IV.
Giờ thì lão Khải đã tin rồi. Những gì lũ cua đã muốn làm thì chúng sẽ làm được bằng mọi cách chúng có thể nghĩ ra.
Lão chống tay vào thành chum nước, nôn thốc nôn tháo. Lão oằn người nôn ra mật xanh mật vàng, nôn đến không còn bất cứ thứ gì trong dạ dày và đến mức nếu có thể nôn cả ruột gan ra bên ngoài thì có thể lão đã nôn chúng ra thật. Lão run lẩy bẩy, hai cẳng chân gầy gò không thể trụ vững mà lảo đảo rơi phịch xuống đất. Đôi mắt lão trố ra và lúc này, lão không còn biết kêu ai, lão không thể kêu Chúa bởi vì giờ lão đã là Chúa mất rồi. Lần đầu tiên kể từ khi tạo ra cái thứ tôn giáo riêng tư này, lão cảm thấy hối hận, bởi vì khi mình là Chúa rồi thì mình không thể dựa vào ai được nữa, giống như thợ cắt tóc không thể tự cắt tóc, bác sĩ phẫu thuật không thể tự phẫu thuật hay không có ai bảo vệ những người bảo vệ. Làm Chúa là một công việc cô đơn, bởi vì khi bất lực sẽ chẳng có một quyền uy nào cao hơn để bản thân dựa vào.
Và đây, lão bất lực nhìn xác con Xăm bị treo rủ xuống và đung đưa trên cột nhà. Tay chân của con vật đều bị chặt sạch, làm nó trông giống một khối xúc xích khổng lồ đen đùa đầy những lông, và vết thương trí mạng có lẽ nằm ở cổ - một đường rạch sâu và hoác ra. Máu chảy ồng ộc nhuốm đỏ cơ thể con vật và tụ lại ở đuôi, nhỏ xuống đất. Không một con người bình thường nào, một con người có lương tri nào lại làm ra được cảnh tượng khủng khiếp như thế.
Đây có phải là lời tuyên bố và đe doạ của lũ cua dành cho lão? Như một phát dằn mặt, đánh vào cái tâm lý từ trước đến nay luôn rất sợ hãi những cái chết bất thình lình ập đến của lão? Lão không có cách nào nhìn vào con Xăm lúc này, nói chi là chạm đến. Bốn cái chi bị cắt lìa của con chó bây giờ đang nằm ở nơi nào, hay lũ cua đã đem chúng đi làm thức ăn, đối với lũ cua thì cái gì mà tụi nó chả ăn được.
Tội nghiệp! Con vật cũng hiền, nó đã sống một đời vô lo vô nghĩ và trung thành, một sự trung thành đến ngây thơ và đáng cười. Lão gục xuống trước cái xác của nó, vặn người vì xộc lên mũi lão là mùi của máu, của cái chết. Vã lão nghĩ tại mình mà con Xăm chết, người học trò trung thành và tận tuỵ ấy đã chết vì lão, vì tôn giáo của lão và vì những quyết định của lão. Và cái tương lai phía trước, lão không dám nhìn nữa, lão mường tượng ra đó sẽ là một tương lai cô độc và bất an.
Kể từ cái đêm lũ cua tấn công lão trong buồng ngủ đến giờ, mọi thứ đã tạm lắng xuống. Lão Khải không có cách gì để chống lại chúng, bởi vì một người có thể chống lại những mối nguy hại rõ ràng nhưng không thể chống lại những mối nguy kỳ lạ. Họ có thể chống lại một kẻ hà hiếp mình, dùng vũ lực với mình nhưng không thể chống lại một lũ cua muốn giết mình. Vì thế mà ngoài việc đề cao cảnh giác ra, lão không có cách nào khác. Giết sạch lũ cua đi cũng được, sao lão không làm?
Sao nhỉ? Giải thích xa xôi thì chắc là không ai hiểu, mà nói huỵch toẹt ra thì lại chẳng ai tin. Rằng lão không giết lũ cua - ngay cả khi rõ ràng một nỗi là chúng muốn giết lão - bởi vì lão là Chúa của chúng và chúng là con chiên của lão. Chúa nào mà lại giết con chiên của mình? Chúa thì phải bao dung, phải tha thứ, phải nhân từ và, đúng không, phải gánh chịu tội lỗi của thế gian. Nếu không có tín đồ thì tôn giáo không thể trở thành tôn giáo, ngay cả đám tín đồ ấy chỉ là một lũ cua.
