• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 01 : one shot

One Shot

1 Bình luận - Độ dài: 4,316 từ - Cập nhật:

---❧•❧---

Đó là một buổi chiều đông lạnh giá, tuyết phủ kín mọi nẻo đường, người trong thị trấn phải dành ra cả ngày giời chỉ để cào tuyết. Nhưng đâu vẫn hoàn đấy. Trên các bờ tường, bụi dậu, hay những mái che của sạp hàng ngoài chợ vẫn nặng trĩu những ngọn núi nhỏ trắng tinh.

Tôi rũ chiếc áo rạ sờn vai, rồi bước vào hàng hoa ven đường: “Mọi chuyện vẫn tốt chứ dì Miner?”

“Ồ! Cậu Noy!” Dì hồ hởi, lau nhanh bàn tay vào chiếc tạp rề cũ đang mặc trên người: “Về bao giờ thế?”

“Cũng mới thôi!” Tôi nhún vai, rồi khéo léo từ chối lời mời ngồi chơi khi thấy trong nhà chả có ai ngoài dì, một cô gái trẻ vừa tròn hai mươi. Nhìn bộ dạng thở không ra hơi của cô thì hẳn là đống quần áo đằng kia chính là thủ phạm.

“Vẫn chăm chỉ như ngày nào nhỉ, quý cô nhà Veona!”

Tôi bật cười rồi lấy một hộp nhỏ trong vali đặt xuống bàn: “Quà cho cô này!”

Dì Miner chun chiếc mũi nhỏ, cố gắng phản đối sự cợt nhả của tôi, nhưng rồi mọi sự chú ý lại đặt cả vào chiếc kẹp hoa vừa mới bóc. Cô hí hửng ướm nó lên suối tóc nâu mà bỏ quên cả việc giữ ý tứ trước người khác. Tôi bĩu môi toan rời đi.

“À cậu Noy! Gã dị hợm chết rồi đó. Mới sáng nay xong!”

Tôi giật mình đến điếng người.

Chết rồi sao? Nhanh vậy!

Cách đây mấy hôm, gã vẫn còn lượn lờ dưới phố kia mà. Trông khỏe mạnh lắm. Có ốm đau gì đâu.

Tôi nhăn mặt, cố gắng tìm ra nét đùa cợt trên gương mặt thản nhiên của dì Miner. Bởi dẫu sao thì người dân ở đây cũng chả ưa cho gã lắm. Một kẻ dị hợm nhưng lại điểm trai đến lạ lùng, tới mức mà mọi cô gái đều sẵn sàng dừng tất cả công việc lại, chỉ để nhìn xuống phố mỗi khi gã đi qua. Và thật kì lạ khi một kẻ như thế lại không được chào đón ở đây.

Người ta đồn rằng, tất cả cũng tại thái độ của gã.

Tôi cũng từng nghe qua về những câu chuyện như thế. Về một kẻ chưa bao giờ đáp lại lời mời gọi của các cô thiếu nữ, dù là đồng ý hay từ chối. Hắn cứ dửng dưng như thể mọi chuyện chả liên quan gì tới mình. Nhưng chính sự không mặn mà ấy lại khiến cho người ta trở nên điên cuồng, càng lún sâu hơn vào đôi con ngươi xanh thẳm đến hút hồn, khiến cho không biết bao nhiêu cô gái đã ngày đêm thổn thức.

Nhưng khi mọi thứ quá khó để đạt được, người ta bắt đầu buông bỏ, rồi trở nên căm ghét và giận dữ. Những lời đồn thổi về cuộc ăn chơi chác táng của hắn dần được lan rộng, đến nỗi mà tất cả mọi người đều khinh khỉnh trước sự xuất hiện của hắn, kẻ mà cách đây ít lâu vẫn là tượng đài bất diệt trong lòng các cô thiếu nữ.

“Người ta tìm thấy xác gã ở bìa rừng, vùi trong tuyết trắng!”

