Nếu không thể truy cập trang web xin vui lòng sử dụng DNS 1.1.1.1 hoặc docln.sbs

KẺ VÔ HẠN VÀ KẺ THẦN THÁN...
ROBERT RATH WARHAMMER - BLACK LIBRARY
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

ACT THREE: EXTERMINATUS (LỆNH HỦY DIỆT)

Chương 04

0 Bình luận - Độ dài: 4,655 từ - Cập nhật:

NEPHRETH: Im lặng đi, lũ ngốc lắm mồm! Chỉ có một thứ phân biệt con người với các vị thần: Cái chết, món quà vĩ đại mà định mệnh trao tặng cho mọi sinh linh. Và những vị Thần Sao này định cướp đi món quà đó từ chúng ta. Ta đề nghị chúng ta làm điều ngược lại. Thay vì để họ lấy đi cái chết của chúng ta, chúng ta sẽ ban nó cho họ.

– War in Heaven, Act IV, Scene I, Line 3

–––––

Trong căn phòng đặt cánh Cổng Vĩnh Hằng, Orikan đang lơ lửng trong kho tàng dữ liệu giống như một cái kén, tâm trí ông giờ đang xuất thần trên cõi Atheric. Toàn bộ sự tập trung của ông ta đã dành cho việc bơi giữa các đại dương vô tận của kiến thức, đến nỗi ông phải thỉnh thoảng kiểm tra vị trí thời gian của mình.

Sáu mươi sáu năm. Một khoảng thời gian đáng kể để nghiên cứu. Đủ để thực sự đào sâu vào những bí ẩn của Mysterios.

Nhưng cũng là mười ba phần trăm của phần thời gian được ấn định cho họ.

“Đừng lo,” Vishani nói. “Vẫn còn đủ thời gian nếu có người hướng dẫn.”

Hình chiếu tinh thần của Orikan rung lên. Cô ấy hiếm khi lên tiếng, nhưng mỗi khi cô nói, lời nói ấy chảy qua ông như một liều chất lỏng mới làm mát lò phản ứng của ông.

Nó xoa dịu ông, làm dịu đi tâm trí đang chạy đua của ông. Phá vỡ những vòng xoáy suy nghĩ lặp đi lặp lại khiến ông ta day dứt ngày đêm.

Orikan ghét việc phải đồng hành với Trazyn, và ông căm ghét cả hội đồng vì đã bắt ông làm điều đó.

Trong cuộc gặp cuối cùng, ông đã phải kiềm chế hết sức để không đập tan gã khốn kiêu ngạo với chiếc mặt nạ đầu lâu đầy mỉa mai ấy.

Suy cho cùng, loài Necron không cần phải cười. Và không được tạo ra để cười.

Nhưng mà, Trazyn lại luôn mỉm cười.

“Tập trung,” Vishani nhắc nhở.

Bỏ qua khuôn mặt đáng nguyền rủa của Trazyn. Giờ đây, Orikan có thể nhìn thấy hình ảnh của Vishani rõ ràng trong tầm nhìn ngoại vi của mình. Cô lơ lửng bên cạnh ông, trong tư thế xuất thần riêng của mình.

Orikan sẽ tiếp tục làm việc với Trazyn, miễn là ông có thể tiếp tục giao tiếp với một trong những trí tuệ vĩ đại nhất trong mọi kỷ nguyên của thiên hà. Ông có thể chịu đựng tên ngốc đấy bao lâu cũng được nếu điều đó có nghĩa là ông được tiếp cận với thiên tài siêu việt ấy. Những năm tháng xa rời Mysterios thật khó khăn. Trong Thiên niên kỷ đầu tiên – khi Trazyn và Orikan chia tay để thực hiện nghĩa vụ với vương triều của mình, và Hội Đồng phải tạm giữ Mysterios – đã giày vò tâm trí ông ta vì sự chia ly.

