Amalgam Hound
Midori Komai Domino Ozaki
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 02

Chương 1: Tàn dư chôn vùi trong cát trắng

0 Bình luận - Độ dài: 17,862 từ - Cập nhật:

Lửa gầm. Viên ngọc đỏ lấp lánh. Bàn tay của một cô gái vươn ra qua lớp cát, cố gắng bám víu lấy sự sống, được giải cứu khỏi ngọn lửa. Một khung cảnh mà anh không bao giờ quên.

     

“Có muốn giãi bày nỗi lòng của mình không? Trông anh có vẻ ủ rũ,” cô gái nói, tay cô bị che đi bởi đôi găng dài, hai bàn tay của cô đặt gọn chồng lên nhau. Gió biển chơi đùa với mái tóc trắng, đôi giày cao gót màu đen của cô phát ra tiếng lách cách trên boong tàu.

Người đàn ông bên cạnh thở dài đáp lại cô. “Còn em thì dường như đang rất vui vẻ.”

“Chà, sẽ thật là bất lịch sự nếu không tận hưởng một khoảnh khắc quý giá như bây giờ.” Cô mỉm cười, đôi mắt xám của cô lấp lánh. Má của một người phục vụ đi ngang qua ửng đó, anh ta đứng sững lại trong thoáng chốc, nhưng cô không để tâm mà tiếp tục thư thả đi về phía trước với chàng trai bên cạnh mình, bộ đầm xếp ly màu xanh dương của cô đung đưa theo gió.

Chàng trai tựa mình lên lan can của khoang lái, nhìn vào khu boong tàu được trang trí sáng rực và khẽ cúi mình xuống.

Họ không phải những người duy nhất tận hưởng sự tĩnh lặng của màn đêm. Những gia đình và cặp đôi lấp đầy boong tàu, lắng nghe âm nhạc và tiếng sóng, trên tay là một chiếc ly. Dù đến đây trong một kỳ nghỉ nhưng nhiều người trong số họ vẫn mặc trang phục trang trọng thay vì quần áo ngày thường, có lẽ do bữa tiệc chào đón ở sảnh chính. Chàng trai trở nên phiền não hơn khi nhận ra rằng bản thân giờ đã trở thành một phần của đám người này và lại thở dài thêm lần nữa.

“Sao mà anh có thể thư giãn được chứ?” anh nói. “Ý là, ai mà biết được khi nào chúng ta có thể bị phát hiện?”

“Nếu chuyện đó xảy ra,” cô gái trả lời, “anh cứ dùng bộ quân phục và bản mặt nghiêm túc của anh mà giải quyết là được.”

Chàng trai nhìn vào bộ quân phục Adastrah mà mình đang mặc. Huy hiệu trên vai áo thể hiện quân hàm hạ sĩ của anh. Nhìn vào bộ dạng của anh thì tỏ ra thoải mái trong tình huống như thế này có thể sẽ thu hút những sự chú ý ngoài ý muốn.

Nụ cười của cô gái trở nên tươi tắn hơn, cô vòng tay mình quanh tay của chàng trai và tựa mình vào anh ấy. “Gió biển rất tuyệt, nhưng có lẽ chúng ta nên đến sảnh chính thôi. Em muốn được dự bữa tiệc này cùng với anh.”

“…Mục tiêu có ở đây không?” anh hạ giọng xuống và hỏi.

“Không. Những người ở đây trông có vẻ tương đối thỏa mãn. Họ sẽ không phải những khách hàng tốt.”

Thoạt nhìn, chàng trai và cô gái chỉ giống như một cặp đôi đang nhìn nhau một cách tình tứ.

“Sự mất mát của họ không đủ đến trở thành đối tượng cho Gino Camicia,” cô gái nói tiếp với chất giọng đều đều.

“…Phải. Họ trông khá hạnh phúc. Vậy thì tốt đối với họ thôi,” chàng trai khẽ đáp lại rồi bắt đầu bước đi tay trong tay với cô gái. Anh quan sát cô nở một nụ cười thân thiện với một nhân viên phục vụ khi đi qua nhau. “Vậy chỉ cần lựa chọn một cá tính cụ thể là cô có thể thay đổi đến mức này à?” anh lầm bầm.

“Đó là chức năng của Hound chúng em. Sao anh còn chưa chọn cá tính cho cộng sự của mình đi nhỉ?” Cô gái mỉm cười và vuốt mái tóc bị gió biển làm rối của mình xuống.

Trong sảnh chính của con tàu, rất nhiều hành khách đang vui vẻ trò chuyện với nhau. Tại đây có cư dân của ba quốc gia nằm trên lộ trình của chuyến tàu này, cũng như các nhân vật quan trọng của giới chính trị và công nghiệp. Chàng trai nheo mắt lại nhìn những người dự tiệc với đa dạng các loại đồ trang trọng—tuxedo, váy dài dạ hội, quân phục.

Anh và cô gái sẽ bắt Gino Camicia trên con tàu này. Đó là mục đích duy nhất của họ cho việc đặt chân lên đây.

      

Một tuần trước

      

Đường hầm vang vọng với tiếng chân của những kẻ với ý định chạy trốn. Tiền rơi ra khỏi túi của người đàn ông đang thở hồng hộc, nhưng bỏ mặc việc chỗ tài sản bất chính của mình bị thất thoát, đôi giày cũ của gã đạp mạnh lên đất.

Theo Starling chạy hết tốc lực để đuổi theo, trong tay anh là khẩu súng. “Đứng lại! Nếu không thì tôi sẽ nổ súng!” anh giận dữ nói lớn. Nếu người đàn ông kia có thể đi ra khỏi hầm, gã ta sẽ trèo qua hàng rào và trốn ra đường cao tốc.

Thế nhưng mục tiêu vẫn không dừng lại. Không còn lựa chọn nào khác, Theo quỳ một chân xuống, ngắm bắn và bóp cò súng.

Tiếng súng chói tai vọng khắp đường hầm, viên đạn xuyên qua cẳng chân của người đàn ông đó. Tuy nhiên, thay vì máu, thứ vương vãi ra trên đất là bánh răng và những mẩu kim loại.

“Tạo tác!” Theo tặc lưỡi khó chịu và lập tức đuổi theo.

Người đàn ông điên cuồng chạy về phía trước, suýt chút nữa thì vấp ngã khi tiến tới ánh sáng nằm tại phía cuối của đường hầm tăm tối. Theo có thể nghe được giọng cười khô khan của gã ta. Người đàn ông có vẻ nghĩ rằng mình chắc chắn sẽ thoát được khi đã đi xa được đến đây rồi.

Nhưng ngay khoảnh khắc mà gã ta đặt chân vào ánh sáng, có thứ gì đó đáp xuống từ trên cao, và gã bị đè xuống đất. Gã ta vung tay chân loạn xạ và lấy một con dao ra. Nhưng trước khi có thể tấn công, một cái gót giày đạp vào tay gã và ghim chặt lên mặt đất. Có lẽ nhận ra chống cự là vô ích—gã ta bất động và trở nên im lặng. Gã ta thở từng hơi mạnh, thi thoảng lại ho một tiếng.

Theo cuối cùng cũng đuổi kịp, anh đứng lại để lấy hơi rồi liên lạc với cảnh sát qua bộ đàm.

“Chúng tôi đã bắt được nghi phạm,” anh nói. “Đường hầm, lối ra phía đông. Điều một xe đến.” Ngắt máy xong, anh hướng mắt về phía người đang đè người đàn ông xuống đất.

Đôi chân tay thanh mảnh của cô trông vẫn còn non nớt như của một cậu bé, thoạt nhìn cô cũng không có vẻ là người có thể dễ dàng kiềm chế được một người đàn ông trưởng thành. Tia nắng mặt trời chiếu xuống mái tóc của cô làm ánh lên một sắc màu khó tả. Đôi chân cô mảnh mai như cành liễu, thế nhưng chúng đang ghìm chặt lấy người đàn ông kia, không cho gã ta động đậy. Sau khi vô hiệu hóa được người đàn ông, cô gái nhìn Theo với đôi mắt màu xám tro.

“Làm tốt lắm, Theo,” cô lãnh đạm nói.

“Không thể tin là cô đuổi kịp bằng đường núi đấy.” Anh lắc đầu. “Cô đã làm rất tốt, Eleven.”

Cô gái—Eleven—chớp mắt đáp lại, rồi sau đó lôi người đàn ông kia dậy. Theo đeo còng vào cổ tay của gã ta, trong khi người đàn ông đó nhìn chằm chằm vào Eleven được chiếu rọi bởi ánh nắng trước mặt mình và há hốc miệng. Tiền vẫn đang rơi ra khỏi túi của gã.

“Cô là một thiên sứ ư?” Gã ta thốt lên kinh ngạc. “Đôi cánh của cô đâu rồi?”

“Đừng có nói nhảm. Đi đi.” Theo kéo theo người đàn ông và đi về phía chiếc xe cảnh sát đỗ lại tại lối ra phía đông của đường hầm. Người đàn ông đau đớn kêu lên, Theo yêu cầu gã ta giữ im lặng và giao gã cho cảnh sát. Eleven ngoan ngoãn đi theo nửa bước phía sau anh.

Theo quan sát người đàn ông bị áp giải vào xe cảnh sát rồi quay sang phía Eleven. Do chỉ cao đến vai của anh nên lúc nào cô cũng phải ngẩng đầu lên để có thể nhìn anh. Hôm nay cũng vậy, đôi mắt màu tro của cô chăm chú quan sát anh. Anh cảm thấy an tâm trước sự bất biến này.

“Khi nãy cô khá là năng nổ đấy,” anh nói. “Đã hoàn toàn bình phục rồi à?”

“Vâng, xin lỗi vì sự chậm trễ,” cô trả lời. “Từ hôm nay tôi sẽ quay trở lại hoạt động bình thường.”

“Rất vui khi nghe vậy. Cho phép tôi được chính thức chào mừng cô trở lại, Eleven.”

“Cảm ơn, Theo.”

Anh xoa chiếc đầu nằm ở độ cao vừa phải của cô, còn Eleven thì để yên cho anh làm gì tùy thích.

“Hành động ‘xoa đầu’ này là để làm gì?” cô hỏi.

“Chẳng biết nữa,” anh trầm ngâm. “Có lẽ là để thưởng cho một việc làm tốt?”

Eleven chỉnh lại mái tóc rối bù của mình và có vẻ đang xem xét ý nghĩa trong lời nói của anh. Anh cảm thấy rằng đã lâu rồi mình mới thấy lại cảnh này và bật cười.

Không có gì lạ khi người đàn ông mà họ vừa bắt tưởng nhầm rằng cô là một thiên sứ. Khuôn mặt trang nhã gọn gàng như búp bê; mái tóc trắng xa lạ; đôi mắt xám; thân hình thanh mảnh, lưỡng tính của một thiếu niên. Tập hợp tất cả các yếu tố lại tạo thành một thứ dường như không thuộc về con người.

Và nhận định đó hoàn toàn có lý. Cô là một mẫu người máy phép thuật Amalgam đặc biệt được đất nước Adastrah thiết kế dành riêng cho chiến trường. Những người biết về chúng gọi chúng là Hound để phân biệt với các Amalgam thông thường, và chúng là những vũ khí bí mật được sử dụng tại mọi phương diện. Eleven, đúng như cái tên, là mẫu Hound thứ mười một. Hiện tại, cô thuộc về Phòng Điều hành Thám tử của Cục Điều tra Tội phạm, chuyên điều tra các vụ việc có liên quan đến Amalgam.

Và đối với Theo, cô là người cộng sự duy nhất của mình.

       

Mùa xuân ấy, có một ngày được dành riêng cho lễ kỷ niệm hòa bình ở khắp Adastrah sau cuộc chiến tranh lục địa dài đằng đẵng. Delverro, thành phố nơi Theo và đơn vị của mình trực thuộc, cũng tham gia vào dịp lễ này.

Nhưng trong ngày lễ ấy, giáo phái cực đoan Roremclad tổ chức tấn công và gây ra cái chết của rất nhiều người. Để thực hiện cuộc tấn công, Roremclad chuẩn bị không những binh lính có vũ trang mà còn cả các Amalgam tự phát triển. Theo và đơn vị đã hành động điên cuồng để cố gắng cứu lấy nhiều mạng sống nhất có thể, còn Eleven dùng bản thân mình làm mồi nhử để dụ toàn bộ Amalgam vào trong một lò thiêu mạnh mẽ và bị thiêu rụi cùng với chúng.

Tuy nhiên, cô là một mẫu đặc biệt, lửa của lò thiêu không thể nào phá hủy được cô. Cô quay về trong tình trạng tả tơi với Theo, người suýt thì lịm đi trước sự khó tin của toàn bộ sự việc. Anh đã choáng váng bởi tất cả những gì đã xảy đến với Eleven đến nỗi không thể nào cử động nổi, thế nhưng dường như đó là cách mà Hound vận hành.

Dù vậy, cơ thể của Eleven đã bị thiệt hại nghiêm trọng. Cô không thể hồi phục lại cơ thể đủ nhanh với năng lực hồi phục của mình nên cô đã không lập tức trở về cục. Thay vào đó, cô về phòng thí nghiệm R&D, nơi các chuyên gia thực hiện các quy trình sửa chữa cần thiết và sau đó giữ cô ở lại một thời gian để quan sát trước khi cô có thể quay trở về với công việc.

Trong khi đó, tháng ngày trôi qua, thời tiết nóng dần lên. Mùa hè đã đến với thành phố Delverro.

      

“Thật đấy, tên đó đúng là một gã phiền toái,” Theo lầm bầm trong khi quay về xe của mình.

Sau anh nửa bước, Eleven nói, “Có lẽ, dựa trên việc anh ta ít nhất không sở hữu Amalgam, ‘không tệ’ là một từ phù hợp?”

“Kể cả như vậy… vụ án lần này vẫn quá sức tồi tệ.”

Tâm trí của Theo hướng về phía nạn nhân và gia đình của họ, và khi nghĩ về việc mình phải viết báo cáo như thế nào, anh buông một tiếng thở dài.