Dì Miner đủng đỉnh tiếp chuyện, giọng điệu dửng dưng chẳng chút cảm xúc, dù rằng trước đây, chính cô cũng từng điên đảo vì sự hiện diện của gã, “Gần đó còn có cả một con gấu nữa. Cả hai đều chết ngắc. Họ nói rằng, gã dùng một con dao nhỏ để chiến đấu với nó. Đúng là điên hết mức!”

Tôi gật đầu giả vờ đồng ý để che đi sự bối rối trong lòng. Rằng tại sao hắn phải đi sắn đêm, rằng tại sao lại phải chiến đấu với con gấu để rồi ra đi trong im lặng. Mà với gia cảnh của hắn thì đâu đến mức phải vào rừng đi săn kia chứ.

Có quá nhiều thứ cần phải giải quyết khiến tôi không thể tập trung nghe nốt câu chuyện của gì Miner, người vẫn thao thao bất tuyệt mà chả hay vị khách đã về từ lúc nào.

Bên ngoài lúc này cũng đã nhá nhém. Trong cái chập choạng của nửa sáng, nửa tối, người dân bắt đầu treo những ngọn đèn bão rước cửa nhà, như để thắp lên hi vọng giữa thế giới ảm đạm tràn ngập tuyết trắng.

Vừa đến đầu ngõ, tôi thấy ngay bóng ông Henry đang lù dù ở trước cổng. Dưới chiếc ô màu đen là một bộ tang phục chẳng lẫn vào đâu được.

Vậy là hắn đi thật rồi!

Tôi còn chưa kịp hỏi vì sao hắn lại thịt con vẹt mà mình yêu quý hơn cả sinh mạng, để rồi bị người trong thị trấn xa lánh đến cùng cực, tựa như một kẻ máu lạnh không có tình người.

Nghe thấy tiếng lộp xộp trên tuyết trắng, lão ngẩng dậy, cố gắng nặn ra nụ cười cùng tông giọng hồ hởi: “Cuối cùng thì ngài cũng đã về!”, chỉ có điều, đôi mắt đượm buồn ẩn sâu dưới mái tóc lưa thưa bạc đã phản bội tất cả.

Tôi chỉ còn biết thở dài thườn thượt: “Vâng! Tôi về rồi đây!”

Vai ông Henry run lên bần bật cùng với cơn suyễn dữ dội. Chắc bệnh cũ lại tái phát. Mà lão cũng già rồi, đã không còn trẻ trung gì nữa để đứng đợi dưới con mưa tuyết. Tôi vội vã mơ cổng, nhưng lão từ chối mà ngỏ lời mời cho bữa trà muộn. Tôi gật đầu coi như biết, không đồng ý, cũng không chối từ, rồi lẳng lặng xách vali vào nhà.

...

Sau bữa tối qua loa, tôi nằm bò trên giường, muốn chợp mắt mà không tài nào ngủ nổi, những dòng suy nghĩ cứ nối tiếp nhau, chợt đến rồi chợt đi. Cho đến tận lúc nửa đêm, khi cả thị trấn đã chìm vào trong giấc ngủ, tôi vẫn trằn trọc ngồi bên cửa sổ, ôm tách coffe nóng hổi, vừa nhấm nháp vừa cân nhắc về lời mời lúc ban chiều.

Theo lẽ thông thường, chẳng ai có thể từ chối sự thịnh tình ấy, nhưng nếu là căn nhà của gã dị hợm thì lại là một chuyện khác, bởi họ sẽ ghét luôn cả những ai qua lại nơi đó. Nhưng nếu không đi, tôi chắc chăn rằng mình sẽ không còn cơ hội để biết được mọi thứ. Càng nghĩ lại càng khó ngủ. Tôi lần mò đến cây viết lông màu đen cất trong ngắn kéo, rồi bất chợt siết chặt. Bản năng của người cầm bút bất chợt chỗi dậy. Tôi với vội chiếc áo khoác cũ rồi băng ra đường. Trời vẫn tối thui và tuyết vẫn rơi như chưa hề biết mệt. Nhà gã cũng không xa lắm, chỉ độ chừng mươi bước chân là cùng, nhưng với tôi đó là cả một chằng đường dài của sự nỗ lực.

Vừa đến nơi, tôi đã thấy ông Henry đứng ở trước cửa với một nụ cười mỉm hệt như biết trước mọi thứ.

