Quyển 2: Người theo đuổi ánh sáng
Chương 1: Người xứ khác
2 Bình luận - Độ dài: 2,393 từ - Cập nhật:
"Vì ngươi vốn là cát bụi, sau cùng cũng sẽ trở về với cát bụi." Trích từ 'Kinh Thánh, Sáng thế ký 3:19'
---
Bức tường thành đồ sộ với màu trắng xám nhạt, cao khoảng ba mét, hiện ra trước mắt Lumian, trải dài đến tận chân trời.
Một dòng dài những cỗ xe ngựa chen chúc chờ qua cổng thành, có cỗ bốn chỗ, có xe mui trần, có xe đôi lẫn xe chở hàng.
Các nhân viên thu thuế trong đồng phục xanh cùng cảnh sát mặc áo sơ mi trắng, áo gi-lê đen cẩn thận kiểm tra từng cỗ xe. Thỉnh thoảng, họ yêu cầu giấy tờ tùy thân hoặc ra lệnh cho người qua đường mở va-li của mình.
Lumian, tay nắm chặt chiếc va-li màu nâu, đảo mắt quan sát tình hình, thỉnh thoảng liếc mắt dò xét, tìm cách né trạm kiểm soát.
Không lâu sau, một người đàn ông chú ý đến hành vi của cậu và tiến lại gần.
"Có chuyện gì thế, bạn tôi? Trông cậu có vẻ bất an." Người đàn ông này thấp hơn Lumian một chút nhưng lại to gấp đôi. Hai má ông ta tròn trịa khiến đôi mắt xanh dương của ông trông như những hạt đậu nhỏ.
Khi người đàn ông này đến gần, mùi mồ hôi hòa lẫn với nước hoa rẻ tiền xộc vào mũi cậu, khiến cậu phải nhăn mũi vì khó chịu.
Lumian chỉ tay về phía cổng thành, bối rối hỏi:
"Chuyện này là sao vậy? Họ đang truy lùng tên tội phạm nào à? Nhưng tại sao lại chỉ kiểm tra những người vào Trier mà không kiểm những người rời khỏi thế?"
Người đàn ông tóc vàng rối bù, mặc chiếc áo sơ mi xanh rộng thùng thình, nhìn Lumian một lượt.
"Bạn tôi ơi, cậu đến từ một thành phố hay làng nhỏ nào phải không?"
Thấy Lumian gật đầu, ông ta thở dài giải thích:
"Họ đang thu thuế! Thuế quan đấy!" [note67228]
"Thuế quan để vào Trier sao?" Lumian hỏi lại.
Người đàn ông gật đầu.
"Chính xác. Bức tường này bao quanh toàn bộ Trier. Có 54 cổng, mỗi cổng đều có nhân viên thu thuế và cảnh sát túc trực. Họ cũng truy bắt tội phạm bị truy nã nữa."
"Hàng hóa nào cũng bị đánh thuế à?" Lumian tò mò hỏi.
Người đàn ông chạm vào chiếc áo vải bố xanh của mình và trả lời:
"Gần như thế, chỉ có ngũ cốc và bột mì là được miễn thuế."
"Trước đây chúng cũng bị đánh thuế, nhưng sau cuộc chiến vài năm trước, giá bánh mì ở Trier tăng vọt, dẫn đến bạo loạn và biểu tình. Cuối cùng, chính phủ đã phải bãi bỏ thuế quan đối với toàn bộ thực phẩm."
"Ài, cậu thử nói xem tại sao mấy tên sâu rượu lại không biểu tình như thế nhỉ! Hiện tại thì rượu mạnh, rượu vang và rượu sâm panh đều đang bị đánh thuế cao nhất. Nhiều người kéo nhau đến các quán rượu nhỏ ở ngoại ô vào cuối tuần để uống rượu không bị đánh thuế. Họ gọi đó là 'rượu ngoại thành'."
"Đúng thật..." Lumian gật gù.
Người đàn ông nhìn quanh rồi hạ giọng:
"Nếu cậu muốn tránh thuế quan, tôi có thể giúp cậu vào thành phố. Chỉ cần trả tôi một khoản phí nhỏ thôi."