Orikan đã mơ về Vishani trong những cơn xuất thần, như cách mà một Necron có thể mơ, nhưng lại không nhớ được gì khi tỉnh dậy. Thậm chí không thể nhớ nổi cô ấy trông như thế nào. Bản chất của cô ấy dường như đã gắn bó sâu sắc với Mysterios. Và ông ta có thể cảm nhận tâm trí cô ấy đang hoạt động trên Cổng Vĩnh Hằng, dù ông đã mất hàng thập kỷ dài để dụ ý thức dữ liệu của cô ra khỏi Mysterios.

“Em đã xây dựng thứ này để giữ bí mật cho ngôi mộ?” Orikan hỏi khi cơ thể ông ta vẫn đang im lặng trôi nổi trên sàn đá đen, trong một căn phòng tĩnh lặng và bị phủ đầy mạng nhện. Chỉ có thuật toán tâm linh của ông lên tiếng trên cõi hư vô. 

Đúng vậy, cô ấy đáp.

Em đã tạo ra Astrarium, thiết bị chỉ mở ra một lần trong mỗi kỷ nguyên, để chỉ một giống loài bất tử như chúng ta mới có thể khám phá ra ngôi mộ.”

Đúng vậy.

“Nhưng lại mã hóa nó bằng dữ liệu glyph mà loài Aeldari và các Old One cũng không thể giải mã.”

Đúng vậy.

“Và cổng này,” ông ta nói, “bây giờ đã chết.”

Đúng vậy.“

Nhưng nó có thể được khởi động lại bằng cách đưa Mysterios trở lại hình dạng đa diện trước đây.”

Sai. Đặt lại logic.

Orikan gầm gừ. Hít một hơi dài chậm rãi, rồi thở ra. Mặc dù ông ta không cần phải thở khi đang khoác lớp vỏ kim loại. Đây vẫn là một cách tốt để làm dịu đi tâm trí của ông.

Ý thức dữ liệu của Vishani thỉnh thoảng nói những lời thông thái. Thậm chí dường như phản ứng trực tiếp với Orikan, hướng dẫn ông ta, hỗ trợ ông ta. Tuy nhiên, nếu đặt câu hỏi trực tiếp, nó lại trở về dạng giao thức logic nhị phân. Rất hữu ích để ông giải mã Mysterios, nhưng cũng sẽ cực kỳ khó chịu đối với ông.

Orikan khởi động lại ý thức của Vishani, lặp lại chuỗi câu hỏi từ đầu.

Cổng này giờ đã chết.”

Đúng vậy.“

Cổng này sẽ có thể sử dụng lại.”

Đúng vậy.

Ông ta dừng lại. Suy ngẫm một lúc rồi nói. “Khóa chuỗi logic.”

Chuỗi logic đã được khóa tại câu trả lời về khả năng sử dụng của cổng, tiếp tục. Tâm trí Vishani trả lời một cách máy móc.

Được rồi, Orikan nghĩ. Không quay lại nữa. Nếu nhầm lẫn ở câu hỏi này, ông ta sẽ tự khóa mình vào một chuỗi các suy nghĩ và câu hỏi vô ích.

“Cổng này sẽ có thể sử dụng trong vòng chưa đầy năm trăm năm.”

Sai. Quay lại chuỗi đã khóa.

“Cổng này sẽ có thể sử dụng sau hơn một nghìn năm.”

Đúng vậy.

Và rồi một hơi thở dường như tỏa ra trong tâm trí Orikan. Một con số đột nhiên xuất hiện trong các thuật toán lo-gic. Một thứ được thúc đẩy từ bất kỳ phần nào còn lại của Vishani – hoặc bất kỳ hình ảnh nào về cô mà các dữ liệu thần kinh của ông ta đã tạo ra.

“Cổng này sẽ hoạt động được sau hai nghìn ba trăm sáu mươi bảy năm,” ông nói.

Đúng vậy.