Theo sau bước chân của lão, tôi chợt thấy hai chiếc vali dạng kéo xếp sẵn ở một góc.

“Ông định đi à?”

“Vâng!”

Lão vừa pha trà vừa đáp: “Tôi định rời đi vào rạng sáng ngày mai, mang theo tro cốt của cậu chủ về quê nhà. Chứ sông ở đây không được nưa rồi!”

Tôi gật gù đồng ý. Dù sao thì lão cũng đã già, mà người ở đây cũng chả ưa gì cái sự hiện diện của họ. Thôi thì cứ đi cho nó khỏe, chứ nhỡ đâu lại đổ bệnh thì ốm.

“Mà ông giáo này!” Đột nhiên lão đánh mắt về phía tôi, hỏi dò: “Ngài ấy đâu phải là một con người như vậy đúng không?”

Tôi lặng cả người.

Đến tận bây giờ mà lão vẫn còn như vậy. Vẫn muốn thanh minh cho cái chết của gã. Nhưng làm vậy cũng có ích gì đâu. Bởi mọi thứ đã kết thúc rồi và gã. Cũng đã chết!

Thấy tôi im lặng, ông Henry thốt lên trong nghẹn ngào, hai mắt mờ hẳn đi: “Thế là đến cả ngài cũng cho là như vậy sao? Hỡi ôi! Thế mà tôi cứ đinh linh rằng hai người là bạn cơ đấy!”

Lòng tôi bỗng quặn lại, vì thương cảm cho một con người tận tụy dến tận cùng. Nhưng liệu con người đó có xứng đáng với lòng trung thành ấy, kẻ mà đánh hộc máu mồm đứa trẻ chỉ vì nó cố chôm mấy bông hoa tàn.

“Tôi hiểu mà!” Ông Henry thở dài: “Hiểu cái sự đáng sợ của miệng lưỡi thiên hạ. Nó biến cả một con người tri thức như ông giáo đây trở thành một con chiên ngoan đạo, ngây ngô và khờ dại.”

Tôi dựa hẳn lưng vào thành ghết, lẳng lặng chờ đợi lão đổi chiếc bấc đèn trên ban thờ. Nhưng chẳng hiểu sao lão bỗng nhiên thừ người, hai mắt cũng dại ra hệt như một kẻ mất hồn.

“Ông Henry! Ông Henry!!” Tôi gọi nhỏ vài tiếng khiến lão giật mình lau vội làn hơi nước trên vành mắt đỏ hoe. Chưa bao giờ tôi thấy ông Henry yếu đuối đến như vậy.

Lão cố gắng không chế cảm xúc bằng những cái nắm tay thật chặt rồi tiếp chuyện: “Là một người đọc nhiều, biết nhiều, không biết ông giáo đã từng nghe chuyện này chưa nhỉ? Về một gia đình quý tộc nhỏ ở phía Nam.”

“Ồ!” Tôi bật cười, đặt tách trà xuống bàn, đầy hào hứng: “Có cả một câu chuyện như vậy ư! Vừa hay, bài giảng của tôi còn trống một ít. Nếu không phiền ông có thể kể cho tôi nghe chứ?”

Ông Henry chau mày, cũng không rõ là lão đang giận về thái độ cợt nhả của tôi hay là đang tập trung suy nghĩ một thứ gì đó, mà ánh mắt đột nhiên mãnh liệt đến lạ thường, tựa sống lại trong quá khứ xa xăm.

"Thật lâu... Thật lâu về trước. Có một gia đình quý tộc nọ nổi tiếng ở phương nam. Họ giàu có, hào hoa và trang nhã. Nhưng được biết đến hơn cả lại là Julia, đứa con gái đầu lòng họ. Nàng có vẻ đẹp say đắm động lòng người; cùng với đó là một đôi mắt biếc, tựa như hòn ngọc ngà nằm sâu dưới đáy biển, lung linh và rực rỡ. Chính vì vậy mà ngày ngày nàng sống trong sự tôn thờ và ngưỡng mộ, không một ai có thể làm ngơ trước vẻ đẹp ấy..."