       

Vụ án đầu tiên của Eleven sau khi quay trở lại làm việc có phần khá phức tạp. Người đàn ông mà họ vừa bắt được trong hầm hoạt động làm bên trung gian cho một cơ quan môi giới nhận con nuôi; gã ta dàn xếp việc nhận nuôi cho những đứa trẻ không tồn tại, lừa đảo một lượng lớn tiền từ nạn nhân trên danh nghĩa nhiều loại phí nhận nuôi khác nhau.

Người đàn ông khi đó sẽ đến gặp mặt gia đình nhận nuôi để lấy tiền, tiếp theo là giải thích rằng vì lợi ích của đứa trẻ, lần gặp gỡ đầu tiên phải được thực hiện qua cửa sổ. Nhưng thay vì một đứa trẻ thực sự, tại phía bên kia cửa kính chỉ là một đoạn ghi hình 3D. Các gia đình mà gã ta lừa gạt đều không thể nhận nuôi thông qua các cơ quan mang tính chính thống hơn, và họ trở nên vui sướng trước tia hy vọng mong manh này, để rồi sau khi phát hiện rằng mình đã bị lừa thì đọng lại trong họ là một nỗi đau sâu đậm.

Bản thân trò lửa đảo này khá đáng khinh, nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó.

      

Liên hệ duy nhất của gã ta với các gia đình là qua vai trò một người đại lý nhận con nuôi. Cặp vợ chồng cấu kết với gã mới là người tiếp cận các nạn nhân và mang họ tới chỗ kẻ lừa đảo. Để có thể chiếm được lòng tin của các gia đình tiềm năng và lôi kéo họ vào đường dây lừa đảo, cặp vợ chồng này kể với các nạn nhân về cách mà họ đã nhận nuôi được một đứa trẻ với sự giúp đỡ của kẻ lừa đảo. Vô cùng nhẫn tâm.

Nhưng hai ngày trước, cặp vợ chồng đó được phát hiện là đã tử vong. Một gia đình đã đặt hẹn gặp mặt đến nhà của cặp vợ chồng đó và tìm ra thi thể của họ. Các thi thể đều bị tổn thương nghiêm trọng—riêng vùng bụng của người vợ thì bị xé toạc ra—và đứa con nuôi cũng đã mất tích. Ban đầu, phía cảnh sát nghi ngờ thủ phạm có thể là một con thú, tuy nhiên, họ không phát hiện ra nước bọt này bất cứ thứ gì tương tự trên các thi thể.

        

Những thi thể bị gặm nhấm nhưng không dấu vết của nước bọt.

Khi Theo và đơn vị của mình nghe được chi tiết này, họ không thể nào không nhớ lại những hồi ức không mấy tốt đẹp về cuộc tấn công tại ngày lễ kỷ niệm hòa bình. Lũ Amalgam ngấu nghiến bất kỳ ai chúng tìm được. Điều đó nghĩa là nhiều gia đình nạn nhân đã buộc phải chôn những cái quan tài trống do không thể nào tìm được chút tàn dư nào để đặt vào trong.

Theo và đơn vị của mình hoạt động trong tình trạng cảnh giác cao độ với mối nghi ngờ rằng vụ án lần này cũng liên quan đến việc một Amalgam săn lùng con người, nhưng đến giờ họ vẫn chưa tìm được bằng chứng nào.

“…Quay về văn phòng thôi.” Theo nắm vào vô lăng và khởi động chiếc xe của mình. “Tôi muốn xem lại một lượt các thông tin.”

“Đã rõ. Tôi sẽ báo lại cho Emma và Tobias.”

Eleven rút chiếc điện thoại của mình ra. Theo cuối cùng đã có thể buộc cô phải mang theo một chiếc bởi cô cần một phương tiện để liên lạc với mọi người, nhưng đến hiện tại thì cô vẫn còn gặp khó khăn trong việc sử dụng thiết bị này.

Anh liếc sang nhìn cô hậu đậu thao tác với chiếc điện thoại, một nụ cười hiện lên trên khuôn mặt anh. Cô đã cải thiện lên nhiều kể từ khi anh ngừng chủ động gọi điện, bởi anh cho rằng làm vậy sẽ nhanh hơn.

“Biết không,” Theo nói, “tôi cảm thấy an tâm khi cô cũng làm dở một việc gì đó. Lần này hy vọng rằng tin nhắn của cô sẽ đến được với họ trước khi chúng ta tới nơi.”

“Vấn đề nằm ở thiết bị di động,” Eleven phủ nhận. “Nó hoạt động với ngón tay của tạo tác nhưng lại không phản ứng với cơ thể của Amalgam. Điều này thật lạ. Ngay cả khi mô phỏng ngón tay của con người, nó vẫn không phản hồi…”

“Ừ, ừ.”

Theo bỏ ngoài tai những lời đó và rẽ cỗ xe của mình. Khi vấn nạn bị hack bởi phù thủy nổi lên thành một vấn đề, các kĩ thuật phòng chống phép thuật trên điện thoại đã được cải tiến đáng kể, và có vẻ những biện pháp đó là một rào ngăn đối với Amalgam. Giao thức ngăn chặn vũ khí phép thuật hoạt động và ngăn Eleven viết tin nhắn, do đó nên cô buộc phải thực hiện lại từ đầu.

“…Tuy nhiên, việc vận hành thuận lợi sẽ trở nên khả thi nếu tôi hợp nhất với thiết bị này,” Eleven nói.

“Nào nào. Cô phải làm chủ được nó trong vai một con người.” Theo bật cười trước điểm yếu không ngờ đến của vũ khí ma pháp này.

Khi trở về Phòng Điều hành Thám tử thuộc Cục Điều tra Tội phạm chi nhánh Delverro, những người đồng đội trong đơn vị điều tra Amalgam đặc biệt của họ, Tobias Hillmyna và Emma Canary, đều đang tổng hợp những tệp hồ sơ.

Emma mỉm cười chào đón Theo và Eleven. “Mừng rằng hai người vẫn toàn vẹn trở về.”

“Dù rằng chuyến này không thu thập được nhiều cho lắm,” Theo đáp lại đầy khó chịu. “Đây là mọi thứ tịch thu được từ nhà của nghi phạm à?”

Tobias trải xong những vật trong hộp chứng cứ ra ngoài rồi liếc về phía tấm bảng được gắn những tài liệu điều tra. “Có vẻ là vậy,” anh ấy nói. “Hy vọng rằng chúng ta có thể có thể kiếm thêm được gì đó khi tra khảo gã. Vụ án lần này có quá nhiều yếu tố không xác định.”

Theo nhìn vào những tấm hình và ghi chú trên bảng và gật đầu đồng tình. “Havel Price là kẻ đứng sau một đường dây lừa đảo nhắm đến các gia đình muốn nhận con nuôi. Gã đóng vai một nhân viên đại lý hỗ trợ việc nhận nuôi những đứa trẻ không tồn tại, thu một lượng phí cắt cổ rồi sau đó ôm tiền chạy trốn. Quá trình này diễn ra liên tục nhiều lần.”

Price là một người đàn ông với khuôn mặt trông có vẻ hiền lành lương thiện. Những cái ghim được đính trên tấm bản đồ Adastrah đánh dấu lộ trình của gã ta. Bởi mỗi lần thực hiện hành vi lừa đảo đều ở những nơi khác nhau, thẩm quyền pháp lý tại địa phương cũng thay đổi theo, và không ai nhận ra rằng từng phi vụ lừa đảo thực chất đều do một cá nhân gây ra.

Emma vén mái tóc vàng và tấm áo choàng của Hội Phù thủy ra và lật qua từng trang tài liệu. “Price giả vờ tìm kiếm các gia đình muốn nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi và tiếp cận nạn nhân. Tại địa điểm phỏng vấn, gã nói với các gia đình rằng họ có thể gặp đứa trẻ, nhưng thực tế gã chỉ cho họ xem một đoạn băng 3D qua cửa sổ. Các nạn nhân cũng được phép ghi hình trong thời gian gặp mặt nên họ không hề nghi ngờ rằng thứ mà họ đang nhìn thấy chỉ đơn thuần là một đoạn băng…”

“Price hiện đang độc thân, chưa từng đăng ký kết hôn. Không có con nhỏ, không có tiền sử làm việc trong cơ sở y tế,” Tobias nói. “Ban đầu, mục tiêu của gã là các nhà đầu tư. Luôn cố gắng giữ những phi vụ của mình nằm ngoài tầm ngắm của Cục Điều tra Tội phạm. Gã có thể biết cách lẩn trốn khắp cả nước và xóa bỏ dấu vết, tuy nhiên, không thể nào có chuyện gã ta biết cách để có thể nắm giữ nhiều đứa trẻ trong tay. Đó là lý do các điều tra viên suy tính đến khả năng tồn tại đồng phạm.”

Tobias thở dài và đính những tấm ảnh chụp khám nghiệm pháp y lên trên bảng, sao cho ảnh chụp gia đình nhà Brouwer nằm kế bên những tấm hình của cặp vợ chồng đẫm máu nằm trên mặt đất.

“Người chồng tên là Brecht Brouwer, một thợ máy hành nghề tự do, trước đây là một nhân viên lao công tại văn phòng phúc lợi xã hội. Người vợ, Michelle, làm việc nội trợ tại gia. Người chồng tiếp xúc với các nạn nhân trong khi giả vờ là mình thuộc một hội nhóm hỗ trợ nhận con nuôi. Sau đó, Michelle sẽ đến và mang theo đứa con của mình, xây dựng một cuộc hội thoại vui vẻ với các nạn nhân và chiếm lấy lòng tin của họ. Cô ấy nhắc đến chủ đề nhận con nuôi và kể rằng Price đã giúp họ. Brecht cũng sẽ đi cùng nạn nhân đến để gặp Price nếu họ muốn, từ đó gia tăng sự tin tưởng của nạn nhân đối với cặp vợ chồng. Dù vậy, các nạn nhân hẳn cũng đã phải nghi ngờ rằng nhà Brouwer đang cấu kết với Price.”

“Vấn đề nằm ở đứa trẻ và nhà Brouwer đã nhận nuôi.” Với một nét mặt rắc rối, Emma nhìn vào ảnh chụp đứa trẻ sơ sinh trong vòng tay của Michelle Brouwer. “Họ đã thực hiện phi vụ lừa đảo này trong ít nhất sáu tháng. Thế nhưng tất cả nạn nhân đều khai rằng đứa trẻ chỉ vừa mới được trao đến với gia đình Brouwer. Và rằng cậu bé này mới chỉ ba tháng tuổi. Không một đứa trẻ nào có thể giữ nguyên kích cỡ trong suốt sáu tháng cả. Nếu đây là một con búp bê thì không nói, nhưng đứa trẻ này có thể làm những thứ mà em bé thường làm, thậm chí một số nạn nhân còn từng bế cậu bé lên nữa. Đó là lý do họ đều tin rằng đứa trẻ và câu chuyện nhận con nuôi là thật.”

Tobias nghển cổ lên nhìn vào những bức hình. “Đứa trẻ trong đoạn ghi hình là một em bé sơ sinh. Điều này cũng không khớp với tuổi đứa con nuôi của nhà Brouwer… Vậy chuyện gì đang thực sự diễn ra?”

“Nếu Price là người chỉ đạo mọi thứ thì mọi chuyện sẽ suôn sẻ hơn nhiều, nhưng…” Emma thở dài rồi nhấn tay lên trán. “Đứa trẻ của nhà Brouwer vẫn đang mất tích. Và khi xem xét các manh mối, tôi nghĩ rằng nó là một Amalgam… Các nhân chúng phát hiện ra thi thể cặp vợ chồng cũng không thấy đứa trẻ đâu đúng không?”

“Đúng.” Tobias gật đầu. “Nhưng mà tội nghiệp cho họ thật. Họ đến nhà của gia đình Brouwer bởi họ muốn tìm hiểu thêm về việc nhận con đúng không? Không có gì lạ nếu họ trở nên bối rối đến vậy. Cả họ lẫn phía cảnh sát.”

“Sự thật là bi kịch lần này quá đỗi quen thuộc với chúng ta.” Theo ngả người về sau và nhăn mặt lại. “Các vết thương giống như thi thể của nhà Brouwer đã bị ăn vào. Dấu cắn tương đồng với động vật nhưng không tìm thấy nước bọt. Chúng ta đã thấy nhiều ví dụ tương tự trong vụ án lần trước. May là chúng ta đã báo cáo về dạng thương tích này ra toàn nước thông qua cục. Phía cảnh sát dường như vẫn còn khá hoài nghi về sự việc, dù vậy, họ vẫn đã liên lạc với chúng ta, và nhờ vậy mà chúng ta đã được giao cho một vụ án.”

“Nếu không tìm được đứa trẻ đó thì chúng ta sẽ lại quay về điểm bắt đầu.” Emma quay sang phía Eleven với nét mặt nghiêm túc. “Việc bắt chước một đứa trẻ đối với Amalgam không có gì quá khó khăn nhỉ?”

“Không,” Eleven thẳng thừng đáp lại. “Chúng tôi có thể vận hành với kích thước của một đứa trẻ sơ sinh nếu chỉ cần mô phỏng lại những hành động như nói bập bẹ, thể hiện biểu cảm gương mặt, chuyển động đầu và ngón tay. Lõi vận hành cũng sẽ nhỏ.”

Đa số các Amalgam đều đủ lớn để mang theo vũ khí cấp chiến hạm. Các Amalgam cỡ nhỏ gặp phải khó khăn trong khâu chế tạo bởi kích cỡ của lõi bắt buộc phải gia tăng để hỗ trợ phục vụ đa chức năng, đồng thời bản thân cỗ máy cũng cần phải đủ lớn để chứa được lõi đó. Nhưng nếu chỉ cần mô phỏng lại các chuyển động cụ thể ở mức tối thiểu và không có chức năng chiến đấu, một Amalgam có thể được thu nhỏ lại xuống còn kích cỡ của một đứa trẻ sơ sinh.