Khá lâu sau khi Exterminatus được kích hoạt, ông ta nghĩ thầm. Lúc này Serenade hẳn sẽ bị phá hủy nặng nề đến mức, một thứ nằm sâu dưới lòng đất như Cổng Vĩnh Hằng đã bị hư hại và không còn hoạt động.

“Cổng Vĩnh Hằng có thể được di chuyển và vẫn hoạt động.”

Sai. Quay lại chuỗi đã khóa.

“Nhưng có một cổng khác.”

Đúng vậy.

“Có ba cổng khác nữa.”

Sai.

“Hai cổng khác nữa.”

Sai.

“Chỉ có một cổng khác. Một phương án dự phòng.”

Đúng vậy.

Orikan ngồi ngẫm nghĩ một lúc. Nếu các cổng mất quá lâu để khởi động lại sau khi được kích hoạt, thì cổng dự phòng có lẽ sẽ mở sớm hơn.

Nhưng liệu nó có mở trước khi hành tinh bị phá hủy không?

“Em đã để lại một cách để giúp anh tìm ra nó.”

Thay vì trả lời theo định dạng lo-gic vừa rồi, lần này hình bóng của Vishani lại im lặng.

‘Vishani? Hãy trả lời anh? Có dấu hiệu nào không? Có tín hiệu nào không?’

Tiếp tục là sự im lặng giữa hai người, nhưng sau một khoảng khắc, hình bóng ấy cuối cùng cũng cất tiếng.

Em sẽ giúp anh, Orikan. Nhưng anh phải mở lòng mình ra với em, với vũ trụ.

‘Anh… không hiểu.’

Anh đang khép kín, Orikan. Đang tự cô độc chính mình. Anh đã dành hàng thời đại dài chỉ để phát triển bản thân và cắt đứt mọi thứ anh cho là phiền nhiễu.

‘Đó là con đường của một Cryptek, một cuộc sống ẩn dật và tách biệt để nghiên cứu và tự hoàn thiện bản thân. Một khu vườn không có tường…’

…sẽ bị dây leo bóp nghẹt. Em biết. Nhưng nếu một khu vườn đóng kín với thế giới bên ngoài, tự khóa chặt chính nó trong một chiếc hộp, nó sẽ chết. Không có mưa và nắng để nuôi dưỡng, không có gió và côn trùng để mang phấn hoa, nó không thể phát triển. Anh đã quên những điều này sao? Hay anh đã bị giam trong cơ thể kim loại quá lâu đến mức tâm trí anh đã lãng quên ý nghĩa của những triết lý trong loài chúng ta và chỉ quan tâm đến những thuật toán lo-gic?

Nếu anh mở lòng mình,’ Orikan chậm rãi nói, ‘Anh có nguy cơ làm phân tán sức mạnh của mình. Anh sẽ trở nên yếu đuối. Khi anh từng chia sẻ những tầm nhìn của mình một cách tự do trước kia, họ đã bức hại anh vì điều đó. Quay lưng với những cảnh báo của anh, tin vào lời nói của các Vị Thần Chết và đánh mất linh hồn họ. Rồi họ săn đuổi anh và đưa anh đến lò rèn trong xiềng xích. Giờ đây, họ thậm chí còn chẳng nhớ gì về điều đó .’

Các C’tan phải chịu trách nhiệm về nhiều thứ – cũng như chính loài của chúng ta. Chúng ta đã nghiền nát các vị thần sao, buộc lên xích sắt cho họ, khiến họ chẳng khác gì lũ thú kéo xe. Và loài của chúng ta đã trải qua sự vĩnh cửu như những kẻ lang thang vô hồn. Nhưng giờ đây, chỉ có anh và em, Orikan, những kẻ may mắn được nếm trải cảm giác tự do khỏi sự giam cầm, được một lần nữa có lại linh hồn, một cảm giác tuyệt diệu biết bao. Nhưng anh không thể có lại sự tự do đó khi chính anh đã xiềng xích chính mình. 