"Ý ông là hối lộ bọn họ sao?" Lumian hất cằm về phía nhân viên thu thuế và cảnh sát gần cổng thành.
Người đàn ông kia cười khẩy:
"Bọn chúng tham còn hơn con voi đói nữa. Tôi sẽ chỉ cậu một lối tắt để vào thành phố mà không phải qua trạm kiểm soát."
"Nhưng Trier chẳng phải bị tường bao quanh hoàn toàn sao?" Lumian không giấu được vẻ nghi hoặc.
Người đàn ông này cười tủm tỉm.
"Cậu sẽ sớm biết thôi."
Sau đó ông ta trêu chọc, "Thưa quý ngài, ngài có cần tôi phục vụ không?"
Lumian cân nhắc một lúc rồi hỏi:
"Bao nhiêu?"
"Ba verl d’or." người đàn ông đáp với nụ cười thân thiện. "Nếu cậu đồng ý, chúng ta có thể đi ngay. Cậu có thể trả khi đã vào được thành phố."
"Được rồi." Lumian chỉnh lại chiếc mũ rộng vành màu đen, nhấc va-li màu nâu lên, rồi theo người đàn ông mập này rời khỏi cổng thành.
Mười lăm phút sau, họ đến một ngọn đồi phủ đầy cây cỏ và đất, với những viên đá trắng xám nhô ra.
Khắp nơi là giàn giáo, gỗ đỡ mục nát và nhiều hố lớn nhỏ. Có vẻ như đây là một mỏ đá bị bỏ hoang.
Người đàn ông mập dẫn Lumian đi qua đống đá lộn xộn đến lối vào một đường hầm.
"Đây là lối tắt sao?" Lumian thận trọng hỏi.
Người đàn ông mặc áo xanh cười phá lên.
"Cậu quả thực chả biết gì về Trier cả."
"Cậu từng nghe câu nói rằng Trier dưới lòng đất còn lớn hơn cả Trier trên mặt đất hay chưa?"
"Chưa." Lumian lắc đầu.
Người đàn ông giải thích:
"Trier trước đây nhỏ hơn nhiều. Nó được bao quanh bởi các mỏ đá, nơi cung cấp vật liệu xây dựng cho thành phố. Khi dân số tăng lên, thành phố buộc phải mở rộng, nên các mỏ đá này đã trở thành một phần của thành phố. Kết quả là dưới lòng đất trở nên chi chít mấy cái lỗ trống và đường hầm."
"Cộng thêm phần Trier bị sụp xuống lòng đất trong Kỷ đệ tứ, cộng với hệ thống cống ngầm, tàu điện ngầm và ống dẫn khí do chính phủ lắp đặt, cậu nghĩ tất cả những thứ này hợp lại có lớn hơn trên mặt đất không?"
"Vậy là ông định đưa tôi vào thành phố thông qua Trier dưới lòng đất sao?" Lumian mở to mắt, giờ thì cậu đã hiểu.
"Đúng thế." Người đàn ông quay người, khom lưng và bước vào hầm mỏ. Ông ta hỏi một cách tự nhiên, "Tôi nên gọi cậu là gì nhỉ?"
"Ciel." Lumian vén mái tóc vàng sang hai bên thái dương. "Còn ông?"
"Cứ gọi tôi là Ramayes." Người đàn ông vạm vỡ lục lọi trong một đống đá ở góc mỏ và lấy ra một chiếc đèn lồng màu đen sắt.
Chiếc đèn lồng làm từ kim loại, hoen gỉ, có hình trụ, phần trên nhỏ hơn phần dưới một chút. Phần đáy được bọc bằng cao su đen.
Tại điểm giao nhau giữa hai phần hình trụ, một miếng kim loại hình loa kèn được gắn vào, nó được đánh bóng rất kỹ, nhưng vẫn còn trên đó vài vết gỉ.
Ramayes lấy ra một hộp diêm, loay hoay một lúc, rồi một ngọn lửa màu cam pha chút xanh bùng lên từ chỗ miếng kim loại, chiếu sáng sâu vào trong hầm mỏ.
"Đây là cái gì vậy?" Lumian tò mò hỏi.