Giọng của ông Henry bỗng trở nên day dứt: "Phải! Sẽ là không một ai nếu như chàng thợ giày sống ở cuối phố, không hết lần này đến lần khác phớt lờ sự hiện diện của nàng - một đóa hoa xinh đẹp mọc giữa xứ sở cằn cỗi. Và cũng chính cái sự thờ ơ ấy lại càng khiến cho chàng nổi bật hơn giữa đám tông đồ khờ khạo.

Nàng Julia như tìm thấy một vùng đất mới, đầy hoang vu và ảm đạm. Để rồi khi kịp nhận ra, nàng đã chìm râu vào đáy vực của tội lỗi.

Còn chàng thợ giày thì ngày càng cảm thấy phiền phức trước sự xuất hiện của nàng, bởi nó luôn kèm theo những trò đùa tinh quái, đến những lần chơi khăm quá chớn, khiến chàng trở nên khốn đốn. Nàng ta rảnh đến mức, có thể ngồi cả ngày ở trước cửa chỉ để phá bĩnh công việc làm ăn mà chàng cất công gây dựng.

Nhưng mặc cho người thợ giày cau có, nàng Julia vẫn nghiễm nhiên làm những điều mình thích, đến mức mà người ta dần quen với những lần mỉa mai của họ. Và tất nhiên, chẳng có ai tin rằng hai người đó sẽ thành một đôi ngoại trừ vị quý tộc kia, người đã gầm lên và nằng nặc đòi giam cầm bông hoa đẹp đẽ trong tòa lâu đài lạnh lẽo, khi biết được đứa con gái cao quý của mình đang qua lại với một tên nghèo kiết xác.

Nhưng thứ gì càng ngắn cấm lại càng khiến con người ta trở nên khao khát.

Trò đời vốn là vậy!"

Lão nhếch mép như mỉa mai thay cho quyết định của vị quý tộc kia:

"Chàng thợ giày dần trở nên sót sa trước những vết xước đỏ chót trên làn da trắng bóc của nàng; hay đôi khi là đôi bàn chân nhỏ nhắn găm vài chiếc gai nhọn.

Có lẽ chính sự ngăn trở của vị bá tước đã thành bước đệm khiến cho trái tim tinh nghịch của nàng Julia trở nên xao xuyến. Nàng không còn phá bĩnh hay chọc ngoáy vào công việc làm ăn của chàng thợ giày như trước nữa, mà thay vào đó là sự im lặng, sự đắm chìm trong mỗi lần băng bó.

Và đó cũng chính là lúc bi kịch bắt đầu.

Khi mà tình yêu vừa mới chớm nở đã bị phát hiện..."

"Là người quý tộc nọ?" Tôi ngắt lời.

Nhưng lão lắc đầu nguầy nguậy: "Tôi ước gì đó là cha của tiểu thư Julia, bởi như vậy, mọi chuyện sẽ đơn giản hơn nhiều. Sẽ không còn cái viễn cảnh chết chóc, người ở lại kẻ ra đi nữa."

"Rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra mà khiến ông sầu thảm đến vậy hả ông Henry?"

Tôi nghiêng đầu, cố gắng dấu đi sự bối rối ở trong lòng mà nghe tiếp: "Không sao đâu ông giáo ạ! Bởi mọi chuyện như được sắp đặt bởi số phận cả rồi!"

Lão nghẹn ngào: "Và kẻ đã ngó lơ mọi chuyện chính là lão quản gia, người đã đưa ra lựa chọn sai lầm thứ hai trong cuộc đời của mình."

"Huh? Sao lại thế!"

Lão cười khổ: "Hẳn là ngài cũng nghĩ rằng, không phải như thế mới là tốt sao? Nhưng đâu ai biết rằng, chính sự khờ khạo ấy lại là bước đệm cuối cùng cho một kết thúc bi ai.

Nàng Julia xinh đẹp và chàng thợ giày như đứng trước trái cấm. Nó ngon lành nhưng cũng đầy cấm đoán. Trước cái sự cám rỗ ấy, tình yêu của họ bùng lên mãnh liệt, tựa như những con thiêu thân lao vào trong biển lửa, một cách say đắm và trận trụi, để rồi khi tỉnh lại mới hay rằng trái ấy đắng vô cùng.