Vấn đề hiện tại là làm thế nào mà một hộ gia đình bình thường như nhà Brouwer có được một Amalgam như vậy.

Eleven khẽ nói. “Roremclad nhân bản các Amalgam họ lấy được từ phòng nghiên cứu và thành công tăng lượng Amalgam sản xuất được thông qua thí nghiệm và công cuộc chế tạo viên đá triết gia. Tôi cho rằng đứa trẻ trong vụ án này cũng được thu thập về từ một nơi nào đó, nhưng hiện tại không còn Amalgam nào với lõi nhỏ cỡ vậy được sản xuất.”

“…Không có vẻ là cặp vợ chồng này sở hữu kiến thức hay từng tiếp xúc với công nghệ liên quan đến Amalgam. Vậy có phải một ai đó đang sản xuất hàng loạt Amalgam như Roremclad đã từng? Hay là…” Theo rên rỉ.

Roremclad, một tổ chức tôn giáo được thành lập nhằm hiện thực hóa mộng tưởng của một người đàn ông. Lấy lý tưởng thống nhất lục địa làm tôn chỉ, người đàn ông này chà đạp lên nhưng người không cùng đức tin—và thậm chí là cả những tín đồ của mình—để hiến tế cả lục địa này cho vị thần của gã. Gã ta đã sản xuất hàng loạt Amalgam, thậm chí gã còn nhắm tới viên đá triết gia cấm kỵ, thứ cần đến hàng ngàn sinh mạng con người để có thể tạo thành. Cuối cùng, gã đã bị Eleven tiêu diệt, dù trước đó thì vô số mạng sống cũng đã bị hắn tước đi.

Nếu… nếu các Amalgam mà Roremclad tạo ra vẫn còn tồn tại ở đâu đó thì sao? Đây sẽ thực sự là phần hai của một cơn ác mộng.

Theo nhăn mặt và nhìn vào tấm bản đồ. “Price di chuyển trên khắp cả nước, nhưng nhà Brouwer chủ yếu chỉ hoạt động ở khu vực xung quanh nơi ở của mình và địa điểm gặp mặt với các nạn nhân. Chúng ta có thể lần theo dấu vết của họ, nhưng có làm vậy thì chúng ta cũng không điều tra được gì về cách mà họ đã có được một Amalgam. Họ không có liên hệ gì với bất kỳ nhân viên chăm sóc sức khỏe hay đơn vị quân đội nào, ngoài ra cũng không về có văn bản chính thống nào công nhận rằng họ đã nhận nuôi một đứa trẻ.”

“Việc họ gặp Price như thế nào cũng là một bí ẩn,” Tobias bổ sung vào. “Tôi cho rằng đó là lý do vì sao không ai nhận ra rằng họ là đồng phạm trong một khoảng thời gian dài. Tôi thực sự khá tò mò về mối quan hệ giữa đôi bên đấy.”

Tobias mở cuốn sổ tay của mình ra và nói tiếp:

“Khi gia đình Brouwer nói về đời sống cá nhân của mình với các nạn nhân, họ luôn kể lại cùng một câu chuyện: ‘Chúng tôi bắt đầu nghĩ đến việc nhận con nuôi bởi nỗi đau của việc mất đi một đứa con, và chúng tôi đã được trao cho đứa bé này.’ Ngay cả nếu đó là một lời nói dối, bởi đây là câu chuyện mà họ đã liên tục lặp đi lặp lại, tôi có cảm giác rằng ít nhất nó được dựa trên một sự việc gì đó đã thật sự xảy ra. Và thực tế thì cặp vợ chồng đó đã mất đi con ruột của mình ba năm về trước, công thêm việc không có tin nào cho thấy Michelle đã hạ sinh thêm bất cứ đứa trẻ nào khác. Có thể họ đã thực sự nhận nuôi đứa trẻ này, ngoại trừ việc Price không phải người môi giới.”

“Trong trường hợp đó… chúng ta cần Price chia sẻ những gì gã biết về cặp vợ chồng. Họ hoạt động cùng nhau nên nhà Brouwer hẳn đã phần nào kể cho gã ta về chuyện đó.” Gương mặt của Emma rạng hẳn lên, nhưng nét mặt của Tobias thì lại trở nên cứng đanh.

“Không.” Anh ấy lắc đầu quả quyết. “Tùy thuộc vào ai là bên đầu tiên đề xuất ý tưởng cho phi vụ lừa đảo này—Price hoặc nhà Brouwer—mà câu chuyện cũng sẽ khác theo. Nếu Price biết gì đó thì tốt, nhưng…”

“Vì sao chứ?” Emme tò mò hỏi. “Cũng có thể là họ đang sản xuất hàng loạt Amalgam cho việc nhận con nuôi.”

“Nếu Price là người đề xuất, gã sẽ phải có những đồng phạm khác ngoài gia đình nhà Brouwer,” Theo nói. “Nếu họ đang sản xuất hàng loạt Amalgam theo như cô nói, họ đã có thể thực sự trao những đứa trẻ đó ra. Nhưng nếu gia đình Brouwer là người đề xuất, cặp vợ chồng đó phải đang che giấu một thứ gì đó to lớn, còn Price thì không hề hay biết về Amalgam.”

“Ngoài ra, tôi cũng có thắc mắc về Michelle,” Tobias gấp cuốn sổ của mình lại và nói. “Cô ấy cho nạn nhân xem đứa con của mình, nhưng không phải tất cả trong số họ đều được chạm vào đứa bé. Trong số tất cả các gia đình muốn nhận con nuôi, Michelle chỉ cho phép những người đã mất con vì lý do nào đó được bế con mình. Dù là chỉ trong một khoảng thời gian ngắn và dưới sự giám sát của cô ấy.”

Emma nghiêng đầu sang một bên. “Có phải cô ấy muốn đối tốt với những gia đình đã phải trải qua cùng tình cảnh?”

“Tôi thì thắc mắc liệu có phải cô ấy muốn kiểm tra gì đó bằng việc cho các cặp đôi ấy bế đứa trẻ,” Tobias nói, khuôn mặt anh hiện lên một vẻ đau đớn. “Dĩ nhiên, cặp vợ chồng ấy bây giờ đã tử vong, chúng ta chỉ có thể tìm hiểu về câu chuyện đằng sau thông qua Price. Gã ta chỉ là một tên tội phạm tầm thường nhắm đến tiền bạc. Sao lại phải bỏ công ra để thực hiện một thủ đoạn phức tạp như lừa đảo nhận con nuôi chứ?”

“Có thể gã muốn dùng chiêu trò đó để tập trung những người mang tình cảnh tương tự với nhau,” Emma nói. Căn phòng trở nên im ắng khi họ cố tiêu thụ thông tin này.

Theo suy nghĩ một hồi rồi nói, “Tobias, anh cùng với thám tử thẩm vấn Price đi. Emma, cô kiểm tra chứng cứ lại một lượt để tìm mối liên kế giữa Price và nhà Brouwer—à, để cho chắc thì kiểm tra luôn xem có liên hệ nào với Roremclad không. Tôi và Eleven sẽ đi điều tra nhà riêng của gia đình Brouwer. Chúng ta cần tìm ra gì đó về quá khứ của họ và xuất xứ của Amalgam này.”

“Đã rõ. Tôi sẽ làm tất cả những gì mình có thể để moi được thông tin ra từ gã,” Tobias trả lời rồi đi về phía phòng thẩm vấn.

Theo giao phó phần còn lại cho Emma và cùng Eleven rời khỏi văn phòng. Anh không có thời gian để nghỉ ngơi.

Khi anh và Eleven đi ra chỗ xe, anh hỏi, “Vậy, là một Hound, cô nghĩ chúng ta có thể lần theo dấu của nó được không?”

“Cá thể này vô cùng nhỏ cả về kích thước cơ thể và lõi,” Eleven đáp lại. “Tôi cần phải ở gần để có thể phát hiện được nó; điều này sẽ rất khó khăn.”

Người máy phép thuật cần một cái lõi để vận hành. Là một Hound, mẫu Amalgam đặc biệt, Eleven sở hữu chức năng dò tìm để thu thập lại các lõi. Tuy nhiên, tín hiệu phát ra còn tùy vào kích cỡ của lõi, và bởi hiện tại họ đang phải đối phó với một cái lõi nhỏ, lần tìm nó sẽ không phải một việc dễ dàng gì. Họ sẽ phải điều tra các khu vực khác.

“Tôi cho rằng Amalgam này cũng đã đi xa khỏi hiện trường rồi,” Theo nói.

“Amalgam của Roremclad đã tận dụng đường cống ngầm,” Eleven đáp. “Amalgam đó có thể cũng đã di chuyển được một khoảng cách nhất định nếu nó tiếp cận được thứ tương tự ở gần ngôi nhà.”

“…Vậy còn lý do nó phải di chuyển thì sao?” Theo khựng lại trong thoáng chốc. Anh quay sang nhìn Eleven, người đang ngước lên nhìn anh. “Roremclad muốn giấu Amalgam quanh Delverro trước khi bắt đầu tấn công. Vậy nên họ đã sử dụng hệ thống cống ngầm và đặt Amalgam rải rác khắp thành phố. Nhưng còn Amalgam lần này thì sao? Nó đang cố gắng làm gì?”

“Nếu giả định cá thể này được giao nhiệm vụ sát hại gia đình nhà Brouwer, tôi cho rằng nó đã trở về một điểm hẹn nhất định. Nhưng trong trường hợp ấy, tôi không thể dự đoán được điểm hẹn.”

“Có lẽ nó quay về với người chỉ huy,” Theo nói. “Trong trường hợp của Roremclad, chúng ta đã có thể chắc chắn rằng người chỉ huy là Jim Kent. Tuy nhiên, trong vụ lần này thì chúng ta không biết liệu có xuất hiện một người như vậy hay không.”

“Người chồng Brecht, người vợ Michelle. Nếu một trong hai người họ là chỉ huy thì có nghĩa là Amalgam đã sát hại chỉ huy của nó, trái với nguyên tắc vận hành của bản thân. Nhưng chúng ta không có đủ thông tin người chỉ huy là ai trong trường hợp đó là người khác, cũng như việc xác định được điểm hẹn là đâu.”

“Một Amalgam bình thường sẽ không giết người chỉ huy của mình à?” Theo tò mò hỏi.

“Không.” Eleven lắc đầu. “Bản chất của Amalgam là tuân theo mệnh lệnh, và do đó mà người chỉ huy cần phải được bảo vệ gắt gao.”

“Vậy, ví dụ nhé, sẽ ra sao nếu người chỉ huy không thể đưa ra mệnh lệnh vì lý do nào đó?”

“Trên chiến trường, khi người chỉ huy thiệt mạng hoặc ở trong trạng thái không thể ra lệnh, quyền điều khiển được chuyển giao sang cán viên với quân hàm cao nhất tại vị trí gần với Amalgam hoặc sang Hound chúng tôi. Các Amalgam thường di chuyển đến một tọa độ được định sẵn, ví dụ như một căn cứ trên tiền tuyến hoặc một điểm hen, sau đó chuyển sang trạng thái chờ lệnh.”

“Quả thực sẽ dễ dàng hơn nếu hành vi của Amalgam được định sẵn đến một ngưỡng nhất định sau khi chỉ huy chết nhỉ?” Theo vào trong xe, thắt dây an toàn rồi thiết lập nhà riêng của gia đình Brouwer làm đích đến trong hệ thống chỉ đường của xe. “Chúng ta sẽ cố gắng tìm xem nó đã đi đâu và điều tra bất kỳ manh mối nào dẫn đến người có thể là chỉ huy tại nhà của gia đình đó. Nếu không tìm thấy Amalgam hay bất kỳ thông tin hữu ích nào… chúng ta sẽ liên lạc với quân đội xem họ có cài nhân sự hay Hound nào quanh khu vực này không.”

“Đã hiểu,” Eleven trả lời, còn Theo thì khởi động xe.

Không cưỡng nổi sự tò mò, anh hỏi, “Tiện thể thì chúng ta có nên nói về những gì sẽ xảy ra trong trường hợp mà tôi chết không?”

“Đó là một việc vô nghĩa.”

“Haha, vậy à?” Anh mỉm cười nhẹ lòng trước câu trả lời rất đỗi Eleven ấy.

Khi Tobias bước vào phòng thẩm vấn, Havel Price giật nảy mình rồi co rúm lại. Tobias trải những tấm ảnh chụp thi thể của nhà Brouwer ra và quan sát kỹ nét mặt của Price. Price bật mạnh về sau, khiến cho chiếc còng tay của gã kêu lên lạch cạch.

“Này!” gã kêu lên. “Mấy tấm ảnh gớm ghiếc này là sao hả?!”

“Gia đình Brouwer đấy. Cặp vợ chồng đã tham gia vào chiêu trò lừa đảo của anh,” Tobias lãnh đạm nói. “Có phải anh đã sát hại họ để bịt miệng không?”

“Không! Tôi không giết ai hết! Tôi chỉ muốn tiền thôi. Tôi không phải kẻ sát nhân—”

“Tác phẩm này cũng khá ghê gớm đấy.” Tobias lườm Price ở phía bên kia của chiếc bàn. “Anh làm điều này với cặp vợ chồng, sau đó thì anh nhắm tới con của họ. Một đứa bé hoàn toàn không có khả năng chống trả.”

“Tôi không hề làm vậy!” Price hét lên còn lớn hơn trước. “Có những lằn ranh mà ngay cả tôi cũng không bao giờ vượt qua! Tôi chưa bao giờ giết một ai cả chứ đừng nói tới một đứa bé!”

Mồ hôi nhỏ giọt trên trán, đôi tay run rẩy. Hơi thở nặng nhọc, gã gạt những tấm ảnh chụp thi thể của cặp vợ chồng đi và cố gắng thu mình ra xa khỏi những tấm hình gớm ghiếc đó.

Price là một kẻ lừa đảo, gã đã gây ra thiệt hại lên rất nhiều người. Nhưng trong mắt Tobias, gã ta không có vẻ là đang nói dối.