‘Anh không khép kín. Anh đã mở lòng mình với sự sống của vũ trụ, anh đã uống vào năng lượng của các vì sao.’

Và anhchưa bao giờ mạnh mẽ hơn thế.

Orikan im lặng.

Orikan, hãy mở lòng mình và em sẽ cho anh thấy một tầm nhìn mới Hãy mở rộng ý thức của anh.

‘Tại sao đôi khi em nói chuyện như một sinh vật sống, lúc khác lại như một chương trình đơn giản?’

Bởi vì chương trình truy vấn đó không phải là em. Nó là một phần dữ liệu của em trong Mysterios. Một ý thức dữ liệu mà em đã tạo ra để giúp những kẻ hiếu kỳ như anh. 

Còn giọng nói mà anh nghe thấy bây giờ, nó chỉ có thể được phát ra trên hành tinh này.

“Tại sao?”

Bởi vì em đang ở đây, ngay trên thế giới này. Khi em hoàn thành việc xây dựng lăng mộ, vương triều của em đã giam cầm em cùng với nó.

–––––

Trazyn khép cuốn sách khổng lồ lại, những trang giấy cũ vỡ vụn tạo thành một đám bụi mịn bay khắp nơi khi nó kêu kẹt kẹt. Lũ mọt sách hoảng sợ chạy lung tung dọc theo gáy sách.

“Không, không. Chưa đủ tốt. Ta nghĩ phải kiếm cả những cuốn sách trước đó nữa. Koloma, hãy tìm cho ta những tập sách sớm hơn của “Họ Uống Cạn Biển Cả”. Một bản sao từ trước khi lũ Tòa Án Dị Giáo kiểm duyệt mất chương hai. Và bất cứ thứ gì ngươi tìm được về các dự án xây dựng dưới lòng đất ở—”

“Thưa ngài?” Một giọng nói đáp lại ông ta, nhưng lần này nó không đến từ một Nercon, mà là từ một con người. Một người thủ thư làm ca đêm. Một lão già gù lưng, với cái cột sống cong queo sau hàng thập kỷ đẩy xe và sắp xếp những cuốn sách đồ sộ.

“Gì thế, thủ thư?”

“Thưa ngài, tôi rất tiếc phải nói rằng đây sẽ là đêm cuối cùng tôi phục vụ cho ngài.”

Trazyn ngẩng lên. “Thật sao? Nhanh vậy ư?”

“Thưa ngài, hai năm trước tôi đã nhắc ngài rằng tôi sẽ bị buộc phải nghĩ hưu theo lịch trình.”

“Nhưng ta đã trả tiền cho những bộ phận nhân tạo đó rồi mà. Cả khớp hông và chân. Và cả thuốc kéo dài tuổi thọ để giữ cơ thể ngươi nguyên vẹn khi nó bắt đầu suy yếu.”

“Đó là chuyện của ba mươi năm về trước, thưa ngài. Tôi đã già đi trong thời gian phục vụ ngài. Và không phải vấn đề tôi có muốn hay không. Những người trẻ hơn trong thư viện muốn thăng tiến, và họ không thể làm điều đó khi tôi vẫn giữ vị trí này.”

“Ta hiểu rồi,” Trazyn nói, nhìn người thủ thư đêm già nua từ đầu đến chân. Trước kia, vì quá chú tâm vào nghiên cứu, ông ta chưa từng nhận ra những thay đổi trên cơ thể của người hầu cận, nhưng giờ thì ông thấy rõ hơn bao giờ hết. Làn da của Koloma nhăn nheo như tờ giấy da, dáng đi của lão ta mất thăng bằng khi cái chân thịt còn lại của lão đã teo tóp vì không thể theo kịp sức mạnh của cái chân kim loại đối xứng. Lão ta đeo một khung nẹp lưng buộc qua chiếc áo choàng màu vàng. Đôi mắt nâu mờ đi vì chứng đục thủy tinh thể, và nó nặng đến mức như thể đồng tử của lão đang nhìn xuyên qua một tấm giấy da dày cột. Đôi mắt đấy đang nhìn Trazyn một cách đầy tiếc nuối.