Và cũng giống như bao câu chuyện khác, cha của người con gái đã sắp đặt một cuộc hôn nhân để củng cố cho quyền lực của mình. Nhưng đối với nàng Julia xinh đẹp và mộng mơ thì đó chính là sự phản bội một cách trắng trợn.

Trong đau khổ và tuyệt vọng, nàng muốn trốn đi cùng với chàng thợ giày khờ khạo.

Nhưng hỡi ôi! Thử thách của thần tình ái đâu có dễ dàng như vậy! Hay đúng hơn là luật nhân quả đã đến lúc hồi báo?"

Lão dừng lại, cố gắng trấn tĩnh dòng cảm xúc trong mình rồi hỏi tôi: "Nếu cặp sinh đôi sinh ra là một trai, một gái thì phải làm sao?"

Hà! Thì ra là vậy!

Tôi gật đầu vì đã hiểu được phần nào của câu chuyện, nhưng nếu để họ đến với nhau thì sẽ đi ngược với luân thường đạo lí. Mà nếu không thì đó sẽ là một kết cục rất bi thảm.

"Mọi thứ sẽ không có gì nếu như nàng Julia có thể làm ngơ trước cái sự thật trớ trêu ấy. Nhưng hết lần này đến lần khác, nàng lại là Julia, một bông hoa thiện lương và thuần khiết!"

Lão mếu máo: "Vậy nên nàng quyết định ôm mọi thứ xuống mồ. Mang theo mọi sự hờn tủi, giận dữ và cả sự nhẹ nhõm vì chàng thợ giày có thể sống tiếp.

Nhưng nàng nào hiểu cho cảm xúc của người bị bỏ lại. Nó không đơn giản chị là sự đau khổ khi mất đi người mình yêu, mà còn hơn cả thế nữa, đó là một cảm giác sống không được mà chết cũng chẳng xong.

Ngay cả khi chuyển đến vùng đất mới, nơi mà đáng ra chàng có thể sống yên bình suốt phần đời còn lại, nhưng đâu đó quẩn quanh trong đôi mắt xanh biếc của chàng vẫn còn một dáng hình u uất và tăm tối. Có lẽ nàng Julia chưa từng biến mất trong tâm trí của chàng thợ giày.

Nhưng cũng chính sự luyến tiếc ấy khiến cho người ta tưởng rằng chàng kiêu kì và cao ngạo, đến mức chẳng thèm để tâm đến sự mời gọi của các cô gái, dù là đồng ý hay từ chối. Chàng vẫn thờ ơ và lãnh đạm như thể đó là điều hiển nhiên. Để rồi người ta bắt đầu căm ghét sự hiện diện của chàng, mà đâu có hay ẩn sau sự lạnh nhạt ấy là một trái tim chưa từng được yên giấc về hình bóng của một người con gái.

Những lời đồn độc đoán cũng theo đó mà bay xa, nhưng chàng thợ giày chẳng hề bận tâm. Ấy thế mà người ta vẫn tin rằng chàng lại đi chấp nhặt với một đứa nhỏ..."

"Đó là những ngày cuối thu. Khi cậu bé đang cố với những bông hoa đã úa tàn bên kia bờ dậu gai, thì bị bắt gặp bởi chàng thợ giày. Anh ta không cho cậu cơ hội giải thích mà thẳng thừng giáng những cú bạt tay mạnh mẽ lên khuôn mặt non nớt và khờ dại. Nó mạnh đến mức khóe miệng của cậu bé đã rỉ máu."

Tôi cười mỉm cướp lời của ông Henry, vì đây là một câu chuyện nổi tiếng đến mức ngay cả đứa trẻ ba tuổi cũng từng nghe đến.

"Ồ!" Lão giả vờ ngạc nhiên: "Thì ra, người ta nói như vậy sao? Thế mà tôi cứ tưởng ai cũng biết tường tận cơ đấy. Miệng lưỡi thiên hạ đáng sợ thật! Mà nhân đây tôi cũng có một phiên bản khác của cái miệng lưỡi thiên hạ ấy, không biết ông giáo có muốn nghe không?"

Tôi nhăn mặt gật đầu, cái lão này đúng là thích mỉa mai người khác, hệt như người chủ của mình.

"Chuyện nó là thế này đây!" Lão khề khà với tách trà mới: "Hôm đó, chàng thợ giày vừa về thì bắt gặp một cậu bé chừng mười tuổi đang cố gắng khều khều bên bờ dậu gai. Nhưng thứ cậu ta muốn nào phải những cành hoa tàn, mà là con vẹt quý giá do nàng Julia để lại. Chàng bực lắm, nhưng ai lại đi hơn thua với một đứa trẻ.

Đúng! Cũng chính vì cái suy nghĩ ấy mà hết lần này đến lần khác, chàng đều tha thứ cho hành động vô tri của cậu bé. Nhưng cậu nào biết điểm dừng. Đó là một ngày cuối thu, khi chàng thợ giày vừa đi thăm mộ nàng Julia về thì thấy một cậu bé đang cầm cây gậy nhọn hoắt chọt chọt bên bờ dậu gai. Chỉ có điều mục tiêu lần này của cậu chả phải giàn hoa tàn, hay con vẹt trong chiếc lồng, mà là muốn tận diệt nó.

Chàng giận dữ hẩy cậu bé xuống đất, rồi vội vàng xem lại chiếc lồng chim. Nhưng chả hiểu sao lúc đi ra thì cậu đã bù lu bù loa, máu mũi đầy mồm. Thế là mọi người lại xúm vào chỉ trích chàng mà chả mảy may suy xét thật kĩ. Hẳn là họ có niềm tin tuyệt đối vào cậu bé ấy, đứa trẻ nổi tiếng ngoan ngoãn và lanh lợi.

Thế là chàng thợ giày lại có thêm cái tiếng không biết yêu thương trẻ con, mà đâu một ai biết rằng thằng bé đã thua cuộc trong trò chơi với lũ bạn, và hình phạt là phải trộm bằng được con vẹt sau bờ dậu gai. Hẳn sau bao lần thất bại cậu đã ngộ ra được từ sự lanh lợi của mình rằng, chỉ cần con vẹt chết đi thì chủ của nó sẽ quăng nó đi, và cậu. Chỉ việc nhặt về chiến lợi phẩm ấy.

Nhưng buồn thay người ta càng ngày càng căm ghét chàng thợ giày, đến mức mà không một ai muốn bán cho chàng bất cứ thứ gì.

Mọi chuyện ngày càng tồi tệ khi mùa đông năm nay tuyết rơi dày đặc, khiến cho bệnh suyễn của vị quản gia già trở nên trầm trọng. Chàng thợ giày lo lắng lắm, muốn mua một ít bồ câu về tẩm bổ. Nhưng oái oăm thay cửa hàng đó lại là nhà của đứa bé ấy. Họ nhất quyết không bán gì cho chàng. Giữa đêm tuyết dày đặc, bước chân của chàng rải kín cả thị trấn, nhưng chẳng có gì hơn vài cọng hành lá. Mà chỉ nhiêu đây thì làm ăn được gì cơ chứ.

Chàng thợ giày đau đáu nhìn vào cơ thêt gầy gò của lão quản gia trên giường bệnh rồi lằng lặc bỏ đi, cho đến khi quay lại thì đã có một bát cháo thịt thơm lừng. Cũng nhờ vậy mà vị quản gia qua khỏi cơn nguy kịch trong đêm tuyết ấy. Nhưng từ đó trở đi, lão không còn thấy chiếc lồng cùng con vẹt của nàng Julia nữa. Và ngoài kia, người ta bắt đầu truyền tai nhau về hình ảnh một ai đó chặt đầu chú chim nhỏ giữa đêm tối."

Ông Henry bỗng nhiên ngừng lại, thẫn thờ nhìn vào bấc đèn cạnh hũ tro, rồi đột nhiên khóc nấc lên như một đứa trẻ: "Tại tôi cả! Tại tôi cả ông giáo ạ! Nếu như hồi ấy tôi nghe lời nam tước đem đứa bé ấy đi thật xa, thật xa khỏi vùng đất đó để nó không còn gặp được người chị song sinh của mình thì đâu đến nỗi; nếu như tôi không nhắc nhở nó phải tránh xa nàng Julia xinh đẹp; và nếu như... Nếu như...

Nhưng làm gì còn cơ hội nữa ông giáo ơi! Cả cuộc đời tôi là những chọn lựa của sự lầm lỗi. Và không phải ai khác, thủ phạm gây ra cái chết của ngài ấy chính là tôi đây, lão quản gia già ngu ngốc..."

Tôi yên lặng đợi lão lau đi những giọt nước mắt hối hận, rồi thở dài: “Âu cũng là cái số Ông Henry ạ!”

Lão gật đầu: “Vâng! Tôi cũng biết là thế, nhưng sao khổ quá ông giáo ơi!”, rồi cầm lấy chiếc đèn cầy, đứng dậy: “Thôi! Ngài không cần phải day dứt về sự im lặng của mình nữa đâu. Sống ở thị trấn này, ai cũng thế cả thôi. Phải giữ lấy mình chứ hơi sức đâu mà lo cho người khác. Tôi quý ngài lắm, và chỉ mong sao ngài sớm rời khỏi vùng đất quỷ ám này đi. Chẳng biết bao giờ, nó sẽ nuốt chửng lấy ngài đâu, ông giáo ạ!”

Tôi lẳng lặng nhìn theo dáng ông Henry đang hòa dần cùng bóng tối, chỉ còn ánh nến le lói qua khe cửa như thắp lên hi vọng nhỏ nhoi cuối cùng.

“Sau này…”

“Không sao nữa rồi, ông giáo ạ!” Giọng của ông Henry vang vọng khắp gian nhà: “Cả tôi và ngài ấy đều đã được giải thoát. Khi nhìn thấy nụ cười tươi rói trên gương mặt u buồn ấy, tôi thấy hạnh phúc lắm. Ít ra thì ở bên kia hai người họ sẽ sống hạnh phúc bên nhau!”

“Thế còn kết cục cuối cùng của người quản gia trong câu chuyện miệng lưỡi thiên hạ thì sao?” Tôi gọi với theo, nhưng đáp lại chỉ là tiếng cười giòn tan trên nền tuyết trắng.

Lão đã đi rồi, đem theo hũ tro cốt và hai chiếc vali trở về quê nhà. Cả căn nhà bỗng trở nên thênh thang và lạnh lẽo.

Tôi xách theo chiếc đèn bão trở về nhà.

Ngoài kia bầu trời vẫn đen kịt trong khi tuyết lạnh phủ kín sân.

Rời đi ư?

Liệu rằng ngoài kia sẽ có nơi nào dành cho tôi sao?

Đầu óc tôi bắt đầu trở nên mông lung bởi những dòng suy tưởng kì lạ. Trong hai câu chuyện kia, đâu mới là sự thật. Bởi dù sao tất cả cũng chỉ là những góc nhìn phiến diện mà thôi.

Đúng và sai.

Trắng và đen.

Mọi thứ như hòa lại vào làm một.

Nhưng giờ khắc này, liệu nó có còn quan trọng nữa không?

Và tôi, phải đưa ra sự lựa chọn cho chính mình.

Phía xa, ánh bình minh chợt lóe lên những tia nắng đầu. Ấm áp và chan hòa. Nhưng len lỏi đâu đấy là những bóng đen vô hình đang nuốt gọn nơi đây.

---

Đôi khi thay vì việc phải đưa ra sự lựa chọn rõ ràng giữ đúng và sai…

Chúng ta thường hướng đến sự mập mờ, hay im lặng…

Nó không phải là sợ hãi, mà đơn giản họ chỉ muốn bảo vệ lấy chính mình…

Nhưng nếu phải đưa ra một sự chọn lựa nhất định nào đó…

Thì họ chỉ muốn sống trong “sự thật” của chính mình mà thôi...

Bình luận (1)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

1 Bình luận

nice bro keep going :3
Xem thêm