(Dù chỉ dẫn dụ một cách đơn giản nhưng anh ta phản đối khá kịch liệt. Có lẽ anh ta thực sự không biết gì về cái chết của gia đình Brouwer, cũng như vị trí đứa con nuôi của họ…)

Sau khi quan sát Price thêm một lúc, Tobias ngồi xuống chiếc ghế ở phía đối diện. “Vậy à? Xem ra ít nhất anh vẫn còn chút lương tâm. Anh đã bao giờ tham gia vào mua bán trẻ em chưa?”

“Không hề! Tôi không tham gia vào những chuyện như vậy! Tôi… Tôi có nguyên tắc riêng là không bao giờ động đến hàng thật. Tôi chỉ làm giả sao cho giống thật hết mức có thể rồi chạy trốn thôi…”

Có lẽ cảm thấy lời phản bác của mình nghe thật sáo rỗng, lời khẳng định của Price mất dần đi sự quyết liệt, giọng gã cũng nhỏ dần đi. Những lời gã nói là sự thật. Trước giờ hắn đã liên tục thực hiện những pha lừa đảo, bán đi liên tiếp những món hàng giả mạo. Lần này, thủ đoạn của gã đơn thuần chỉ hơi lệch lạc hơn một chút, nhận nuôi những đứa trẻ không tồn tại.

Nhưng lần này thì chiêu trò của gã đã tiến triển thành một vụ án nghiêm trọng hơn nhiều.

“…Coi như tôi tin anh đi,” Tobias mở lời. “Anh có biết lý do vì sao gia đình Brouwer bị sát hại không? Có bất kỳ nạn nhân lừa đảo của anh muốn họ phải chết không?”

“Sao lại có người muốn điều đó chứ?” Price lắc đầu. “Họ chỉ là một gia đình bình thường gặp phải vấn đề tài chính thôi. Về phần tôi thì không nói, nhưng những người khác đều tin tưởng nhà Brouwer.”

“Một gia đình bình thường thì sẽ không dính líu gì đến lừa đảo. Anh đã làm thế nào để khiến họ phải hợp tác?”

“Khiến họ phải hợp tác? Ý tôi là… Chẳng biết nữa. Kiểu như…” Price bồn chồn gõ móng tay vào nhau và lảng tránh ánh mắt khỏi Tobias. Mỗi lần nhìn trúng những tấm ảnh chụp thi thể, gã ta co rúm lại trong sợ hãi. Không phải là anh ta đang diễn một màn kịch dưới vai kẻ lừa đảo; anh ta chỉ là một con người bình thường đang thực sự bất an.

“Price,” Tobias quả quyết nói. “Anh có thể mô tả lại lần gặp mặt đầu tiên của anh với nhà Brouwer không?”

“Lần gặp đầu tiên…?” Price nhại lại. “Chà, tôi lừa đảo em gái của Brecht. Không biết vì sao mà anh ta tìm ra được tôi. Anh ta nói rằng nếu tôi giúp giải quyết một vấn đề, anh ta sẽ ngăn em gái mình đệ đơn kiện.”

Tobias mở to mắt. Anh không hề ngờ đến diễn biến này. Anh liền ghi chúng vào cuốn sổ tay rồi thúc giục Price nói tiếp. “Vậy Brecht là người đã tiếp cận anh. Vấn đề mà anh ấy gặp phải là gì?”

“Anh ta nói rằng mình đã làm hỏng việc tại văn phòng phúc lợi. Có một cặp vợ chồng không được chấp thuận trong cuộc phỏng vấn nhận nuôi, tuy nhiên, anh ta đã để thông qua yêu cầu của họ. Do vậy nên không có đứa trẻ nào được sắp xếp cho cặp vợ chồng đó nhận nuôi cả, Brecht nói rằng nếu cấp trên phát hiện ra rằng anh ta đã phạm phải một sai lầm ngu ngốc như vậy thì anh ta chắc chắn sẽ bị đuổi việc. Anh ta có vẻ khá hoang mang.”

Tobias hoài nghi nhướng một bên chân mày lên. “Vậy nên anh ấy đã tìm đến một người lừa đảo?”

“Anh ta yêu cầu tôi giải quyết vấn đề này bằng cách dàn dựng một trò lừa đảo nhận nuôi,” Price giải thích. “Tôi kiếm được chút lợi nhuận, anh ta thì được bao che cho sai phạm của bản thân bằng cách vờ như cả mình và cặp vợ chồng đó đều đã bị bịp. Đôi bên cùng có lợi, vậy thì sao lại không đồng ý? Đó là những gì mà anh ta nói.”

“Vào thời điểm đó anh ấy hẳn đã cùng đường.”

“Tôi hiểu lý do vì sao anh ta lại hoảng. Vợ anh ta mới sinh được một đứa bé. Đó không phải là một khoảng thời gian thích hợp để bị thất nghiệp, đúng không? Về phần tôi thì có thêm được chút tiền là mừng rồi. Vậy nên tôi đã đồng ý làm theo. Dù là tôi chưa bao giờ hoạt động theo nhóm, cũng như không biết chút gì về quy trình nhận nuôi cả. Nhưng cơ bản thì luật chơi vẫn vậy.”

Price lau mồ hôi lấm tấm trên trán.

“Dù vậy, tôi muốn màn kịch của mình phải thật là thuyết phục, vậy nên tôi đã yêu cầu anh ta giao cho mình một đoạn băng về một đứa trẻ. Chỉ cần kiếm được một đoạn ghi hình 3D và chiếu qua cửa sổ thì sẽ chẳng ai phân biệt được thật giả hết. Ý tôi là, tôi cần người ta tin rằng thực sự tồn tại một đứa trẻ để cho họ nhận nuôi. Vậy nên Brecht đồng ý cung cấp cho tôi bất cứ thứ gì mình cần vào gửi đoạn phim cho tôi.”

“Nghĩa là anh dùng đoạn băng từ Brecht với tất cả các nạn nhân?”

“Ừ.” Price gật đầu. “Chắc là anh ta có thể quay phim trong khi làm việc tại văn phòng phúc lợi nên đã ghi hình lại bên trong căn phòng của một đứa trẻ thật sự. Tôi để lặp lại một số phần của đoạn phim và dàn dựng sao cho y tá bước vào chăm sóc cho đứa trẻ ngay khi con mồi bước vào phòng. Ngoài ra, họ cũng chỉ được phép quan sát đứa trẻ qua cửa kính. Ý tôi là, đoạn băng hoàn toàn là đồ thật mà. Không ai trong số họ nghi ngờ gì cả.”

“Brecht có nói cho anh biết phòng của đứa trẻ nằm ở đâu hay đoạn băng được ghi hình vào thời điểm nào không?”

“Không. Anh ta chỉ cứ vậy đưa đoạn băng cho tôi thôi. Mà đoạn băng thực chất chính là lý do khiến chiêu trò này hiệu quả đến vậy; do đó nên tôi cũng không thực sự muốn đào quá sâu vào nó.”

“Được rồi. Cũng hợp lý,” Tobias đồng tình và gửi một tin nhắn đến Emma: Đoạn băng là thật. Sau đó, vờ như không biết gì, anh hỏi Price, “Brecht có phải người duy nhất trực tiếp gặp mặt anh không? Các thành viên còn lại trong gia đình thì sao?”

“Michelle và Basil à? Tôi có gặp họ rồi, nhưng chỉ gặp một lần thôi và cũng là từ khá lâu rồi nữa. Basil thì chắc chỉ mới được sinh thôi, nhưng thằng bé luôn quan sát bố mẹ mình và bập bẹ như thể muốn nói gì đó. Thực sự mà nói thì trông cũng khá cưng. Tuy nhiên, cô vợ thì trông khá là bình thường. Nhưng Brecht chưa nói với cô ta về trò lừa đảo này nên tôi có hơi chút dè chừng với cô ta.”

“Vậy…” Tobias nhăn mặt. “Michelle nghĩ rằng họ đang sắp xếp cho những cuộc nhận nuôi thực sự?”

“Tôi không muốn chọc vào tổ kiến lửa nên chưa bao giờ hỏi cả… Nhưng cô ta không mang bầu không khí của một người đang toan tính gì. Và Brecht cũng nói rằng mình chưa kể gì hết, vậy nên tôi nghĩ là cô ta không biết gì đâu.” Price tỏ vẻ không thoải mái. “Mọi chuyện diễn ra suôn sẻ đến mức khó mà tin được. Tôi cũng hào hứng lắm đó chứ biết không? Ý là, anh ta có thể che đậy cho sai lầm của mình, nhưng anh ta vẫn còn nắm giữ một bí mật không muốn bất kỳ ai biết.”

Tobias nheo mắt lại. “Có phải anh đe dọa sẽ báo cáo lên văn phòng trừ khi anh ấy tiếp tục hợp tác?”

Price lau mồ hôi trên trán thêm lần nữa và gật đầu với vẻ mặt chát chúa. “Thông qua Brecht thì tôi muốn có bao nhiêu con mồi cũng được. Anh ta đưa danh thiếp của tôi cho người khác, những người mong muốn dịch vụ tôi cung cấp sẽ tự tìm đến tôi. Sau đó thì tôi sẽ cầm tiền bỏ chạy. Và rồi thì lặp lại cả quá trình đó. Tôi chỉ đến gặp mặt để giao cho Brecht phần chia chác của mình thôi. Tôi tuyệt đối không giết bất kỳ ai hết,” gã nhấn mạnh.

Tobias gằn giọng một cái rồi hỏi, “Để đảm bảo rằng những thông tin tôi có được là đúng, công việc của Brecht là làm việc với các gia đình muốn nhận con nuôi đúng không?”

“Ừ. Anh ta nói rằng mình làm các thủ tục giấy tờ tại văn phòng phúc lợi và gặp mặt những khách hàng muốn nuôi con. Và nhờ anh ta mà thực sự có người tìm đến tôi. Anh ta nói rằng mình thấy họ buồn rầu và lạc lõng ở ngoài sảnh, sau đó anh ta ngồi xuống an ủi và đưa cho họ danh thiếp của tôi.”

“Vậy quá trình hợp tác giữa anh và gia đình Brouwer không quá khăng khít, phải không?”

“Phải.” Price gật đầu quả quyết. “Tôi chỉ tiếp xúc với Brecht tại các buổi gặp mặt nhận nuôi và khi chia chác lợi nhuận. Chỉ có duy nhất một lần là được gặp cả gia đình họ. Tôi cũng chưa bao giờ đến nhà họ hay nơi nào khác tương tự cả.”

“Cảm ơn. Thám tử phụ trách cho vụ án của anh sẽ sớm có mặt. Hãy chắc chắn là mình sẽ nói hết toàn bộ thủ đoạn của mình cho anh ấy.”

Tobias kết thúc buổi thẩm vấn và đổi chỗ với vị thám tử. Anh quan sát Price qua ô kính một chiều trong khi mở tập hồ sơ điều tra và nhăn mày.

Vì sao Brecht lại phải dàn dựng những lời nói dối của mình? Đúng là anh ấy làm việc tại văn phòng phúc lợi, nhưng chức vụ của anh ấy chỉ là lao công. Anh ấy không có liên quan gì đến các thủ tục giấy tờ nhận nuôi cả. Basil là tên của đứa con ruột đã qua đời của anh ấy, nhưng Price dường như tin rằng mình đã gặp con ruột của họ chứ không phải một đứa con nuôi. Trong hồ sơ y tế của Michelle không có thông tin gì về việc cô ấy có sinh con vào quanh khoảng thời gian mà Brecht tiếp cận Price.

“Vậy là có điều gì đó mờ ám ở phía nhà Brouwer.” Tobias thở dài và gửi kết quả thẩm vấn tới cho Theo.

Bao quanh bởi những hộp đựng chứng cứ, Emma ôm đầu bằng cả hai tay. Cô đã kiểm tra mọi vật phẩm bên trong hộp và tất cả tài liệu có liên quan đến vụ án, thế nhưng vẫn không có gì thể hiện sự liên kết giữa Price và Roremclad. Xét theo nhiều năm kinh nghiệm lừa đảo, gã rõ ràng rất cẩn thận trong việc xóa dấu vết. Họ thậm chí sẽ chẳng tài nào biết được mối liên hệ của gã với nhà Brouwer nếu không có lời khai từ nhân chứng.

“Đào sâu thêm về Price cũng vô ích. Nghĩa là mình chỉ còn lại… đoạn ghi hình này?”

Đoạn băng mà Tobias nói là đồ thật. Emma quyết định xem lại nó từ đầu. Cô muốn xác định được địa điểm của phòng trẻ và thời gian chính xác mà đoạn băng này được ghi hình.

Price tin tưởng Brecht và nghĩ rằng đoạn băng được quay từ một phòng trẻ thật sự. Nếu vậy thì địa điểm, nhân viên điều dưỡng và đứa trẻ phải tồn tại ở một nơi nào đó trên thế giới này.

Đây là một đoạn băng tái hiện lại khung cảnh trong không gian ba chiều, mọi thứ bên trong phòng đều được hiển thị, ngoại trừ cửa ra vào. Những phần không lọt vào ống kính máy quay đều bị cắt đi. Lý do Price yêu cầu các gia đình nhận nuôi quan sát đứa bé qua cửa sổ là để ngăn bất kỳ ai nhận ra những điểm bất thường nhỏ nhặt. Và bởi mục đích có mặt của nạn nhân là để nhận nuôi, họ sẽ dành hầu hết sự tập trung của mình vào đứa trẻ mà bỏ qua bản thân căn phòng.

“…Xét cả về mặt công nghệ lẫn phép thuật thì đoạn băng này là thật,” Emma lẩm bẩm. “Nhưng vẫn có gì đó làm mình cảm thấy không đúng.”