Koloma đã bao nhiêu tuổi khi Trazyn lần đầu tiên đưa lão ta về phục vụ? Hai mươi lăm? Ba mươi? Ông ta không để ý lắm việc đấy, nhưng ông chắc chắn đấy là một chàng trai trẻ trung và tràn đầy sức sống. Nhanh nhẹn trong suy nghĩ và mạnh mẽ về thể chất, có thể nhấc bổng những cuốn sách khổng lồ bằng bờ vai rắn chắc dày hơn cả cẳng tay.

“Được rồi,” Trazyn nói, “ngươi nên ngồi xuống đi.”

Koloma từ từ ngồi xuống. Các khớp nhân tạo của lão rít lên cọt kẹt. Lão ta giữ cái chân tự nhiên cứng đờ của mình sang một bên, nhăn mặt khi đầu gối hơi gập lại. 

"Ngươi đã là một người hầu trung thành và tận tụy, Koloma."

"Và ngài là một vị chủ tốt, thưa ngài. Chi phí cho những lần chữa trị cho tôi. Một căn nhà gần thư viện. Một trường học tốt cho các con tôi. Một hộp tro ở Vườn Tưởng Niệm cho Morea yêu dấu của tôi. Tôi mang ơn ngài nhiều lắm."

Trazyn vẫy tay, như thể gạt đi lời cảm ơn đó. "Phần thưởng là nguyên tắc cốt lõi của một nhà lãnh đạo. Bất kỳ vị chủ nhân nào cũng sẽ làm vậy."

"Những người chủ ban ngày của tôi ở Thư viện Trung tâm Serenade thì không, thưa ngài.”

"Không," Trazyn thừa nhận. "Văn hóa của các ngươi bị cãi trị bởi nỗi sợ hãi, bạn của ta, và nỗi sợ sinh ra sự tuân phục, nhưng không có lòng trung thành."

"Tôi đã sắp xếp người thay thế, thưa ngài. Tôi đã huấn luyện cậu ấy. Một chàng trai tốt tên Tova. Xander Tova. Cậu ấy sẽ đến phục vụ ngài vào tối mai."

Trazyn gật đầu. "Và ngươi đã đưa hắn lá bùa hộ mệnh chưa?"

"Tôi đã đưa rồi, thưa ngài" Koloma xác nhận. "Những con bọ kiểm soát tâm trí hẳn đã ký sinh vào trong đầu cậu ta rồi. Tôi đã thấy điều đó trong mắt cậu ấy khi đổi ca tối nay."

"Và ngươi đã tự mình huấn luyện hắn?"

"Cậu ấy là cháu tôi, thưa ngài. Tôi đã chuẩn bị cho cậu ấy những điều cần biết để phục vụ ngài."

Vậy là mọi chuyện đã được hoàn tất chu đáo, như cách Koloma vẫn làm. Trazyn hy vọng Tova sẽ tỏ ra tận tâm và có năng lực như vậy, dù nếu Koloma đã đào tạo cậu ta, đó đã là một lời giới thiệu đủ tốt. Những con bọ sẽ lo phần còn lại, dù Koloma có lẽ vẫn làm tốt ngay cả khi không có sự kiểm soát thô bạo của chúng.

"Ta sẽ nhớ ngươi, Koloma."

"Và tôi cũng sẽ nhớ ngài, thưa ngài."

"Ngươi biết đấy, ta không thể cứ thế để ngươi đi."

Một tia sáng mờ nhạt hiện lên sau lớp đục thủy tinh thể. Một khoảnh khắc hiếm hoi khi những con bọ thể hiện sự kiểm soát của chúng. "Dĩ nhiên rồi, thưa ngài. Tôi là một mối nguy cho công việc vĩ đại của ngài."

"Ta không thể hứa nó sẽ không đau, nhưng nó sẽ qua nhanh."