Cầm chiếc đèn, Ramayes đi sâu vào lòng đất, vừa đi vừa nói chuyện.
"Đèn Cacbua."
"Thứ này do Hiệp hội Hang động phát minh ra. Có rất nhiều thợ mỏ sử dụng nó. Tôi cũng chả biết tại sao mà nó phát sáng được. Nhưng tôi biết rằng chỉ cần cho vào một ít đá và nước, giữ chúng tách biệt với nhau ở trên và dưới, khi cần thì ấn vào đây và châm lửa là được."
Là do Cacbua phản ứng với nước tạo ra acetylen, mà acetylen khi cháy thì sẽ phát sáng nhỉ? Lumian nhớ lại kiến thức hóa học mà cậu đã học vài tháng trước.
Cậu im lặng một lúc khi đi theo Ramayes qua đường hầm mỏ đã bỏ hoang. Sau đó, cậu mới hỏi tiếp, "Hiệp hội Hang động là gì?"
"Hiệp hội Hang động Trier. Được thành lập bởi một đám người đam mê khám phá hang động, vậy mà ngày nay họ còn xía mũi cả vào chuyện mấy cái mỏ quặng." Ramayes nhìn Lumian, giờ đã đi ngang hàng với ông, và mỉm cười hỏi, "Tại sao cậu không đi tàu hơi nước vào Trier vậy? An ninh ở ga tàu không nghiêm ngặt lắm, chỉ thỉnh hoảng họ nổi hứng thì mới kiểm tra thôi."
Lumian hồi tưởng và trả lời, "Tôi chỉ là muốn trải nghiệm chút lãng mạn còn sót lại từ thời kỳ cổ điển."
"Xe ngựa chuyển phát sao?" Ramayes cười lớn. "Cái đó còn đắt hơn cả tàu hơi nước đấy. Tôi nghe giọng cậu thì chắc cậu từ vùng Reem hay Riston. Chuyến đi từ miền nam tới Trier chắc tốn khoảng 120 verl d'or, đúng không? Và còn mất tận bốn ngày rưỡi cơ! Nếu đi tàu hơi nước, giá ghế hạng ba chỉ chưa đến 50 verl d'or mà chưa đầy 20 tiếng là đến nơi rồi. Cái gì mà `chút lãng mạn còn sót lại từ thời kỳ cổ điển` cơ chứ? Toàn là lừa mấy tên nhà quê mới lên như cậu thôi, chắc cậu cũng tốn kha khá rồi phải không?"
Lumian thành thật đáp, "Cũng tốn kha khá rồi. Giờ tôi chỉ còn lại 267 verl d'or."
Ramayes liếc nhìn cậu lần nữa rồi quay mặt đi.
"Phí phạm thật đấy..."
Cầm đèn cacbua, ông ta bước qua một khung vòm và rẽ vào một lối đi khác, ánh sáng cam vàng từ ngọn lửa chiếu sáng phía trước.
Lumian ngước nhìn và nhận ra ở trên cao là những tảng đá đang chìm trong bóng tối, được phủ đầy rêu và thỉnh thoảng rỉ nước.
Con đường dưới chân thì lỗ chỗ, còn hai bên là những cột đá chống đỡ trần hang.
Giữa các cột đá là những tảng đá lẫn vật liệu chất thành đống, tạo thành một 'con đường' đủ rộng cho sáu đến bảy người đi song song.
Dưới ánh sáng của đèn cacbua, một tấm biển thép được gắn vào cột đá hiện lên trước mắt. Trên đó khắc dòng chữ Intis: "Đường Bên Phải."
"Ở đây cũng có tên đường à?" Lumian thắc mắc.
Ramayes, tay cầm đèn, cười và đáp, "Tôi chẳng phải đã nói với cậu rồi sao, đây là Trier dưới lòng đất."
"Thực ra, nó được xây dựng từ hàng chục năm trước trong quá trình cải tạo thành phố. Thời đó, mấy tên cầm quyền cho rằng khu vực dưới lòng đất quá hỗn loạn, chẳng khác gì một mê cung. Dù là bạo loạn, giết người, buôn lậu hay tà giáo đều tụ tập ở đây, nên họ nhận ra cần phải làm gì đó. Thêm nữa, nhiều căn nhà đã sụp đổ và chìm xuống vì các mỏ đá ngầm, cho nên việc gia cố là cần thiết. Vì thế, tòa thị chính đã mất gần một thập kỷ để sửa chữa cột đá, xây nền móng, và khai thông kết nối các mỏ đá, tàn tích, hầm mộ và cống ngầm, những thứ vốn tách biệt với nhau."
"Để tránh công nhân bị lạc, các con phố dưới lòng đất được đặt tên tương ứng với những con phố phía trên trong quá trình cải tạo. Đường, quảng trường và ngõ hẻm đều được phục dựng ở dưới này, sau đó treo biển tên lên, đánh dấu từng con phố. Nếu sau này cần sửa chữa, chỉ cần báo tên là được."
"Nói cách khác," Lumian chỉ lên phía trên. "'Đường Bên Phải' thật ở ngay phía trên chúng ta sao?"
"Đúng vậy." Ramayes tiếp tục đi. "Đây là Trier dưới lòng đất. À, phía trước có một bức tường chống buôn lậu. Cảnh sát mỏ thường tuần tra khu vực này, nhưng đừng lo, tôi sẽ dẫn cậu qua một đường hầm nhỏ. Ha ha, `đám cầm quyền đội cổ áo giả, miệng thì toàn sủa bậy kia` cứ tưởng rằng có thể quản lý Trier dưới lòng đất giống như bên trên, nhưng mấy chỗ ra vào lẫn các con đường được cải tạo này chúng chỉ biết có một nửa thôi."
Nói xong, ông ta dẫn Lumian đến một ngõ cụt, tìm được một khe hẹp để bò qua. Lumian theo sát phía sau.
Hai ba phút sau, họ chui ra khỏi đường hầm nhỏ. Trước mặt họ là một 'bức tường' dựng từ các cột đá, cùng một 'con đường' chật hẹp chen giữa.
Ngay lúc đó, một bóng người vạm vỡ xuất hiện bên cạnh cột đá, cầm đèn cacbua, nói với Ramayes, "Đây là vị khách của chúng ta sao?"
Ramayes xoay người lại, nhìn Lumian và cười.
"Người xứ khác, tôi đổi ý rồi. Giá bây giờ là 265 verl d'or. Tôi đã để lại cho cậu đủ mua bánh mì và trọ đêm nay rồi đấy, cậu thấy tôi hào phóng không?"
"Nếu tôi từ chối thì sao?" Gương mặt Lumian lộ vẻ sợ hãi pha lẫn thách thức.
Khuôn mặt bầu bĩnh của Ramayes run lên vì cười.
"Cậu nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra? Mẹ cậu không dặn rằng đừng dễ dàng tin người lạ khi ra khỏi nhà sao?"
Hắn và gã to con áp sát Lumian từ hai phía.
Lumian mỉm cười, đặt chiếc vali xuống và tiến về phía Ramayes cùng đồng bọn.
Dưới ánh lửa chập chờn, mười giây trôi qua thật nhanh, và chiếc đèn cacbua đã nằm trong tay Lumian.
Lumian cúi xuống bên cạnh Ramayes, kẻ đang run rẩy, với gương mặt bầm tím và sưng vù. Cậu rút hết số tiền giấy trong ví của Ramayes, rồi cẩn thận đếm chúng dưới ánh sáng mờ mờ của ngọn lửa cam pha xanh.
Lumian khẽ vỗ vỗ má phải của Ramayes bằng xấp tiền, nở một nụ cười.
"Giờ thì chỉ còn lại 319 verl d’or thôi."
Nói xong, cậu nhét tiền vào túi rồi thong thả bước về phía con đường có vẻ dẫn lên mặt đất.
Trên một cột đá, một tấm bảng tên đường đang treo lủng lẳng, trên đó khắc hai dòng chữ Intis: "Phố Dạ Hồ, khu chợ Quý Ông."
Ai đó đã dùng đá cào nát chữ ‘Phố Dạ Hồ’ đi và ghi nguệch ngoạc một cái tên mới bên cạnh: "Phố Hỗn Loạn."
2 Bình luận