Trong phòng không có cửa sổ, nhìn vào vật dụng trong phòng hay đồng phục của nhân viên điều dưỡng cũng không giúp cô xác định được khoảng thời gian đang là mùa nào. Cô không biết tên của nhân viên, và do chiếc khẩu trang cùng với bộ đồng phục nên Emma cũng không thể nào nhận dạng được khuôn mặt hay hình thể. Nhưng cô có thể khẳng định rằng nhân viên điều dưỡng này là một người phụ nữ với một cánh tay tạo tác, và rằng cô ấy không phải thành viên nhà Brouwer hay họ hàng của họ. Cô quan sát kỹ nhưng vẫn không thấy thứ gì có đi kèm với tên của đứa trẻ hay ngày sinh.

Khi nhân viên điều dưỡng nhận thấy người đang quay phim, cô ấy bế đứa trẻ lên và mỉm cười quay về phía ống kính. Emma dừng đoạn băng lại tại đó trong chốc lát và nghiêng đầu.

“‘Thật là một đứa trẻ dễ thương! Liệu cô có cảm thấy phiền không nếu tôi ghi hình lại?’ ‘Không thành vấn đề. Xin cứ tiếp tục đi.’ Có phải họ đã đối thoại như vậy hay không? Nhân viên điều dưỡng chắc chắn phải nhận biết được vấn đề riêng tư—” Emma đập tay vào trán mình và kêu lên một tiếng. “A! Phải rồi! Đúng là như vậy! Nhân viên điều dưỡng chắc chắn sẽ mỉm cười và bế đứa trẻ lên cho họ xem nếu như người kia là gia đình của đứa trẻ! Mình ngốc quá! Lẽ ra phải nhận ra sớm hơn rồi chứ.”

Cô buông một tiếng thở dài và đập tay vào trán mình thêm lần nữa. Cộc. Brecht vốn không quay đoạn băng này để phục vụ cho việc lừa đảo; anh ta đưa cho Price đoạn băng về đứa con được sinh ra ba năm trước của mình.

Một đoạn băng quý giá về đứa con qua đời ba tháng sau khi sinh. Một kỉ niệm đáng trân quý từ khoảng thời gian mà không ai nghĩ rằng đứa trẻ này sẽ mất sau chỉ vài tháng nữa. Emma chưa từng có con, cô cũng không quen biết người nào như vậy cả. Nhưng liệu có bậc cha mẹ nào thực sự sẽ giao một báu vật như vậy cho một tên lừa đảo—những hình ảnh về đứa con chết yểu của chính mình?

Emma vội vã gửi một tin nhắn đến Theo. Nếu đây thực sự là một đoạn ghi hình đứa con của nhà Brouwer, cuộn phim gốc chắc hẳn vẫn đang còn ở nhà họ.

Theo dừng xe trước cửa nhà Brouwer và xuất trình phù hiệu điều tra viên của mình cho một sĩ quan đang trực tại đó. Vị sĩ quan gật đầu rồi gỡ dải băng giới hạn hiện trường án mạng cho họ. Theo cảm ơn rồi bước vào trong sân với Eleven đi theo sau.

Cặp vợ chồng này sống trong một ngôi nhà đơn lẻ có phần nào cách biệt với các căn nhà ở xung quanh trong một khu dân cư yên bình thuộc vùng ngoại ô gần đồi núi của Delverro. Cả căn nhà hai tầng cái sân đều được chăm sóc kĩ càng. Trong vườn là những đóa hoa theo mùa đang đua nhau nở, có thể dễ dàng tưởng tượng ra cảnh cặp vợ chồng đang ngồi thư giãn trên băng ghế dưới mái hiên.

Theo kiểm tra cửa trước và không thấy dấu hiệu nào cho thấy nó đã bị bẻ khóa, giống như trong báo cáo từ phía cảnh sát. Theo như lời khai của các nhân chứng phát hiện ra thi thể cặp vợ chồng, họ không nhận được hồi đáp sau khi nhấn chuông, cửa ra vào cũng bị khóa. Chỉ đến khi nhìn vào qua cửa sổ ở phía khu vườn thì họ mới phát hiện ra các thi thể. Xét trên việc báo mới của ngày hôm đó được đặt trên bàn ăn, cặp vợ chồng nạn nhân ít nhất vẫn còn sống vào thời điểm báo được giao tới. Thời gian tử vong của họ được cho là vào khoảng chín giờ sáng.

Theo bước vào trong nhà vào đeo đôi găng tay cao su. “Eleven, có phát hiện ra tín hiệu nào của Amalgam không?” anh hỏi.

“Tôi không phát hiện được tín hiệu nào ở trong nhà hay ở môi trường xung quanh,” cô trả lời. “Ở đây an toàn. Tôi sẽ đi xác định lối thoát.”

“Cảm ơn. Nếu tìm được thì hãy báo cáo lại cho tôi. Tôi sẽ bắt đầu kiểm tra tại tầng một.”

“Tôi sẽ sớm trở lại.”

Theo quan sát Eleven rời đi rồi lần lượt đi qua từng căn phòng.

Phía cảnh sát đã giữ nguyên hiện trạng của hiện trường tại thời điểm phát hiện, vậy nên những gì bên trong nhà đều được để yên. Dường như TV đã được bật trong phòng khách, nơi thi thể cặp vợ chồng được tìm thấy. Thứ gì đã phá hoại bầu không khí gia đình ấm cúng này? Máu—giờ đã khô lại thành màu đen—bắn ra thành một đường cung rộng, dính lên khắp ghế sofa, bàn cà phê và thảm, điểm xuất phát là từ cái nôi nằm kế bên ghế sofa.

“…Nếu mục đích đơn giản chỉ là để giết hại họ thôi thì việc này đúng là quá tay. Mà nếu Amalgam đang ăn thịt con mồi thì phần thi thể còn lại là quá nhiều. Tại sao một Amalgam lại làm vậy?”

Theo lật qua từng trang hồ sơ vụ án, nghĩ lại về những gì mình biết được từ cuộc điều tra lần trước. Cả hai vợ chồng đều phải chịu những vết thương nghiêm trọng, nhưng bộ phận cơ thể duy nhất bị mất hoàn toàn là khoang bụng dưới của người vợ. Nếu Amalgam chỉ ăn mỗi một bộ phận đó thì liệu có phải người vợ ẩn chứa một bí mật nào đó?

Theo giám định pháp y của Isco Rocky, cả hai vợ chồng đều hoàn toàn khỏe mạnh. Các vết thương mang điểm tương đồng với vết cắn của động vật, không có dấu vết của nước bọt, cả hai đặc tính đều xuất hiện trên nạn nhân của Amalgam. Khoang bụng dưới của người vợ đã bị ăn sạch, nhưng khác với các nạn nhân của vụ án trước đó, dường như cô ấy đã bị tấn công từ bên ngoài. Có phải đây là một loại Amalgam khác với mẫu mà Roremclad sử dụng?

Dựa vào lượng máu mất đi, Amalgam đó chắc hẳn cũng phải bị dính máu lên người, nhưng có lẽ nó đã lau máu đi bằng thảm; trên mặt sàn không hề có vết máu. Không rõ chính xác Amalgam đã rời khỏi phòng khách như thế nào. Theo giao câu hỏi đó cho Eleven và quan sát xung quanh để tìm kiếm manh mối về đời sống thường nhật của cặp vợ chồng.

Họ sống một cách bình lặng trong một gia đình với một vợ, một chồng, một con. Những bức ảnh được đặt trang trí trên mặt bếp sưởi và không gian xung quanh, với số lượng ảnh chụp đứa con họ đã mất và đứa con họ nhận nuôi gần ngang nhau. Hai đứa trẻ trông giống hệt nhau như hai anh em. Dù vậy, đáng tò mò thay, trong bếp không có chai sữa nào. Cả căn nhà cũng gọn gàng sạch sẽ đến mức không mà tin rằng ở đây có một đứa trẻ sơ sinh. Ngay cả nếu cả hai vợ chồng có ở nhà gần như cả ngày thì nơi đây vẫn quá sạch sẽ.

Theo quay trở lại hành lang thì vừa lúc gặp lại Eleven.

“Không có cửa sau,” cô báo cáo. “Nhưng cửa sổ nhà tắm được mở.”

“Được. Tới đó kiểm tra thôi.”

Theo đi đến nhà tắm để thăm dò, và quả thực là ô cửa sổ nhỏ tại đó đang mở. Dường như mục đích của nó là để thông khí; nó được đặt ở cao đến mức mà Eleven nhỏ nhắn không thể nào với tới được.

“…Chiều cao và bề rộng liệu có thành vấn đề với Amalgam không?” anh hỏi.

“Không,” Eleven trả lời ngay tắp lự. “Chúng có thể di chuyển dọc theo tường. Với cơ thể dẻo dai thì chúng thậm chí có thể thoát ra bên ngoài qua kẽ nứt. Nếu giả định rằng đối tượng trốn thoát qua cửa sổ này, chúng ta có thể tìm được đường thoát và xác nhận.”

Để cho chắc, anh kiểm tra phòng kho và thấy dụng cụ làm vườn và những món đồ trái mùa, cùng với các thùng nước và đồ ăn đóng lon khẩn cấp.

“Không có bỉm à?” Anh nhăn mặt. “Dù cho việc nó là một vật phẩm cần thiết.”

“Trong phòng giặt cũng không có loại vải nào có thể dùng cho tã. Có phải gia đình này nuôi dưỡng đứa trẻ trong khi biết rõ rằng nó không phải một đứa bé con người mà là một Amalgam đang tái tạo lại hình ảnh của một đứa trẻ sơ sinh?”

“Nếu không có bỉm thì khả năng cao là như thế. Không biết là họ cảm thấy ra sao.” Sau khi kiểm tra các vật phẩm trong tủ phòng kho, Theo cầm lấy một cái lọ có chứa dung dịch đặc màu xanh lục. Anh mở nắp ra, một mùi hương thảo mộc từ trong đó bốc lên. “Dường như đây là một loại dầu cao tự chế.”

“Trong lịch sử của họ không có dấu hiệu nào cho thấy rằng họ có kiến thức về cây thuốc. Có thể là họ đã tự học?” Eleven nhận xét.

“Chờ đã.” Anh quan sát cái lọ. “Trên đây có dấu vết của tem nhãn. Dù vậy, tôi chỉ đọc ra được vài chữ… Họ mua nó từ một cửa hàng thuốc với tên bắt đầu bằng Ki. Có phải loại thuốc bột này cũng là từ đó?”

“Đây là một phương thuốc dân gian. Bên trong không chứa tạp chất nguy hiểm nào.”

“Dù gì đi nữa, chúng ta sẽ coi chúng là chứng cứ. Nếu trong đây có bất kỳ vật phẩm bất hợp pháp nào thì chúng ta sẽ phải đau đầu lắm đấy.” Theo cất lọ dầu cao vào trong túi chứng cứ, sau đó cẩn thận lấy những cây khô và loại bột bí ẩn ra khỏi hộp và cất vào từng túi riêng. “Anh ta nói rằng các nạn nhân đến thăm nhà để thỏa luận về chuyện nhận nuôi. Khá là kì lạ khi gia đình Brouwer không trang trí nhà cửa để thể hiện rằng mình cũng đã nhận nuôi được một đứa trẻ.”

“Có thể các nạn nhân cho rằng nhà Brouwer đã dọn chúng đi trước khi mời họ tới? Hoặc họ có thể nghĩ rằng đồ cho em bé đều được đặt ở trên tầng.”

“Chà, có lẽ người ta sẽ chỉ thấy những gì mình muốn thấy mà thôi.” Theo nhún vai. “Lên tầng trên nào.”

“Có phải chúng ta sẽ để việc xác nhận lối thoát của Amalgam lại sau?” Eleven nhìn anh và hỏi.

“Ừm. Tôi muốn kiểm tra sự thật về cặp vợ chồng và quá khứ của họ trước. Cỗ Amalgam đó sẽ không lập tức di chuyển đến hiện trường tiếp theo ngay sau khi thực hiện chỉ thị giết người đâu.”

Họ đóng cửa phòng kho lại và leo cầu thang lên tầng hai.

“Theo như báo cáo thẩm vấn của Tobias,” Theo nói, “Brecht Brouwer nói dối với Price để khiến gã hợp tác trong thủ đoạn lừa đảo. Anh ấy không nói rằng mình là lao công hay nhân viên bảo trì; anh ấy nói rằng mình là một phần nhân sự nhận con nuôi của văn phòng phúc lợi. Anh ấy dường như cũng giấu việc lừa đảo của mình khỏi người vợ, Michelle. Anh ấy đang che giấu một thứ gì đó. Tôi đang thắc mắc liệu bí mật đó có phải là danh tính người chỉ huy thực sự của Amalgam hay không.”

“Price chỉ là một kẻ lừa đảo bị Brecht lợi dụng. Anh ta không biết gì cả. Giả sử người chỉ huy là một người có liên hệ đến cặp vợ chồng, chúng ta sẽ phải điều tra bất kỳ mối quan hệ không công khai nào, cùng với mọi họ hàng thân thích.”

“Đó là phần khó đấy. Vậy nếu Brecht đang che giấu gì đó thì chúng ta có thể tìm được thứ đó ở đâu? Dự đoán của tôi là ở trong phòng làm việc.”

“Vậy thì tôi đề cử một khả năng là phòng ngủ.”

Theo bắt đầu công việc điều tra của mình với căn phòng ở phía cuối hành lang: phòng làm việc. Với những cái giá để sách, một chiếc bàn và một cái ghế, nơi đâu dường như là không gian làm việc của người chồng. Trên bàn là nhiều những dụng cụ dành cho người thuận tay trái và một chiếc đồng hồ bị tháo nắp phía sau, cùng với những cuốn sổ tay và linh kiện máy móc trong hộc tủ. Kệ sách chứa những cuốn sách về cơ khí, cũng như những cuốn sách self-help nói về cách để đối mặt với nỗi buồn và trầm cảm, cho phép Theo thấy được cặp vợ chồng đã đau buồn đến nỗi nào khi mất đi đứa con của mình. Nhưng trong mắt anh, hầu hết những cuốn sách đó đều nhắm đến những người đóng vai trò hỗ trợ đối với những người bị trầm cảm.