"Cảm ơn ngài, chủ nhân. Cuộc đời tôi đã dài và hạnh phúc. Tôi chỉ mong được hội ngộ với Morea trong hộp tro cốt."

"Tốt," Trazyn nói. Có thể ông ta không nói sự thật hoàn toàn, nhưng rõ ràng ở một mức độ nào đó, Koloma thật tâm muốn chết. Những con bọ sẽ không cần phải dùng lực quá mạnh. Nếu chúng làm vậy, có lẽ chúng đã giết chết người thủ thư già yếu ngay lập tức, điều mà Trazyn không mong muốn. Dù với sự phục vụ tận tụy, Trazyn cũng không muốn phải mang thi thể Koloma lên từ tầng hầm.

"Ngươi muốn nói chuyện thêm một lúc nữa không?"

"Về chuyện gì, thưa ngài?"

"Về nơi này." Trazyn chỉ vào các kệ sách ở tầng hầm, những dãy kệ dài, nơi ông đặt bàn làm việc của mình trên một trong số chúng. "Không chỉ thư viện, mà là toàn bộ Serenade. Ta có đang bỏ sót điều gì không?"

"Bỏ sót sao, thưa ngài?"

"Ngươi có biết ta đang tìm kiếm thứ gì không?"

"Thưa ngài, ngài chưa từng chia sẻ, và tôi cũng chưa từng hỏi.”

Trazyn bật cười thích thú. "Ngươi là một người hầu trung thành hơn ta nghĩ, Koloma. Bao năm qua mà ngươi không hề tò mò. Ngươi rất xuất sắc, cực kỳ xuất sắc. Sự thật là, Koloma, ta đang tìm một lăng mộ. Một căn phòng bí mật do giống loài ta xây dựng."

"Ngài muốn cướp bóc nó, thưa ngài? Hay đến đó để thờ cúng?"

"Kỳ lạ thay, là cả hai. Và suốt hàng thập kỷ qua, ta đã lùng sục qua các hồ sơ tài sản, các kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc hệ thống cống rãnh. Các báo cáo địa chất, tìm kiếm một dấu vết về việc khám phá ra một công trình. Hoặc là một loại đá không thể khai thác, hoặc một khoảng trống trong lòng đất mà con người bỏ qua. Một khu vực bị giống loài các ngươi che giấu đi vì cảm thấy nó quá bất an. Nhưng ta chẳng tìm thấy gì."

"Tôi xin lỗi vì không thể hỗ trợ ngài, thưa chủ nhân.”

"Vậy thì ta đang bỏ sót điều gì, Koloma? Điều gì ở Serenade mà ta chưa hiểu? Linh hồn của nơi này là gì? Sao ta lại cảm thấy nó khác biệt đến vậy?"

"À," Koloma nói. "Ngài đang nói về Bài ca Serenade."

"Ngươi đang nói về giai điệu mà các nghệ sĩ đường phố chơi ở quảng trường? Nó gọi là –Khúc Ca Gió Biển Serenade–?

"Đúng vậy."

 Koloma gõ một ngón tay lên mũi, một cử chỉ mà Trazyn thấy kỳ lạ đến mức ông lặp lại, đề phòng nó mang ý nghĩa nghi thức hay văn hóa. 

"Một điệu nhạc rất kỳ lạ, ngài không nghĩ vậy sao? Lời bài hát thì đúng là toàn những câu từ ca ngợi quê hương sáo rỗng. Nhưng nó khá khác biệt so với những gì ngài nghe ở phần còn lại của Đế Chế."

Trazyn nhận ra, ông ta đã để ý điều đó từ trước. Các chương trình thần kinh nhỏ của ông đã đánh dấu nó khác biệt với những giai điệu còn lại của con người. Trong một thiên niên kỷ qua, ông ta đã cảm thấy một chút hứng thú với thứ âm nhạc này, sau khi tình cờ bắt gặp một con tàu chở Dàn nhạc Giao hưởng Vostroyan trong chuyến lưu diễn nâng cao tinh thần ở chiến trường. Và thay vì giữ họ để trưng bày trong các trường ngưng đọng, thỉnh thoảng ông ta lại đưa họ ra ngoài để tổ chức các buổi hòa nhạc, điều khiển họ chơi nhạc cùng với một nghệ sĩ độc tấu dây errimu Tallarn và một đội kèn túi và trống Tanith.

“‘Tại sao nó lại bất thường?’

‘Vì nó dùng thang âm ngũ cung. Có năm nốt trong một quãng tám, trong khi thang âm chuẩn có bảy nốt.’

‘Khá thú vị, nhưng ta không hiểu nó liên quan gì đến công việc của ta.’

‘Vì ngài chưa tìm hiểu về tín ngưỡng dân gian ở đây, thưa ngài. Mà tôi cũng không thấy ngạc nhiên. Vì vào thời điểm mà ông của tôi mới chỉ là đứa bé. Tòa Án Dị Giáo đã làm ầm ĩ lên vì vấn đề này. Họ muốn dẹp bỏ hết những văn hóa địa phương này mà chẳng buồn quan tâm sự thân thuộc của nó đối với người dân xung quanh. Có lẽ vì khu định cư nhỏ bé của chúng tôi không đủ quan trọng trong mắt họ.’

‘Ý ngươi là khi họ dỡ bức tượng.?’

‘Họ dỡ bỏ nhiều thứ hơn thế. Nền văn hóa địa phương từ lâu đã có niềm tin rằng Serenade có một nhịp điệu riêng. Một xung động chảy qua mọi thứ, qua âm nhạc, qua lời nói của chúng tôi. Một nhịp điệu rung lên trong cuộc sống của chúng tôi. Một số người gọi đó là Thánh ca của Chúa Đế, nhưng một số khác nói rằng nó thuộc về những sinh vật cổ xưa sống sâu dưới lòng đất. Tòa Án Dị Giáo thì thay tất cả những ý tưởng đó bằng niềm tin chính thống rằng đó là giai điệu của Thánh Madrigal, người đã kêu gọi và chỉ lối cho những chuyến tàu định cư đầu tiên đến thế giới này, và kêu gọi mọi linh hồn ngoan đạo tôn thờ Chúa Đế qua sự sáng tạo trong nghệ thuật, thứ đã làm nên danh tiếng của Serenade.

‘Vậy những người không tin vào sự chính thống đó nói gì?’

‘Trong các câu chuyện có kể rằng, Thánh Madrigal có một người em gái, Quý Bà Solarian. Bà ấy là một nhạc sĩ tài năng. Trước khi mất tích cùng với những cơn sóng biển, bà ấy tuyên bố Khúc Ca Serenade đã ăn sâu vào văn hóa, vào trong lòng người dân của nó, vì nó là một phần của mọi vật. Nó giống như giọng nói của Chúa Đế được biến thành những con số toán học thuần túy. Xuất hiện theo một tỷ lệ tương tự như các vòng xoắn của vỏ sò, mạng nhện, hay những xoáy nước trên biển.’

“Chuyện đó bình thường mà, tự nhiên thường có sự cân đối như thế.”

‘Không hẳn, thưa ngài. Quý Bà Solarian phát hiện Khúc Ca Serenade không được tạo hình đối xứng hoàn hảo với tự nhiên. Nó bất đối xứng, nhưng lặp lại đều đặn, và có mặt ở khắp mọi nơi.

Trazyn suy nghĩ một thoáng. ‘Năm nốt. Như một tín hiệu số, từ một đến năm.’

‘Có thể đây là manh mối ta cần.’Trazyn gật đầu. ‘Tìm mọi thông tin về Khúc Ca Serenade và Quý Bà Solarian cho ta. Xong thì về bàn làm việc đi.’”