Nhìn bốn chi bị cắt cục của con Xăm, hiện về trong đầu lão Khải là cánh tay bị cục của vợ lão.
Vài năm sau cái chết của con bé Thị, người ta thấy vợ lão Khải có vẻ vực dậy giỏi hơn chồng. Có thể là nhờ mụ có đức tin mạnh mẽ, một thứ đức tin đã hình thành từ khi mới lọt lòng mà chồng mụ dù có cố gắng bao nhiêu cũng không thể quán triệt nó bằng mụ, chính cái đức tin ấy đã cứu vớt mụ. Còn lão, lão cũng đã nguôi ngoai đi nhiều, tuy kể từ đó người ta thấy lão hay đâm ra lẩn thẩn và hay giở thói gàn, lão nhạy cảm hơn và hay bộc phát những biểu hiện quá dị. Nhưng nhìn chung mọi thứ đã trở lại bình thường, họ đã vượt qua và tuy không phải vượt qua một cách kiên cường nhưng cũng đã cố lê lết để vượt qua.
Ấy thế mà chỉ có người trong cuộc mới nhìn ra, mụ vợ nhìn ra lão Khải và lão Khải nhìn ra mụ vợ. Nhìn ra cái gì? Ở lão chồng mình, mụ nhìn ra được một người đàn ông hình như là chống Chúa. Không, không hẳn là chống Chúa, nếu chống Chúa thì lão đã chẳng sống vui vẻ với cộng đoàn và luôn cố gắng thể hiện đức tin mà mình đã quyết theo. Lão không chống Chúa, mà ngược lại, lão muốn giống như Chúa. Cái mong muốn ấy hình như đã ở trong lão còn trước cả khi lão biết đến Chúa, nó xuất hiện từ khi lão biết hào phóng ban phát tâm từ và lòng bác ái. Đành rằng những hành động này là đúng và đáng được tuyên dương, nhưng đến cái mức như lão Khải thì mụ cảm giác sao sao ấy! Nói ra thì mụ tự thấy mình bạc, nhưng phải chăng lão Khải đang nghĩ mình cao cả hơn những người khác nên mới cho mình cái quyền được hy sinh. Bởi vì trong thân tâm lão đã tự hình thành một niềm tin cố hữu rằng lão là vĩ đại nhất, nên lão mới ôm hết thiệt thòi về mình. Chúa ôi! Ra là sự bác ái mà không đi với cái tâm trong sáng, mà ngược lại còn đi với cái tâm kiêu ngạo của một kẻ biết mình đang ban ơn cho kẻ khác, thì đó không còn là bác ái nữa. Nếu vậy thì… nếu vậy thì…
Còn ở phía mụ vợ, lão Khải nhận ra mụ bắt đầu có tật xấu là thích mút cái cánh tay cụt của mụ. Thời gian đầu, chỉ lâu lâu lão mới thấy mụ đưa cái chóp cụt tròn lẳn đó lên miệng nhưng rồi mụ đã tự ý thức được mà vội giấu xuống ngay. Song đến một hôm, lão bất ngờ đi vào bếp và thấy mụ ngồi thu lu ở một góc, tấm lưng to bè hướng về phía lão. Lão rón rén đi đến, định hù mụ chơi.
“Làm gì đấy?” Lão kêu lên cộc lốc.
Lúc đó lão đã thấy, người đàn bà với khuôn mặt bị nắng mưa táp cả một đời, người đàn bà mà nhìn vào người ta biết là mụ chưa bao giờ hưởng được cái gì vinh hoa phú quý, mụ đang ngồi mút lấy mút để cái chóp tay cụt của mình. Mụ mút đến là say mê, như đứa trẻ tham lam bầu sữa mẹ. Mụ lấy lưỡi rê rê cái lỗ hõm mà ở đó da thịt của mụ rút vào, rồi mụ ngậm cả cái chóp tròn của cẳng tay cụt trong miệng. Tiếng nhóp nhép vang lên. Và trời ơi, lão Khải lúc ấy thay vì cảm thấy kỳ lạ, thay vì cảm thấy ghê tởm, thay vì cảm thấy trước mặt mình là một mụ điên cần phải đập cho tỉnh, thì tay chân lão đột nhiên nhói lên một cái khi lão nghĩ: có bao giờ trong đời mụ vợ mình, mụ đã ăn cái gì trông ngon miệng đến thế chưa, mụ đã biết thèm thuồng cái gì đến thế chưa và mụ có bao giờ được cái phước phần như những người đàn bà khác là được ăn ngon đến mức quên đi mọi thứ xung quanh, đến mức cái miệng tõm tẽm làm người khác nhìn mà thèm theo như thế chưa? Rồi lão nghĩ nếu mụ tự mút cẳng tay cụt của mình mà ngon lành vậy thì hay là lão cứ để nó như vậy, vì chính lão cũng có bao giờ thấy mụ ăn một bữa nào mà ngon đến thế đâu. Tất nhiên là mụ đã từng được ăn ngon chứ, hai vợ chồng cũng đã từng thử mấy món lạ và đắt tiền chứ, và nếu vợ lão bỗng thèm cái gì thì lão cũng đã từng bỏ công đi mua cho mụ chứ, hai vợ chồng có thiếu gì điều kiện để mà không được ăn ngon. Nhưng không giống! Những bữa tiệc hay nhưng chầu ăn ấy sao mà gấp gáp, sao mà vồn vã, mụ ăn ráo riết cho xong để còn tất bật đi làm chuyện khác, hay mụ ăn qua loa vì biết đâu mụ trộm nghĩ (như một cái tật của người nghèo mà cố bỏ mãi không được) là mình không xứng đáng với những bữa ăn như vậy. Có bao giờ mụ nhấm nháp một món ngon, từ tốn cảm nhận vị của món ăn lan dần trong miệng, ăn ngon mà biết mình đang ăn ngon, như bây giờ mụ mút cẳng tay mụ. Chao ôi! Nếu thật ngon đến thế thì lão cũng muốn ăn cho biết, nhưng tiếc thay lão lại không điên được như mụ.
Lão là người tỉnh, vì thế mà lão phải sống khác.
Chuyện không thể giấu được lâu, mụ ngày một lao dốc, ngày một có nhiều hành động quái đản và gây ồn ào hơn. Có lúc, mụ cười rồi mụ khóc, vừa khóc xong lại cười. Tuy việc ấy không ảnh hưởng gì đến ai, mụ điên nhưng là một người điên hiền lành. Nhưng không thể để như thế mãi được, mụ cần được chữa trị và mụ cần phải quay về. Vì thế mà lão Khải cắt gan cắt ruột để người ta đưa mụ vào nhà thương điên. Ấy là lúc mụ đã không còn biết gì nữa.
Không lâu sau lão Khải được tin vợ chết. Lão bần thần nhìn lên trần nhà và nghĩ cái chết của vợ sao mà cô độc, chắc là lúc rời bỏ thế gian này về với vòng tay của Chúa mụ đã buồn lắm, nhưng rồi mụ sẽ vui ngay, vì kiếp sau thứ chờ đợi mụ là hạnh phúc ở thế giới khác. Lão không làm đám tang cho vợ, chỉ quày quả lo cho mụ ra đi một cách lặng lẽ bớt điều tiếng, và từ đó đến nay lão sống vậy một mình. Vợ lão đã không thể thoát ra và biết đâu, chính lão cũng sẽ không thể.
***
Gần đây hàng xóm không nhận ra điều gì kỳ lạ ở lão Khải, ngoài lâu lâu họ để ý thấy những vết thương tủn mủn trên người lão, mà lão bảo là do tai nạn trong lúc làm việc. Cái vết thương trên cổ lão hồi trước cũng chóng lành. Việc con Xăm, con chó cưng của lão biến mất đột ngột thì người ta cũng chỉ hỏi vài câu rồi thôi. Nói chung là trước cái ngày lão chết, không có một dự báo rõ ràng nào. Mà cái nhà ấy cũng đáng sợ, ai sống trong đó cũng kéo nhau chết ráo cả.
Vì nhiều chuyện mà ban đầu người ta còn nghĩ chắc do lão Khải phát điên mà tự sát, người ta đã từng thấy vợ lão điên rồi nên dễ kết luận như vậy. Song nghĩ lại cứ có cảm giác không đúng lắm, trông lão không phải cái kiểu sẽ tự tử mà chết, bởi vì đối với những người như họ, như lão, thì việc tự sát là một khái niệm gì xa xôi lắm.
Chẳng là, sáng hôm đó, lão đã bị tấn công bất ngờ. Lão đang ngồi trong nhà thực hiện việc đọc Kinh sáng. Giữa lúc ấy, đám cua xuất hiện. Cho đến khi lão nhận ra thì chúng đã lũ lượt vây chặt xung quanh, như những chiến binh tử đạo xông vào một cuộc chiến thừa biết là không cân sức. Con này đứng sau con kia, ngay ngắn trật tự đến lạ lùng, và chúng đông đảo đến mức dệt trên sàn một lớp lúc nhúc những cái mai nhô lên đều đặn.
Hoảng hốt, lão định chạy trốn nhưng nhận ra mọi nơi mà lão có thể đặt chân xuống trong nhà đều bị xâm chiếm, chưa kể có một số con bằng một cách nào đó đã bò lên lớp phông trên trần. Chúng đứng lặng nhìn lão bằng hàng nghìn hàng nghìn con mắt lồi, và cái vẻ im lặng của chúng mang một cảm giác gì rùng rợn, không phải chúng tỏ thái độ đe nẹt lão, mà đó chỉ là do thứ im lặng vô tri cố hữu của những con cua.
Rồi chẳng biết là bên nào bắt đầu, cuộc chiến đã diễn ra.
Lão vung khúc cây trong tay, lão vung mãi nhưng vẫn không thể thoát ra cái thế trận ngày càng dày đặc hơn chứ không hề ít đi. Hết lớp này đến lớp khác, hết con này đến con khác, lũ cua tràn lên người lão. Ban đầu lão không sợ, vì chúng to thì có to thật đấy, nhưng cua mà đấu với người thì còn khướt mà gây tổn hại gì được. Nhưng lão đã sai và chính cái suy nghĩ sai lầm ấy đã hại lão, đã đưa lão vào thế bí như bây giờ.
Lũ cua này không phải là những con cua mà lão biết, chúng có một sức mạnh và trí thông minh kỳ lạ. Nghĩ xem, có con cua nào học được cách trèo lên trần nhà rồi thả người - như những thằng lính nhảy dù trong phim - xuống người lão, và không phải là vài chục con mà chúng rớt xuống như mưa, bu đặc cơ thể lão. Rồi những con tấn công bên dưới thì cố leo lên. Mà chúng lại giỏi kẹp, khi đã kẹp được thì càng sống chết bám chặt lấy không buông, và lại nhiều, quá nhiều.
Lão lăn ra đất, cố giãy giụa để hất chúng đi, đoạn cố giật lấy con dao mà không biết từ đâu lại xuất hiện, nhưng món đồ ấy vẫn không lúc nào rơi được vào tầm với của cánh tay lão. Trong khi đó, lão còn bị càng cua kẹp đủ chỗ trên người, cả những chỗ hiểm hóc và thốn đến mức làm lão giật nảy. Lão gào lên thì bị kẹp cả lưỡi.
Lão phóng người về phía hai con cua đứng ở nơi cao nhất. Mắt lão trợn ngược, đối diện với chúng, cố làm cho ra lẽ.
“Ta là Chúa, là Chúa của các ngươi! Ta nuôi dưỡng và cho các ngươi thức ăn, chỗ ở, bảo vệ các ngươi để các ngươi sống đời khoẻ mạnh, còn ban cho các ngươi đủ mọi loại ân tứ. Tại sao các ngươi lại giết ta. Tại sao lại hành xử vô lý như vậy? Các ngươi là một lũ phản phúc! Vô ơn! Đây không phải là hành động mà những con chiên sẽ làm với Chúa của mình. Các ngươi là một lũ tàn độc!” Lão mắng sa sả vào mặt bọn chúng. Ngược lại, bọn chúng chỉ nhập thò đôi mắt và ung dung nhìn cảnh hành hình đang diễn ra.
Con cua có ân tứ hiểu được tiếng lạ xoay qua, hình như là để thông dịch cho đồng đội. Trong lúc đó, lão còn chật vật với đủ mọi đòn của cái đám đông tí hon hổ lốn xung quanh.
“Người yên tâm! Vào ngày thứ ba, người sẽ phục sinh. Chúa chết đi là để phục sinh trở lại, vĩ đại hơn và thiêng liêng hơn. Chúng con chỉ đang làm điều đúng đắn!” Con cua có được ân tứ nói tiếng lạ trả lời lão, vẫn cái giọng ngọng nghịu và nhúc nhắc từng chữ một.
Lão trố mắt, vô thức nuốt khan, lão thấy cổ họng mình rát bỏng, trong miệng thì nồng tanh vị của máu. Khuôn mặt lão co rúm lại trong một nỗi khiếp đảm, nước mắt sống trào ra hai bên khoé mắt, không biết là vì đau hay vì sợ.
Đừng có đùa ác như vậy! Lão nào có khả năng phục sinh. Đúng rồi, lão không có khả năng phục sinh. Vì lão không phải là Chúa nên không thể có khả năng đó. Vậy mà, từ trước đến nay lão cứ nghĩ miễn là mình ban phát sự sống thì đã quyền uy như Chúa, lão cứ nghĩ miễn rằng mình hành xử rộng lượng và ban phát tình yêu thương như Chúa thì lão sẽ trở thành Chúa, ít nhất là đối với lũ cua. Đối với chúng, quyền lực của lão có thua gì? Nhưng không, trời ơi tại sao đến bây giờ lão mới nhận ra cái điều khác biệt tiên quyết đó, cái điều mà bây giờ có biết thì đã muộn màng. Lão đã vượt quyền hạn của chính mình.
“Không! Ta không muốn làm Chúa nữa. Tha cho ta! Làm ơn, tha cho ta!” Lão rền rĩ nhưng âm thanh lại tắt nghẽn trong cổ họng nên chỉ có thể phát ra những tiếng thều thào yếu ớt. “Ta sai rồi, tụi bây đừng giết ta, ta không làm Chúa nữa!”
Nhưng khi lão đổ gục xuống, cơ thể lão không còn cảm nhận được vô số cái đau điếng trên từng tấc da thịt mà bọn cua đang kẹp chặt, nhưng dù không còn đau thì lão cũng không cựa quậy nữa. Lão nằm đó, nhìn lên ban thờ đặt những pho tượng Đức Mẹ bế Chúa Hài Đồng, tượng Chúa bị đóng đinh câu rút được treo ở nơi cao nhất. Lão nằm bất động trong một trạng thái lạ lùng.
Lão nghĩ: có khi nào, có khi nào không? Có khi nào đúng như con vật được lão ban cho ân tứ tiếng lạ để trò chuyện với lão đã nói, rằng lão sẽ phục sinh thật, bởi vì… Kìa, lão nhìn thấy một quầng sáng hiện ra trước mắt, ở giữa trần nhà rồi bắt đầu lan rộng, và kìa, lão cảm nhận được một cái gì đó như phép màu thanh lọc toả ra từ trong thứ ánh sáng ấy, lão thấy đường đi mà chỉ cần mình đặt chân và bước từng bước thì lão sẽ chạm đến sự vĩnh cửu.
Trong cái khoảnh khắc chợt bừng lên của hai hòn đá đánh cạch vào nhau làm văng ra một tia lửa nhỏ nhoi nhưng tiềm tàng sức sống ấy, lão như thấy những bàn tay đang vươn ra vẫy gọi mình từ phía đó. Và lão tự hỏi tại sao những đau buồn đã trôi qua và lắng xuống bao nhiêu năm nay, thời gian dài chứ đâu có ít, ấy thế mà lại có lúc chúng phát khởi và bùng lên mạnh mẽ vô duyên cớ rồi hành hạ con người ta như thế. Có những cú đánh mà phải rất lâu, rất lâu về sau, năm mười năm, hai mươi năm, hay còn lâu hơn thế, người ta mới dần cảm nhận được hết cái đau do nó mang lại.
Những chiếc chân cua gõ lộc cộc trên sàn, chúng đã phủ kín người lão, và con dao dần dần được mang đến. Nhưng lão lúc này chỉ biết mở mắt trừng trừng như bị hút vào cái nguồn sáng trước mắt. Trong lúc lão còn say mê thì con dao đã được kề sát vào cổ.
Lão đặt cược một phen vì biết đâu lão là Chúa thật và sau khi chết lão có thể phục sinh thật.
Lưỡi dao cũ kỹ và bị mẻ ở vài chỗ, lại thêm những con cua phải rất chật vật mới sử dụng được nó, vì thế mà vết cắt trên cổ lão Khải chẳng đẹp đẽ gì cho cam, nó nham nhở, tan nát, nó rách bươm và mở hoác ra. Và trông nó càng xấu xí thế nào thì có thể đoán được cuộc hành hình đã diễn ra kinh khủng đến thế ấy.
Nhưng ai mà biết được, không làm thử thì sao mà biết rằng liệu lão có khả năng sẽ phục sinh vào một ngày nào đó? Lão tin vậy. Bởi vì biết đâu…
.
Thành phố Hồ Chí Minh, 7/1/2023
-HẾT-
2 Bình luận