“Có bất cứ ghi chép nào nói về việc người vợ, Michelle, bị mắc bệnh trầm cảm không?” anh hỏi trong khi lật qua từng trang sách.

“Trong hồ sơ y tế của cô ấy không có thông tin như vậy,” Eleven trả lời. “Xem xét đến những liều thuốc trong phòng kho, cô ấy đã chuyển sang dùng thuốc dân gian, vậy nên có khả năng họ không dùng đến bảo hiểm và do đó mà tình trạng sức khỏe này không được ghi chép lại.”

“Phải.” Anh chậm rãi gật đầu. “Vậy là chúng ta sẽ gặp trở ngại trong việc phát hiện ra điều đó nếu chỉ xét theo hồ sơ y tế.”

Họ lục soát kỹ phòng làm việc, nhưng tất cả những tài liệu mà họ tìm được đều chỉ liên quan đến công việc—những hợp đồng bảo hiểm thông thường cũng như hợp đồng kinh doanh. Không gì có thể dùng làm manh mối cho vụ án hiện tại. Tiền bạc trong phòng cũng chỉ được cất bên trong một vật đựng đơn giản thay vì két.

“…Vậy là không có gì,” Theo nhận xét. “Cuốn album ảnh được đặt trong phòng khách nên tôi cho rằng đây chỉ là không gian làm việc mà thôi. Tiền lương của anh ấy không đủ để phục vụ cho một lý do gì đó, anh ấy cũng không thể tìm được cách để kiếm thêm tiền nên mới phải đâm đầu vào việc lừa đảo.”

Trong thùng rác có chứa một số giấy tờ huy động vốn bị từ chối. Nhưng qua những gì mà Theo quan sát được từ ngôi nhà, lối sống của họ không hề quá xa xỉ so với thu nhập, anh cũng không tìm thấy bất kỳ món đồ đắt tiền nào.

“Anh ấy có công việc ổn định, thế nhưng họ vẫn cần tiền,” Theo nói. “Vậy thì họ đang đổ tiền vào thứ gì?”

“Ngoài ra, không hề có tài liệu nào có nhắc gì tới con trẻ,” Eleven lên tiếng. “Không hề nhắc tới con ruột chứ đừng nói là con nuôi.”

“Chúng ta có nên kiểm tra phòng ngủ không? Có thể họ đơn thuần chỉ tệ trong việc quản lý chi tiêu thôi.”

Theo bước đi về phía phòng ngủ, toàn bộ chuyện này theo anh không được hợp lý cho lắm. Eleven đi theo sau, cách anh một bước chân.

Dựa trên tình trạng của ga trải giường, chỉ có một người dùng chiếc giường đôi này. Nhưng bàn trang điểm và tủ quần áo dường như được sử dụng bởi cả hai vợ chồng, vậy nên có vẻ dường như họ có chia sẻ một vài phần của căn phòng.

Eleven tiếp cận chiếc giường và nhặt một sợi tóc trên gối lên. “Ngắn, nâu. Brecht là người sử dụng giường.”

“Hừm.” Theo nhìn quanh căn phòng. “Không có món đồ với nhãn hiệu sang trọng nổi bật hay đồng hồ đắt tiền nào. Lối sống của họ khá giản dị.”

Họ tìm kiếm mọi ngóc ngách của căn phòng nhưng không tìm được thứ gì tương tự như két sắt hay tủ tài liệu. Đồ trang sức được đặt trong ngăn kéo của bàn trang điểm, các món đồ giá trị được xếp gọn vào bên trong một chiếc hộp trong hộc tủ.

“Nhà Brouwer có thói quen đặt những món đồ quan trọng trong tầm nhìn của mình,” Eleven nhìn căn phòng một lượt rồi nói. “Chúng ta có thể giả định rằng họ cũng sẽ đặt những tài liệu quan trọng ở những nơi mà họ có thể nhìn thấy được.”

Xem xét đến ý kiến đó, Theo quan sát căn phòng thêm lần nữa. Mỹ phẩm, nước hoa, trang sức, đồ giá trị—tất cả đều được đặt ở không gian thoáng, có thể nhìn thấy được. Chìa khóa và khăn tay được đặt trên nóc của tủ đựng giày gần cửa vào nhà, những tấm ảnh trong phòng khách cũng được đặt ở nơi dễ thấy. Rõ ràng là họ có thói quen đó.

“Đúng vậy thật,” Theo nói. “Vậy manh mối chủ chốt ở đây là nơi mà họ dành ra nhiều thời gian nhất. Nếu chỉ có người chồng là ngủ ở trong phòng ngủ, vậy… người vợ sẽ ngủ ở trong phòng con mình cùng với đứa con nuôi?”

Theo vội vã mở cánh cửa với tấm bảng đề tên Em bé.

Căn phòng sáng sủa được trang hoàng trong màu phấn nhạt, với một tấm thảm mềm trên sàn, đồ chơi và sách tranh được đặt rải rác khắp nơi. Nhưng trong số chúng, không một món đồ nào có vẻ là đã được dùng qua. Một chiếc giường đơn được đặt bên cạnh chiếc cũi. Đúng như anh đã đoán, người vợ ngủ ở trong phòng của đứa con. Nhưng qua những gì mà anh nhìn nhận được, trên đó không có gì ngoài chăn ga trải giường và đồ chơi.

Anh đi về phía chiếc cũi. Chỉ những thanh song ở mặt kế bên giường là được cắt bởi một lưỡi dao hoặc gì đó.

“Họ có thể mua loại cũi với mặt bên kéo xuống được mà,” anh nói. “Vậy tại sao lại phải bỏ công ra tự cắt song cũi chứ?”

“Việc mẹ con dùng chung giường đôi sẽ hiệu quả hơn,” Eleven đều đều nói.

“Đúng.” Theo gật đầu. “Có thể nguyên do là sự gắn kết về mặt cảm xúc. Tôi chỉ có thể thấy dấu hiệu của việc đã qua sử dụng trên chiếc nôi.”

Anh lùi về sau và so sánh cái cúi với phần còn lại của căn phòng. Giường ngủ và đồ chơi đều vẫn còn mới. Tuy nhiên, cũi, giấy dán tường và đồ treo trên cũi là đã phai mòn. Ngoài ra, chiếc cũi là một món đồ chất lượng cao, trong khi giường lại chỉ là đồ đơn giản rẻ tiền.

“Đây có lẽ là chiếc cũi họ đã mua về khi đứa con của họ được sinh ra,” anh nhìn chằm chằm vào nó và nói. “Họ cảm thấy một sự gắn bó đối với nó và dùng nó làm giường cho đứa con nuôi của mình, thay vì để không hoặc bỏ nó đi sau khi đứa con của họ qua đời. Nhưng vì lý do gì đó, cả mẹ và con cần phải ngủ trong khi tiếp xúc gần với nhau, đến nỗi mà họ cần phải cắt bỏ song của cũi.”

“Theo lời khai của các nạn nhân lừa đảo, người vợ luôn luôn bế đứa trẻ trên tay. Ngay cả khi một nạn nhân bế Basil lên, Michelle vẫn ở ngay gần bên họ. Trong khi đó, người chồng có thể di chuyển tự do và độc lập. Khoảng cách với đứa trẻ—cỗ Amalgam—dường như chỉ cần thiết với Michelle.”

Theo tựa lưng vào cái cũi và khẽ thở dài. “Cặp vợ chồng bị Amalgam sát hại. Nghĩa là không ai trong số họ là người chỉ huy. Thế nhưng cỗ Amalgam ấy cần phải tiếp xúc gần với Michelle. Có ý tưởng gì không?”

“Tình huống chính xác vẫn chưa rõ ràng. Tuy vậy, có lẽ người vợ, Michelle, giấu lõi bên trong cơ thể mình,” Eleven nói rồi nằm xuống trên chiếc giường đơn. Cô vươn cánh tay mảnh khảnh của mình về phía chiếc cũi. “Nếu có lõi mang kích thước tương ứng với cơ thể của Amalgam, phần cơ thể không thể nào cách quá xa lõi được. Nếu giả định rằng lõi nằm trong cơ thể của người vợ, tôi có thể đưa ra phỏng đoán rằng tầm hoạt động khả thi nằm trong tầm với tay của người vợ.

“Hừm. Cô có cơ sở nào cho việc tính toán khoảng cách đó không?”

“Theo mặc định, lõi của Amalgam bằng một phần hai mươi trọng lượng cơ thể của nó,” cô giải thích trôi chảy. “Nếu chúng ta lấy trọng lượng trung bình của một con người ba tháng sau khi sinh và giả định cơ thể nặng sáu kilogram, trọng lượng lõi sẽ là 300 gram, đường kính ba xăng-ti-mét. Do đó, khoảng cách mà nó có thể di chuyển ra khỏi lõi sẽ rơi vào khoảng sáu mươi xăng-ti-mét. Con số này gần bằng chiều dài trung bình của cánh tay phụ nữ. Đó không phải một lời giải thích hợp lý cho việc hai mẹ con phải ở gần nhau sao?”

Theo bắt đầu cảm thấy đau đầu và giơ tay ra hiệu cho Eleven dừng lại. “Cảm ơn vì ý kiến của chuyên gia.”

“Anh hỏi về cơ sở cho việc tính toán nên tôi trình bày thôi.” Eleven nắm lấy tay Theo và để anh kéo cô dậy. Đôi mắt xám của cô nhìn thẳng vào anh. “Đây là toàn bộ những căn phòng chính. Hiện tại, chúng ta đã xác định được rằng cặp vợ chồng này sống chúng với một đứa con nuôi, biết rõ rằng nó là một Amalgam, và dù đời sống của họ khá ổn định, họ gặp phải vấn đề tài chính.”

“Nếu giả định rằng họ tìm đến các thủ đoạn lừa đảo để kiếm tiền,” Theo khẽ nói, “vậy thì thứ gì đã kích hoạt cỗ Amalgam và khiến nó giết cả hai vợ chồng? Nếu đó là nhiệm vụ của nó thì tại sao nó lại phải ngoan ngoãn giả vờ làm một đứa trẻ trong sáu tháng? Có phải nó có một cái mật mã hay cơ chế nào đó khiến cho nó trở nên kích động như hồi với Roremclad không?”

Đôi chân mày của anh nhăn lại. Càng điều tra về cặp vợ chồng được cho là bình thường này, anh càng biết ít về con người thật của họ.

“Ít nhất, chúng ta đã khám phá tất cả các căn phòng và thống nhất được một điều,” Eleven khẽ nói. “Quay về phòng khách thôi.”

“Phòng khách?” Anh quay sang nhìn cô. “Vì sao lại quay về đó?”

“Sau khi so sánh từng căn phòng một, chúng ta có thể đưa ra phỏng đoán rằng phòng ngủ và phòng của con là dành cho việc ngủ, phòng làm việc dùng để làm việc. Có nghĩa là cặp vợ chồng thường dành phần lớn thời gian ở phòng khách.”

“Vậy đó là nơi mà các tài liệu quan trọng sẽ được cất giấu à? Nhưng ở đó không có vẻ là có chỗ giấu đồ được.”

Tuy vậy, anh vẫn lắng nghe ý kiến của Eleven và quay về phòng khách.

Bộ ghế sofa, bàn cà phê và bàn trang trí được sắp xếp gọn gàng để đối diện với TV. Eleven ngồi xuống chiếc ghế được bọc nệm. Đường in của một chỗ ngồi lớn hơn đường in của cô đã được hằn vào lớp vải, minh chứng cho việc ai đó đã ngồi đây trong nhiều giờ liền. Trên bàn trang trí được phủ kín bởi đế lót ly, giấy báo, sách vở và các vật dụng phục vụ nhu cầu thư giãn khác. Từ vị trí của chiếc nôi, Theo đoán rằng hai vợ chồng ngồi đối diện nhau tại các vị trí khác nhau trên bộ ghế sofa, còn chiếc nôi thì được đặt ở giữa.

“…Vậy người chồng ngồi trên ghế dài,” anh lẩm bẩm.

“Nếu họ có thói quen đặt những vật phẩm quan trọng ở trong tầm nhìn của mình,” Eleven nói, “chúng ta có thể xác định được rằng hai vợ chồng cất các tài liệu quan trọng tại nơi mà có thể nhìn được từ ghế sofa.”

Vừa nói xong, cô bắt đầu kiểm tra chiếc ghế dài, khu vực ở dưới chân, giá để tạp chí gần đó và chiếc bàn trang trí.

Theo cũng khám xét phòng khác, kiểm tra xem từ chỗ ghế sofa thì mình có thể nhìn ra được bao xa. Ngoài những tấm ảnh trên bếp sưởi, hai vợ chồng này có thể giấu những món đồ quý giá ở đâu?

Anh kiểm tra từng cái giá và kệ sách trên tường, thậm chí là cả cây cảnh, và rồi anh đẩy cái cây sang một bên và chạm vào bức tường. Ngăn cách bởi phần khuôn, bức tường được chia ra thành hai nửa làm từ vật liệu khác nhau với vách ngăn cao cỡ ngang hông, với nửa bên dưới được làm từ gỗ sẫm màu. Những đường nối kéo dài xuống ván chân tường được cố ý để lộ ra ngoài như là một điểm nhấn. Nhưng tại một khu vực ở gần mặt bếp sưởi, phần gỗ có hơi lõm vào trong một chút.

Anh dùng nắm đấm gõ nhẹ vào tường. Âm thanh phát ra từ vị trí bị hõm mang âm điệu cao hơn so với phần còn lại; dễ thấy rằng đằng sau lớp gỗ này là một không gian rỗng. Nghĩ rằng hẳn phải có một cơ chế nào đó đứng sau, anh gõ vào những chỗ khác trên bức tường, và rồi một tấm gỗ ốp di chuyển với tiếng kịch.

Có một cái trục ở trung tâm của tấm ốp cho phép nó xoay được theo chiều dọc. Một cánh cửa ẩn mở ra, bên trong một cái khoang rỗng trên tường là một tấm phong bì dày.

“Eleven, tìm thấy rồi,” anh cất tiếng.

Khi anh lấy tấm phong bì ra thì Eleven đang kiểm tra bên dưới của chiếc bàn. Trông nó không có vẻ nguy hiểm nên anh trải những gì có bên trong lên trên bàn ăn.

Giấy khai sinh và chứng tử của đứa con Basil đã qua đời ba năm trước, một cuốn sổ tay sức khỏe mà hai vợ chồng đã sử dụng trong suốt kỳ thai sản, cùng với một số cuộn băng được đề nhãn Lớn lên. Nhưng thứ dày nhất trong tấm phong thư là một tập sách in dòng Hợp đồng hỗ trợ đặc biệt Jikunokagu.

“…Hợp đồng này khá là dày đấy. Cái ‘Jikunokagu’ ở đây là gì?” Theo nói thành tiếng suy nghĩ của mình.

Anh mở tập sách ra và thấy được nhiều trang giấy chi chít những dòng chữ nhỏ, rõ ràng là không để cho người ký hợp đồng đọc. Anh cố gắng phân tích, nhưng mắt anh lập tức bắt đầu cảm thấy nhức và không ngấm nổi một từ nào.

“Xin phép.” Eleven lấy tập sách khỏi tay anh và bắt đầu lật qua từng trang giấy với một tốc độ cố định. Ít lâu sau, cô đã lật đến trang chữ ký và trang cuối của hợp đồng. “Phân tích nội dung hoàn tất. Tôi sẽ bắt đầu tóm tắt.”

“Hả?” Anh há hốc miệng. “Ừm? Chỉ bằng việc lật qua lật lại như vậy thôi à?”

“Jikunokagu là một tổ chức cung cấp vật phẩm y tế và dịch vụ điều trị nằm ngoài phạm vi của pháp luật cho người ý hợp đồng, ngoài ra họ yêu cầu người ký hợp đồng giữ bí mật về những sản phẩm và dịch vụ, cũng như các tác dụng phụ có thể xảy ra. Sáu tháng trước, nhà Brouwer đã ký hợp đồng cùng với biểu mẫu đồng ý và mua về một sản phẩm tên là cơ thể thay thế từ Jikunokagu. Thông tin về việc sử dụng sản phẩm này cần đến lượng chi phí khổng lồ, mang theo tiềm năng gây nguy hiểm đến tính mạng và việc chúng là hàng cấm đều được che giấu khéo léo.”

“Nếu cô làm được đến vậy thì sao cô không dùng nổi một cái điện thoại?” Theo lẩm bẩm, hoàn toàn sốc trước bài tóm tắt trôi chảy của cô.

“Vấn đề nằm ở thiết bị di động, không phải ở tôi.” Eleven trả lại tập sách cho Theo với sắc mặt vô cảm.

Anh rút biểu mẫu đồng ý ra và nhìn vào chữ ký. “Người ký đại diện cho Jikunokagu là Gino Camicia. Brecht chỉ là người bảo chứng, trong khi người ký hợp đồng là Michelle? Và vật phẩm thay thế mà họ mua là… một tử cung?”

“Thông tin này tương ứng với vị trí xuất hiện vết thương trên thi thể,” Eleven nói.

“Khoan, khoan.” Theo nhăn mặt nhìn biểu mẫu. “Một thứ như vậy có khả thi không? Hiệu suất hoạt động suy giảm theo kích cỡ của lõi đúng không? Thế nhưng một cái tử cung… Vậy nghĩa là đứa trẻ không phải được nhận nuôi? Cô ấy thực sự đã sinh ra nó?”

“Có thể Amalgam này mô phỏng theo niêm mạc của tử cung và kết hợp với trứng đã được thụ tinh. Trong trường hợp đó, nó có thể tồn tại bên trong cơ thể mà không cần phải trải qua phẫu thuật ổ bụng, điều đó cũng giải thích cho lý do vì sao lõi có thể tồn tại bên trong cơ thể người mẹ.”

“Làm thế nào—? À không, đừng giải thích.” Theo ngăn Eleven lại trước khi cô kịp nói. Cô khép miệng lại rồi mở lại ra.

“Nói cách khác, thứ cô ấy mua về không phải một tử cung, mà là việc sinh sản,” cô nói.

“Không có ghi chép nào về việc cô ấy thăm khám tại một cơ sở y tế,” Theo nêu bật lên. “Chuyện này thì có khác gì với sinh nở thông thường?”

“Tôi phỏng đoán rằng quá trình này tương đồng với việc đẻ trứng. Nhau thai là không cần thiết đối với Amalgam, đồng thời cũng không có vấn đề gì trong việc thoát ra khỏi cơ thể không lâu sau khi cấy ghép. Khả năng cao nó được sinh ra không lâu sau khi cô ấy nhận ra rằng mình đang mang thai.”

Bắt đầu cảm thấy đau đầu, anh lấy tay nhăn trán trong khi tựa người vào bàn và thở dài. “Hiểu rồi. Thực ra là tôi không hiểu, nhưng tôi biết được rằng Amalgam có thể biến thành thứ mà chúng muốn nhắm tới. Lần này chúng ta có được thông tin di truyền nên chúng ta biết rằng nó đã mô phỏng theo đứa con ruột của họ, nhưng không phải là một bản sao chính xác.”

“Bởi về cơ bản thì nó đã có được một bản vẽ cho cơ thể con người, tôi cho rằng nó có thể mô phỏng được cả một đứa trẻ sơ sinh.”

“Hừm? Vậy thì nó sẽ lớn hơn như thế nào?”

Đứa con nuôi của nhà Brouwer được cho là khoảng ba tháng tuổi. Sau một thoáng im lặng, Theo ngẩng mặt lên, trong khi Eleven quan sát những tấm ảnh trên bếp sưởi. Những tấm ảnh chụp hai đứa trẻ khác nhau.

“Tôi giả thuyết rằng nó tham khảo quá trình phát triển của Basil Brouwer và sao chép hành vi để mô phỏng lại một đứa trẻ sơ sinh ba tháng tuổi,” cô nói. “Nhưng có thể do nó không thể thu thập được các mẫu hiệu quả để tái tạo lại sự phát triển trên ngưỡng thời gian đó, hoặc…”

“Hai vợ chồng không muốn nó lớn thêm.”

Theo liếc nhìn những bằng chứng trên bàn và không kìm được một tiếng thở dài. Chỉ có hai vợ chồng là biết được câu trả lời cho câu hỏi đó. Toàn bộ thủ đoạn lừa đảo này bắt đầu là vì họ kí vào bản hợp đồng này. Họ hẳn đã nhận ra là mình không thể nào chi trả được sau khi nhìn vào hóa đơn, vậy nên Brecht đã lợi dụng tên lừa đảo đã tấn công em gái mình. Hai vợ chồng này muốn có con đến mức vậy đấy: Họ sẵn sàng đi xa đến thế, trong khi không hay biết rằng mình sẽ bị sát hại trong vòng sáu tháng.

“Cô có tìm được điều kiện nào trong hợp đồng khiến cho Amalgam trở nên kích động không?” Theo hỏi. “Thứ gì đó tương tự như từ khóa Roremclad ấy?”

“Không có gì được nên lên cụ thể, nhưng tôi đang nghi ngờ rằng việc vi phạm các điều khoản bị cấm là điều kiện.” Eleven mở tập sách ra và chỉ tay vào mục tương ứng. “Trong hợp đồng chỉ ghi, ‘Trong trường hợp người ký kết vi phạm các điều khoản bị cấm, mặt hàng sẽ lập tức bị thu hồi và dịch vụ sẽ chấm dứt.’ Có bốn điều khoản bị cấm: các câu hỏi liên quan đến hợp đồng, tiết lộ thông tin hợp đồng cho bên thứ ba, tiêu hủy mặt hàng hợp đồng không cấp phép và thất bại thanh toán trong vòng sáu tháng hoặc hơn. Nhưng vấn đề nằm ở ‘các câu hỏi liên quan đến hợp đồng.’ Nội dung của nó quá mơ hồ và mở.”

“Nếu hai vợ chồng yêu cầu gia hạn thanh toán và hành vi này được cho là vi phạm điều khoản cấm, mặt hàng sẽ lập tức bị thu hồi. Còn về phương pháp để thu hồi… Nếu Amalgam thoát ra và sát hại người sử dụng để bịt miệng… Lệnh cấm có thể áp dụng với bất cứ hành vi nào. Khá nguy hiểm nhỉ?” Anh thu xếp những tờ giấy trên bàn và cất lại vào trong phong bì, thứ nặng đến nỗi khiến anh phải trùng xuống rõ thấy khi đứng dậy. “Tất cả những gì còn phải làm là lần theo dấu vết của Amalgam.”

“Phải.” Eleven gật đầu. “Chúng ta sẽ giả thuyết rằng nó trốn thoát qua cửa sổ phòng tắm và điều tra từ đó.”

Theo rời khỏi hiện trường vụ án và đi vòng ra sân sau, chân đạp lên những ngọn cỏ được cắt gọn gàng.

“Có khả năng Amalgam đó mô phỏng thành thứ khác để trốn thoát không?” anh hỏi Eleven.

“Nó đã thay đổi hình dạng nhiều lần—sản phẩm thay thế, đứa trẻ sơ sinh, biến thể đã giết hai vợ chồng. Dựa trên năng suất dự tính của lõi, tôi cho rằng nó đã đạt đến giới hạn. Nó khả năng cao đã trốn thoát trong dạng cuối cùng.”

“Hừm. Vậy khi lõi nhỏ hơn thì việc tiến tới giới hạn cũng sớm hơn.”

“Phải. Nó có liên hệ đến chức năng tải lệnh—với một Amalgam lõi nhỏ thì có khá ít việc mà nó có thể làm với sức mạnh thể chất của nó.”

“Cảm ơn vì đã giải thích đơn giản.”

Theo đi dọc theo sân sau. Cánh cửa sổ nhô ra ở phía bên ngoài đang mở. Eleven cẩn thận đến gần nó và cúi người xuống.

“…Nó chui ra khỏi cửa sổ và rơi thẳng xuống đất,” cô nêu lên quan sát của mình. “Phần cỏ ở đây bị dẹp xuống trong một bán kính cố định, trên mặt đất cũng có dấu vết di chuyển. Nó đã bò đi… theo một đường thẳng.”

Cô bắt đầu lặng lẽ bước đi, mở cổng sau, đi theo đoạn đường núi với những bước chân đầy quyết đoán, trong khi đôi mắt cô tập trung vào mặt đất.

“…Cô thực sự có thể lần theo dấu di chuyển của một đứa trẻ như thế này à?” Theo hoài nghi hỏi. “Thậm chí còn không có dấu chân nào cả.”

“Bởi nó bò nên có khá nhiều dấu vết còn sót lại, ví dụ như cành cây gãy hoặc những miếng đất bị di chuyển.”

Thi thoảng, Eleven lại cúi người xuống, áp mặt gần sát đất và lần theo dấu vết của Amalgam trong tư thế đó. Trông cô ấy giống như là một con chó săn, rất phù hợp với cái tên Hound.

Cuối cùng, họ đi đến một con dốc lớn đến mức ngay cả người lớn cũng khó mà an toàn trèo xuống được. Con dốc đột ngột này dường như vốn không thuộc một phần của địa hình này, mà là được tạo ra do đất lở trong một cơn mưa lớn. Eleven uyển chuyển đáp xuống và quan sát mặt đất kỹ càng rồi ngẩng đầu lên nhìn Theo.

“Dường như nó đã ngã xuống đây và bị thương,” cô báo cáo. “Mặt đất bị lõm xuống, dấu vết bò có sự bất thường.”

“Ngã thôi à? Chắc chắn là nó sẽ hồi phục được thôi.”

“Có thể chỉ đơn thuần là một cú ngã, nhưng trên dấu vết xuất hiện sự bất thường lớn. Nó đã không hồi phục.”

Con đường núi này không hề được bảo trì. Có nhiều con dốc đột ngột, nhiều đoạn còn bị cây đổ chắn đường, khiến cho đây là một con đường mà ngay cả người lớn cũng phải gặp khó khăn trong việc đi lại và chắc chắn không phù hợp với cơ thể của một đứa trẻ sơ sinh. Tuy vậy, cỗ Amalgam vẫn tiếp tục di chuyển về phía trước, và cuối cùng, dấu vết của nó dẫn ra khỏi ngọn núi.

Theo nhìn chăm chăm trong đôi chút bất ngờ khi con đường bất chợt mở rộng ra trước mắt anh. Tại đó là một bãi biển nhỏ đầy cát tuyệt đẹp với từng gợn sóng gõ nhẹ vào bờ, vài bãi đá và một tấm biển ghi dòng chữ Cấm bơi. Anh ngoái đầu lại nhìn ngọn núi phía sau. Từ vị trí này, anh không còn thấy được căn nhà của gia đình Brouwer nữa.

“Nó không thể nào đi ra ngoài biển được,” anh nói. “Từ căn nhà ra đây cũng phải mất khoảng nửa tiếng đấy.”

“Dường như đối với Amalgam này thì khoảng thời gian cần phải bỏ ra còn dài hơn.”

“Chà, bò như một đứa trẻ thì cũng chẳng thể nào mà nhanh được.”

Eleven bước về phía trước, để lại dấu chân trên mặt đất kế bên một cái rãnh quanh co dẫn ra từ đoạn đường núi. Cái rãnh hẹp dần cho đến khi nó chỉ còn là một đường kẻ mỏng và dừng lại ở mép nước.

Anh nhìn thấy thứ giống như một con búp bê nhựa bị nhiệt độ làm cho biến dạng đang nằm lộ ra cho sóng vỗ vào. Phần đầu của nó chỉ là một cái miệng với chút tóc, còn phần thân thì dính đầy máu và bùn. Một chân của nó là một lưỡi dao mang hình dạng lưỡi hái, trong khi cần còn lại thì vẫn còn đi một cái giày cho em bé. Nó không còn di chuyển. Đây là một cái xác Amalgam.

Eleven nhấc nó lên bằng cả hai tay. Những ngón tay trắng nõn của cô lau đất đi khỏi phần thịt nát và để lộ ra một ánh sáng đỏ. Nó thực sự là một cái lõi nhỏ.

Theo nhìn chằm chằm vào đó trong do dự. “Nói sao đây nhỉ? Nó— Thứ đó có nguy hiểm không?”

“An toàn rồi,” Eleven trấn an. “Nó đã vượt quá giới hạn vận hành và không còn có thể di chuyển.”

“Chà… vậy thì tốt. Chúng ta sẽ kiểm tra vết cắn ở trên vết thương và lấy mẫu máu. Phòng thí nghiệm có thể lo liệu phần còn lại. Dù không còn có thể di chuyển nhưng nó vẫn không phải thứ mà cục có thể lo liệu được.”

Anh nhìn xuống tay của Eleven. Cơ thể bé nhỏ của cỗ Amalgam vẫn quá lớn với đôi tay mảnh khảnh của cô. Mặc cho sự lấm lem bẩn thỉu và đã biến đổi đôi phần, vẫn còn đó là dấu vết của một đứa trẻ sơ sinh chỉ vài tháng tuổi, và điều đó vì một lý do gì đó khiến cho Theo cảm thấy đượm buồn.

“…Tại sao nó lại phải cố hết sức vượt qua cả ngọn núi chứ? Nếu Amalgam không có cảm xúc thì điều gì đã đẩy nó đến bước đường này?” anh hỏi.

“Tôi sẽ kiểm tra thủ tục của có. Vui lòng đợi trong chốc lát,” Eleven trả lời ngắn gọn rồi chạm tay vào cái lõi của cỗ Amalgam.

Ánh sáng đỏ chiếu lên không trung, những hình khối bắt đầu chạy dọc quanh nó. Nhưng chuyển động mau chóng dừng lại, và hiện lên trên đó là hai khối cầu được nối với nhau bởi một đường thẳng đi kèm với một ký hiệu.

“Triển khai hoàn tất,” cô nói. “Qua phân tích, tôi có thể thấy rõ rằng khác với một Amalgam thông thường với ba trụ cột chức năng bao gồm hồi phục, tự cung cấp và thực hiện lệnh, Amalgam này bị loại đi chức năng hồi phục. Các dòng ký tự được đọc là ‘make’ và ‘many’ được chèn vào, nhưng do sự thiếu đi ý nghĩa trong những dòng đó, khả năng phán quyết của Amalgam này không được tốt và nó không thể phát hiện được giới hạn vận hành của bản thân.”

“Nghĩa là một số chức năng bị cắt giảm đi để khiến cho lõi được nhỏ hơn?”

“Đây chỉ là giả thuyết, khả năng cao đây là kết quả của việc thay đổi thủ tục mà không có kiến thức đầy đủ, cái lõi đơn thuần chỉ trở nên nhỏ hơn trong khâu sản xuất. Hoặc đây có thể là một thí nghiệm, như trường hợp với Roremclad, và người thực hiện những thay đổi này tình cờ nhận ra rằng chúng có thể biến trở thành sản phẩm. Dù gì đi nữa, có thể chắc chắn rằng người đó đang ở trong một môi trường cho phép họ nghiên cứu lõi và bán các lõi sản xuất được cho công chúng.”

“…Vậy có thể còn tệ hơn Roremclad à? Còn manh mối nào khác không?”

Eleven hướng ánh mắt từ cái lõi sang Theo. “Có một báo cáo có liên quan đến công việc điều tra. Amalgam này được chỉ thị quay trở lại vị trí của một người cụ thể sau khi thực hiện mệnh lệnh. Nó đã kiệt sức trong quá trình di chuyển đến vị trí của người này.”

“…Một người?” Anh nhăn mặt. “Một con người không thể nào chuyển đổi thành những con số như tọa độ được. Mà con người đó được chỉ định cụ thể như thế nào?”

“Thông tin gen của một cá nhân được nhập vào trong. Quá trình này không quá khó để thực hiện. Chỉ cần một sợi tóc hoặc giọt máu là đủ. Nếu thông tin gen có thể được chiết xuất tại phòng thí nghiệm, chúng ta có thể sử dụng nó trong việc điều tra.”

“Vậy chúng ta khám phá được mã gen của đối tượng trước cả khi biết được tên tuổi hay ngoại hình của người đó à?” Theo thở dài và quay ra nhìn ngắm đại dương. Từng con sóng vỗ nhẹ lên bờ biển. “Nếu cỗ Amalgam di chuyển thẳng từ ngôi nhà đến chỗ một người nào đó thì khá chắc là người đó đã cao chạy xa bay từ lâu rồi. Chúng ta vẫn không có đủ dữ liệu để xác định chính xác được vị trí của người đó.”

“Cuộc điều tra này đã mang lại nhiều kết quả tốt,” Eleven điềm tĩnh nói. “Hãy tiếp tục quá trình điều tra từ một góc độ khác.”

“Ừ.” Theo bắt đầu đi dọc theo bãi biển.

Họ hẳn sẽ có thể đi theo đường vòng và quay về đường chính. Eleven bước đi trên cát đến kế bên anh.

“May là thứ này đã cạn năng lượng ở đây,” Theo nói tiếp. “Khu vực này thường xuyên xảy ra ngập lụt nên bị người dân địa phương tránh xa. Chúng ta sẽ gặp rắc rối lớn nếu ai đó nhặt được thứ này trước.”

“Việc tồn tại một người chủ động nhặt một thứ trông như thế này cũng sẽ là một vấn đề khác.”

“Chắc chắn rồi,” Theo lẩm bẩm. “Vậy ra đây là những gì xảy ra với Amalgam khi chúng vượt quá giới hạn vận hành.”

Vào cuộc khủng bố quy mô lớn hồi mùa xuân, Eleven đã bị thiêu đốt ở trong lò thiêu cùng với Amalgam đối địch. Cô đã nói với Theo rằng mình sẽ bỏ qua giới hạn vận hành để có thể trở nên hữu ích đối với anh. Thông thường, các Amalgam sẽ hoạt động sao cho mình không vượt quá ngưỡng đó, thế nhưng—

“Theo, có phải anh đang ‘lo lắng’?”

Anh chợt ngẩng mặt lên. Một đôi mắt xám đang nhìn anh một cách chân thành.

“Chúng ta đã thu hồi được Amalgam bỏ trốn và thu thập được manh mối mới cho vụ lừa đảo và vụ án mạng,” Eleven nói. “Công cuộc điều tra đang tiến triển thuận lợi. ‘Lo lắng’ không phải cảm xúc phù hợp.”

“Ồ. Chà, đúng vậy. Điều tra đang thuận lợi. Nhưng….” Trong khi đang cố gắng lựa từ để nói, anh nhận ra rằng mình đang khua tay phải giữa không trung vì lý do nào đó. Anh liền cất tay lại vào trong túi áo. “Tôi chỉ đang thắc mắc rằng có phải đây là điều đã xảy ra với cô. Lúc ở trong lò thiêu.”

“Dù cơ thể vật lý của tôi cũng bị mất đi, tôi không trở nên hỏng hóc như thế này,” cô trả lời với giọng đều đều.

“Đó chỉ là một dòng suy nghĩ, một giả thiết thôi.”

Đúng như anh nghĩ, anh không thể nào hoàn toàn bày tỏ những gì có trong đầu mình. Anh đành mỉm cười chua chát đáp lại cô. Dù trực giác của cô khá tốt, khả năng nhận thức của cô lại khác biệt rất nhiều so với con người. Anh lắng nghe âm thanh êm dịu của từng nhịp tiếng bước chân trên cát.

“Hound chúng tôi cũng có một hồi kết của riêng mình,” cô nói. “Nhưng đó là giai đoạn cuối. Tôi sẽ phải chấp nhận cái kết của mình trong một cơ sở tiêu hủy chuyên dụng. Việc tôi ở trong tình trạng như thế này ở trước mặt anh là rất khó xảy ra.”

“…Ngay cả nếu cô mất đi hoàn toàn cơ thể và chỉ còn lại lõi?”

“Giống như lúc mà anh đã đào tôi lên từ dưới cát, tôi sẽ quay trở lại hình dạng mong muốn của anh.”

Những lời của cô giống như một sự động viên, ánh mắt của anh dịu đi trong thoáng chốc. Nhưng rồi anh nhanh chóng nghĩ lại và véo vào khuôn mặt của cô.

“Tốt nhất là đừng có để hoàn toàn mất đi cơ thể đấy nhé?” anh nói. “Cô phải toàn vẹn trở về, vậy nên đừng bao giờ làm một chuyện như thế nữa.”

“Đã rõ. Tôi sẽ cập nhật xu hướng hành vi của mình. Sự ‘lo lắng’ đã kết thúc chưa?” Eleven ngẩng đầu lên và nhìn anh qua lớp tóc mái rối bù của mình. Đôi mắt tĩnh lặng của cô không hề cho thấy sự bất ngờ trước câu nói của anh.

Anh thở dài và nhẹ nhàng vò tóc cô. “Ở với cô thì tôi còn không có thời gian để mà lo lắng nữa.”

“Theo số liệu thống kế, một điều tra viên có ít thời gian rảnh hơn so với một công dân trung bình.”

“Cô—? Thôi, bỏ đi. Thật sự đấy, cô đúng là kỳ quặc.”

Cô ấy lẽ ra phải là một vũ khí với hiệu suất cao, vậy tại sao đôi lúc cô ấy lại có vẻ ngốc nghếch đến vô phương cứu chữa như vậy? Theo mỉm cười gượng gạo và đi về phía trước.

Khi Emma đi vào nhà xác, cô nói lời chào với một nhân viên khám nghiệm đang đi ra ngoài và tiến về phía cuối phòng. Rocky đang nhìn chằm chằm vào hai thi thể với nét mặt cứng đanh, nhưng má ông khẽ nhếch lên thành một nụ cười khi nhận ra Emma.

“Chà chà, không phải cô nàng nam tính đây sao,” ông nói. “Điều tra thế nào rồi?”

“Ngõ cụt rồi.” Cô thở dài. “Vậy nên tôi đang đợi những người khác trở về. Nhưng chẳng biết phải đợi mất bao lâu nữa nên tôi nghĩ rằng mình sẽ đến kiểm tra thi thể thêm lần nữa. Ông làm xong khám nghiệm pháp y rồi đúng không? Có gì bất thường không?”

Rocky lắc đầu rồi lật tấm vải che thi thể lên, để lộ ra gương mặt của vợ chồng nhà Brouwer.

“Từ vị trí của các thi thể tại hiện trường, tôi tin rằng người chồng đã bị giết đầu tiên trong khi cố gắng bảo vệ người vợ khỏi đứa bé trong nôi. Đứa bé cắn vào mắt cá chân người vợ trước khi cô ấy có thể chạy và làm cô ấy ngã xuống. Dường như trong khi đó thì đầu người vợ bị đập vào bàn cà phê. Sau đó đứa bé gặm nhấm bụng của người vợ trong khi cô ấy vẫn còn sống, cứa cổ và kết liễu cô ấy.”

“…Thật tàn nhẫn,” Emma trả lời một cách khô khan.

“Ừm,” Rocky đồng tình. “Dù bản chất thật của nó có là gì, họ chắc chắn không bao giờ ngờ được là mình sẽ bị giết bởi chính đứa trẻ mà mình nuôi nấng.” Ông ấy thở dài và kéo tấm vải che lại lên hai thi thể. “Cả hai đều hoàn toàn bình thường. Các cơ quan nội tạng còn lại đều vẫn còn ở trạng thái tốt, ngoài ra tôi cũng đã kiểm tra mẫu máu và bên trong dạ dày. Bởi cô là một phù thủy nên tôi có một câu đố dành cho cô đây. Nhìn vào những nguyên liệu này thì cô có nghĩ đến thứ gì không?”

Ông ấy cầm một tờ giấy lên từ khay máy in.

“Các tạp chất mà tôi tìm thấy trong cơ thể người vợ. Gừng, mizuohaka, hạt hoa nhài tây, cỏ amadake, rễ cây mẫu đơn, mật gấu lười, gan lừa sắt và đá apatit. Với tất cả những vật liệu này thì cô sẽ dùng cho mục đích gì?”

“Hừm…” Emma nhăn mặt. “Mật gấu lười dường như mang tác dụng an thần. Sau đó thì tôi không biết.”

“Hả?” Rocky nhướng một bên chân mày. “Không phải là cô từng học qua môn dược lý phép thuật học rồi à?”

Cô nhún vai. “Đó không phải là chuyên ngành của tôi. Vậy chúng dùng cho loại thuốc gì?”

“Đây là nguyên liệu cho thuốc arkichyl. Thường được dùng để làm ổn định tinh thần hoặc điều trị các triệu chứng mệt mỏi phát sinh từ nguyên nhân không rõ. Thường được kê đơn cùng với nhiều loại thuốc khác cho các bệnh lý phụ khoa. Nhưng việc sở hữu mật gấu lười và gan lừa sắt bị hạn chế bởi pháp luật. Ngay cả một người làm nghề dược cũng cần đến một giấy phép đặc biệt để kê khai chúng.”

Emma nhanh chóng viết những thông tin này vào sổ tay của mình. “Một dược sĩ có giấy phép sẽ dễ dàng bị truy vết. Cảm ơn, Rocky. Thông tin này có thể sẽ rất hữu ích.”

“Ừm. Cô đã liên lạc về cho gia đình nạn nhân không?” ông hỏi.

“Vẫn chưa. Cha mẹ của cả hai đều đã chết, và dù Brecht được cho là có một người em gái tên Anna, tôi không thể nào nối máy với cô ấy được. Tôi đang tính đi đến nơi ở của cô ấy.”

“Nhanh đi. Nhà xác quá lạnh lẽo để cho hai người này ngủ ở đây.”

Rocky chạm nhẹ lên tấm vải phủ che thi thể. Cử chỉ của ông ấy trông thật dịu dàng.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận