉm cười.

Đúng lúc này, cửa phòng piano chợt vang lên tiếng gõ, sau đó tay nắm cửa chầm chậm xoay. Người mở cửa thao tác rất khẽ, như thể sợ làm phiền cuộc thảo luận và luyện tập của những người bên trong.

“Lucien, Franz, không đang thảo luận sao?” Người vừa bước vào là Victor. Còn nơi họ đang ở là phòng piano trên tầng bốn của Hiệp hội Nhạc sĩ Aalto.

Lucien mỉm cười đáp: “Thầy Victor, bọn em vừa thảo luận xong.”

“Thế thì thầy đến đúng lúc rồi. Trước hết thì chúc mừng em, Lucien, vì đã hoàn thành bản giao hưởng mà thầy vô cùng nóng lòng được nghe. Và thứ hai, thầy có một người bạn muốn giới thiệu với em đây.” Victor chỉ vào chàng trai trẻ đi cùng. “Ca sĩ nổi tiếng Fabbrini, đồng thời cũng là chỉ huy dàn hợp xướng của Giáo đường Hoàng Kim.”

Khi “Ode to Joy”[note57974] sắp hoàn thành, Lucien đã nhờ Victor giúp cậu tìm một ca sĩ xuất sắc và một dàn hợp xướng nổi trội.

Fabbrini khoảng hai mươi tuổi, mắt xanh, tóc vàng rực, mảnh khảnh và đẹp trai như thể một thiên sứ phục vụ Thần Chân Lý. Nhưng không giống hầu hết đàn ông, mặt cậu có trang điểm nhẹ, môi hồng, phục trang lộng lẫy, tạo cho người ta một cảm giác mê hoặc lạ kỳ.

“Chào ngài Evans. Tôi đã luôn yêu thích âm nhạc của ngài, thế nhưng chưa bao giờ nghĩ mình lại có cơ hội được hợp tác với ngài.” Giọng của Fabbrini rất trong trẻo và nhẹ nhàng.

Lucien không ngạc nhiên trước ngoại hình và khí chất của Fabbrini, bởi vì hầu hết những ca sĩ xuất sắc nhất đều là castrato, mà Fabbrini còn là chỉ huy dàn hợp xướng của Giáo đường Hoàng Kim nữa. Cậu mỉm cười nói: “Rất vui được gặp cậu, Fabbrini. Hy vọng trong tương lai chúng ta sẽ hợp tác vui vẻ.”

Lucien không hề tỏ thái độ kỳ thị, bởi trong bối cảnh xã hội hiện nay, ca sĩ castrato cực kỳ phổ biến. Có một nữ bá tước ở Đế quốc Gusta si mê tiếng hát của họ đến nỗi thậm chí còn từng phát động cả một cuộc chiến chỉ để tranh giành một ca sĩ castrato.

“Ngài Evans, tôi sẽ dẫn dàn hợp xướng đến phòng hòa nhạc đợi ngài. Nhân tiện, trông ngài không khỏe chút nào. Hãy chú ý giữ gìn sức khỏe nhé.” Giọng điệu của Fabbrini rất uyển chuyển, dịu dàng, như thể đây chính là cách cậu vẫn thường nói.

Sau khi Fabbrini rời đi, Lucien “không kiềm chế được” mà “ho kịch liệt” một trận, như thể muốn ho cả tim gan phèo phổi ra ngoài.

“Lucien, em không sao chứ? Đây chẳng lẽ là di chứng của vụ ám sát lần trước?” Victor lo lắng hỏi, sau đó đề nghị: “Buổi hòa nhạc của em còn chưa lên lịch chính thức, hay là đợi đến khi khỏe hơn rồi hẵng tổ chức?”

Lucien gật đầu “kiên quyết”: “Không sao đâu, thầy Victor. Thương thế chỉ còn sót lại có một chút, không ảnh hưởng gì đến buổi hòa nhạc đâu. Em là hiệp sĩ mà.”

Không biết có phải vì từ “hiệp sĩ” đã xua tan nỗi lo lắng của Victor hay không, nhưng ông khẽ gật đầu nói: “Chúng ta đều là nhạc sĩ, cho nên thầy có thể hiểu được tâm lý của em lúc này, Lucien. Dù vậy, với tư cách là thầy của em, thầy không lo không được. Tối nay thầy sẽ nhờ bác sĩ ở hội trường từ thiện kiểm tra cho em. Đừng có đợi đến khi hòa nhạc kết thúc mới khám, khéo đến lúc ấy bệnh thành nan y, muốn chữa cũng chữa không kịp nữa đâu.”

“Vâng, cảm ơn thầy, thầy Victor.” Nghe thấy rằng đó chỉ là một bác sĩ ở hội trường từ thiện, Lucien không từ chối. Hiện tại cậu đã có thể kiểm soát nhịp tim, lưu lượng máu, nhu động của nội tạng, chưa kể còn có mấy kỹ năng được Natasha dạy cho nữa, do đó hoàn toàn đủ khả năng để giả vờ như vẫn đang bị thương nhưng không nguy hiểm đến tính mạng.

Hơn một tuần sau đó, gần giữa Tháng Tiên Hoa.

Tại hội trường hòa nhạc trên tầng năm của Hiệp hội Nhạc sĩ.

“Fabbrini, cậu hát bao nhiêu lần rồi? Tại sao cứ đến đoạn này là lại gặp vấn đề thế?” Lucien gầm lên với Fabbrini ở giữa sân khấu, cảm xúc có chút “mất kiểm soát”.

Fabbrini nhìn Lucien, người trông mệt mỏi, xanh xao và bực bội, rồi giải thích: “Ngài Evans… Đoạn này thực sự rất khó, tôi… tôi cần phải luyện đi luyện lại mới có thể hát được hoàn hảo.” Trong đôi mắt xanh của cậu dường như xuất hiện một tầng nước mắt.

“Chúng ta đã luyện tập rất nhiều lần rồi!” Lucien xua mạnh tay.

Fabbrini hít sâu vài hơi, kiên định chống lại “bạo chúa”: “Như vậy chưa đủ, ngài Evans. Hoặc là ngài cho tôi thêm chút thời gian, hoặc là ngài có thể sửa đổi lại một chút cho chúng dễ hát hơn được mà.”

“Không! Không sửa cái gì hết! Tôi không chấp nhận làm hỏng tính hoàn mỹ của nó! Fabbrini, làm ơn nỗ lực hơn nữa đi. Tôi chắc chắn cậu có thể trình diễn hoàn hảo mà! Thời gian sẽ được hoãn lại vài ngày như cậu muốn. Khụ, khụ, khụ, hy vọng đừng lâu quá…” Lucien điên cuồng nói, sau đó bất chợt quỵ xuống trước sân khấu và ho dữ dội.

Franz ở bên cạnh nhanh chóng đỡ lấy Lucien, Fabbrini cũng hoảng sợ chạy đến rồi nhẹ nhàng vỗ lưng cho cậu. “Xin đừng lo lắng, ngài Evans, tôi sẽ cố gắng hết sức để hát được hoàn hảo đoạn này càng sớm càng tốt.”

Khi buổi diễn tập kết thúc, Fabbrini, người đang mặc áo sơ mi đen in họa tiết lụa vàng, bước xuống khỏi sân khấu. Đi được nửa chừng, cậu đột nhiên quay đầu nhìn lại sân khấu, như thể trên đó vẫn còn lưu lại ánh mắt điên cuồng và lo lắng của Lucien.

“Có thể ở thời điểm ấy ngài Evans đã có linh cảm gì đó rồi. Đó là lý do vì sao ngài ấy lại lo lắng và tỏ ra nghiêm khắc đến vậy, không giống tính cách điềm tĩnh và dịu dàng như người ta vẫn đồn.” Vài năm sau đó, khi hồi tưởng về những gì đã để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho cậu trong khoảng thời gian thực hiện hòa nhạc, Fabbrini đã viết ra những dòng mang cảm giác về thuyết định mệnh này với một chút xúc động: “Ngài ấy tâm huyết, nỗ lực và cũng rất điên cuồng, như thể muốn bung nở một thứ hào quang rực rỡ nhất để không giữ lại bất kỳ hối tiếc nào. Tôi được Thần phù hộ nên mới may mắn được gặp ngài Evans vào thời điểm đó, còn được diễn tập và biểu diễn bản giao hưởng ấy cùng ngài, đồng thời được chứng kiến những khía cạnh khác biệt cũng như sự tận tâm của ngài dành cho âm nhạc, dành cho Thần.”

Thương nhân Glinton, người mà Lucien từng gặp ở thị trấn Massawa, sau khi rời khỏi Aalto đã quay trở lại phương Bắc và đến Vương quốc Syracuse.

Sau khi bán hết hàng hóa và chuẩn bị bổ sung thêm đặc sản của Syracuse để đem tới pháo đài Dãy núi Hắc ám ở Công quốc Orvarit, trước đó ông đã mua số mới nhất của tập san [Phê bình Âm nhạc] và [Tin Giao hưởng] tại Hiệp hội Nhạc sĩ địa phương.

Glinton vừa ăn bữa sáng đầy dầu mỡ vừa mở báo ra đọc. Đột nhiên, đôi tay đang cầm dao nĩa cắt bít tết của ông dừng lại. Ông đọc đi đọc lại vài lần, mắt mở to với vẻ không tin nổi, sau đó nửa vui mừng nửa buồn bực nói: “Thật không ngờ mình vừa mới rời khỏi Aalto thì ngài Evans lại trở về sau chuyến hành trình…”

“Ngày 26 tháng 5, Thánh vịnh Thính phòng, Buổi hòa nhạc Trở về… Có nên đi không? Từ đây đến Aalto sẽ mất khoảng mười sáu ngày…”

Glinton đang ở tại một thành phố gần biên giới giữa Syracuse và Công quốc Orvarit, lúc này cũng đã là ngày 15 tháng 5.

Ông đặt dao nĩa xuống rồi đứng dậy đi qua đi lại, cuối cùng hạ quyết tâm: “Mình đã bỏ lỡ buổi hòa nhạc đầu tiên của ngài Evans rồi, bất kể có ra sao cũng không thể lại bỏ lỡ lần thứ hai. Với lại, ngài ấy trở về sau chuyến hành trình kéo dài ba năm, thế thì nhất định chất lượng của những tác phẩm mới sẽ rất đáng trông đợi!”

“Được rồi, việc thu mua hàng hóa giao lại cho quản gia Erlan vậy, còn mình sẽ lập tức đem theo vài hộ vệ cưỡi ngựa tới Aalto. Nếu không bị gì làm chậm trễ, mười một ngày chắc đủ…” Glinton cho rằng bản thân quen biết nhiều quý tộc, cho nên có lẽ việc mua được một vé vào Thánh vịnh Thính phòng sẽ không thành vấn đề. Khúc mắc duy nhất ở đây chính là thời gian, nhưng ông cũng không vì thế mà bỏ cuộc dễ dàng.

Mười ba ngày sau, ngày 28 tháng 5.

Thay vì chán chường, Glinton ngược lại tiến vào Aalto với tinh thần vô cùng phấn chấn. Trên đường đi, ông nghe được tin rằng buổi hòa nhạc của Lucien Evans đã bị hoãn lại tới ngày 1 tháng 6 vì việc luyện tập gặp chút vấn đề.

Sau khi vào thành phố, Glinton cũng không nghỉ ngơi mà lao thẳng tới Thánh vịnh Thính Phòng. Phải lấy được một vé ông mới dám nghỉ.

“Cái gì? Đã bán hết rồi? Vẫn còn những bốn ngày nữa cơ mà!” Glinton tức giận hỏi. “Tôi quen ngài Mitch của gia tộc Hayne, cả…” Ông bắt đầu liệt kê ra tên của một loạt quý tộc.

Nhân viên của Thánh vịnh Thính phòng chỉ vào đám đông rồi nói: “Xin lỗi ngài, nhưng vé đã được bán hết rồi. Ngài cũng thấy đấy, số lượng người muốn xem buổi hòa nhạc quá lớn, và theo tôi được biết, cả ngài Mitch cũng không kiếm được vé đâu.”

“Gì cơ?” Glinton bực bội quay lại, phát hiện quanh Thánh vịnh Thính phòng lúc nhúc toàn người là người.

Một nhân viên của [Tuần san Aalto] đang đứng trong góc quan sát khung cảnh này và nhanh chóng viết xoèn xoẹt vào sổ tay của mình: “Ngoài Nhạc hội Aalto, chưa từng có buổi hòa nhạc của bất kỳ nhạc sĩ nào thu hút được nhiều người đến vậy. Dường như mọi người đều đổ xô đến đây mà quên mất rằng vé vào Thánh vịnh Thính phòng không phải là thứ mà ai cũng có thể mua được…”

“Lucien Evans tựa hồ đã trở thành đối tượng được săn đón của tất cả cư dân trong thành phố cũng như trên toàn Công quốc…”

“Đây quả là một hiện tượng kỳ lạ mà có lẽ chỉ có tạo ra một từ mới mới miêu tả nổi.”

Ghi chú

[Lên trên]
Ode to Joy (Khải hoàn Ca): là Bản giao hưởng số 9 cung Rê thứ, Op. 125 của Ludwig van Beethoven, tổng cộng 4 chương, dài hơn 1 tiếng. Đây là tác phẩm giao hưởng trọn vẹn cuối cùng của Beethoven và là tác phẩm đầu tiên đưa hợp xướng vào giao hưởng, được viết khi ông đã điếc hoàn toàn. Nó sử dụng một phần nội dung bài thơ của Friedrich Schiller làm lời ca cho dàn hợp xướng ở chương cuối. Độ nổi tiếng và ảnh hưởng thì…
Ode to Joy (Khải hoàn Ca): là Bản giao hưởng số 9 cung Rê thứ, Op. 125 của Ludwig van Beethoven, tổng cộng 4 chương, dài hơn 1 tiếng. Đây là tác phẩm giao hưởng trọn vẹn cuối cùng của Beethoven và là tác phẩm đầu tiên đưa hợp xướng vào giao hưởng, được viết khi ông đã điếc hoàn toàn. Nó sử dụng một phần nội dung bài thơ của Friedrich Schiller làm lời ca cho dàn hợp xướng ở chương cuối. Độ nổi tiếng và ảnh hưởng thì…
Bình luận (24)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

24 Bình luận