"Vâng, thưa ngài," Koloma nói, cố gắng kéo lê thân mình đứng dậy dù đôi chân đã cứng đờ và đặt tay lên xe đẩy sách.

Lão ta dừng lại, do dự không biết nó nên nói ra suy nghĩ trong lòng.

"Thưa ngài?"

Trazyn nhìn lên, ngạc nhiên vì Koloma vẫn chưa rời đi. "Có chuyện gì?"

"Sau quãng thời gian dài phục vụ, liệu tôi có thể hỏi ngài một câu không?"

Trazyn gật đầu cân nhắc. "Ngươi hỏi đi."

" Ngài có ý định hủy diệt thế giới này không, thưa ngài?"

Trazyn tắt màn hình ghi chú, đan tay lại và nhìn Koloma, một người thủ thư đã già nua, yếu ớt.

"Đó là điều ngươi muốn biết?"

"Đúng vậy, thưa ngài. Biết được điều đó sẽ khiến tôi nhẹ nhõm hơn.”

"Được rồi, để ta nói thế này. Ta đã có mặt ở trên hòn đảo này khi nó vẫn còn những cánh rừng nguyên sinh tươi tốt. Khi những cơn sóng xanh vẫn vỗ vào bờ cát trắng, nơi bây giờ là khu vực hành chính ngoại giao của các ngươi. Ta đã bước đi giữa một thời đại ngập tràn những hệ sinh thái đa dạng, hít thở dưới bầu không khí vẫn còn trong lành. Được tận hưởng những cơn gió mùa di chuyển giữa các vùng đất và mang theo những cơn mưa tự nhiên mát mẻ, thay vì dựa vào công nghệ tạo mưa trên một vùng không khí đã bị ô nhiễm bởi nền công nghiệp không kiểm soát và sự tuyệt chủng của vô số loài sinh vật." Ông ta dừng lại một chút như để tăng thêm sức nặng cho lời nói tiếp theo "Vì vậy, khi ngươi hỏi rằng liệu ta có định hủy diệt thế giới này không, ta muốn hỏi ngược lại: các ngươi có thực sự cần sự hỗ trợ của ta để thực hiện đó không?”

Koloma cắn môi, lặng lẽ quay đi. Lão lết từng bước lên cầu thang, vịn chặt hai tay vào xe đẩy sách khi lách qua những dãy tủ sách đồ sộ trong kho lưu trữ. Nơi này đã lâu không ai lui tới, thậm chí cả những Inquisitors thông thái cũng không biết đến sự tồn tại của nhà kho này.

Những cuốn sách ở đây đều từ thời kỳ xa xưa, được viết chỉ vài chục năm sau khi những chuyến tàu định cư đầu tiên đáp xuống. Những lớp bìa dày và gáy sách đều được làm từ da của loài cá voi đã tuyệt chủng. Koloma chất đầy chúng lên xe, và đẩy nó đến thang máy thư viện cũ kỹ, rồi chuyển toàn bộ sách từ xe vào chiếc hộp thang máy nhỏ đã rỉ sét.

Lão bấm nút đưa chiếc hộp thang máy xuống tầng hầm sâu nhất của nhà kho, dõi theo chuyến hàng cuối cùng của cuộc đời mình, những cuốn sách dành cho sinh vật kỳ lạ mà lão đã gặp từ 62 năm trước. Một sinh vật vượt ngoài không gian và thời gian. Ban đầu, lão từng rất sợ hắn, nhưng cho đến khi lão được cấy vào những con bọ ký sinh, sự sợ hãi đã biến mất theo thời gian.

Cuối cùng, Koloma quay lại bàn làm việc. Lão ngồi xuống, đan tay vào nhau và nhìn bức ảnh của người vợ yêu dấu đã qua đời hơn 10 năm trước.

Một cơn đột quỵ ập đến, và nó đau đớn hơn bất kỳ điều gì lão từng trải qua.

Nhưng đúng như lời hứa của vị chủ nhân kim loại, mọi chuyện kết thúc rất nhanh.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận