1860
Tranh Khờ Không có
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Ngoại truyện

Trái tim Sư Tử

0 Bình luận - Độ dài: 6,601 từ - Cập nhật:

"Dạo trước, tôi có dịp ghé thăm thành Aberdeen ở phía cực Bắc Anh Quốc sau chuyến hải trình dài đằng đằng xuất phát từ bờ lục địa bên kia.

Chuyến đi gió bình biển lặng đáng ngạc nhiên, đôi khi làm tôi có chút nhớ nhung cái cảm giác thấp thỏm không ngừng về một quả pháo sắp nổ tại đất nước Hợp Chủng, kể từ ngày tôi được may mắn tham gia lễ kí kết Hiệp ước tại Missouri.

Nhưng đương nhiên, yên bình mang một thú vui rất riêng khiến cho ta nặng lòng thưởng thức. Tôi thường nằm trên boong tàu, ngắm nhìn đàn nhàn biển đuôi xanh tài tình bắt cá. Có lúc chúng ngang nhiên đậu ngay chỗ lan can sắt, vừa rỉa con mồi bắt được, vừa ngạo nghễ nhìn đám người lười rửng mỡ không thấu hiểu giá trị của những giọt mồ hôi. Và khi có một anh bạn thủy thủ xua tay đuổi mấy vị khách ranh mãnh này, chúng chẳng những không vội vã bay đi mà còn thừa dịp khạc một vài khúc xương ăn dở.

Thỉnh thoảng, tôi cũng có tham dự dăm ba bữa tiệc nhỏ của các quý ông quý bà, nhưng chỉ dám cầm ly đứng yên nghe bọn họ đàm đạo vì tự biết thân phận thấp kém. Trừ nỗi lo về sự hỗn loạn sắp xảy tới của vùng đất chúng tôi vừa rời khỏi, cùng một vài niềm nhớ cố hương bất đắc dĩ, thì những mẩu chuyện tán nhảm của các bà các cô thực sự đã khơi gợi cho tôi ít nhiều ý tưởng. Tôi buộc phải công nhận rằng tìm một chỗ có toàn ý kiến một chiều về tất thảy sự vật như nơi đây chưa bao giờ là dễ dàng.

Sau cỡ một tháng, con tàu cuối cùng đã cập bến cảng gần nhất hướng tới Aberdeen. Tôi là hành khách đầu tiên rời tàu, đúng hơn là chỉ có mình tôi. Chốn hạ lưu này không phải điểm đến của các vị ấy. Tôi hết lòng cảm ơn ngài thuyền trưởng đã tốt bụng, đồng thời gửi lời xin lỗi vì sự vô phép của mình mà khiến cơn buồn nôn say sóng của một số tiểu thư phải kéo dài thêm chút ít. Tôi tin là bản thân đã nói rất chân thành.

Chân tay tôi được một phen bủn rủn khi lâu rồi mới chạm chân vào đất liền. Cộng thêm cái mùi ngai ngái của đất hòa đầy kì diệu vào vị mặn của gió biển làm tôi ngây người hồi lâu. Hoàng hôn phủ xuống mặt nước bóng nhẫy, tôi dõi mắt theo con tàu nhuốm ánh đỏ tà đang bứt hết tốc lực như chạy giặc ở đằng xa. Họ vội như vậy là có cái lý của họ, đặc biệt là sau khi nghe một người dỡ hàng của cảng cảnh báo về hiện tượng sắp tới.

Bến cảng vắng bóng người dù mới là chớm đầu của buổi đêm, tôi đành xin đi nhờ cùng người dỡ hàng về phía Đông để vào thành. Đôi chân bị thoái hóa tạm thời khi ngồi tàu biển của tôi có vẻ vẫn chưa thích nghi kịp, nhưng chủ yếu là tôi muốn ông ta kể thêm về tai ương Màn Sương Bắc mà ông đã rộng lòng nhắc nhở.

Màn Sương Bắc, hay Nonebi theo tiếng châu Âu cổ, là hiện tượng đặc biệt chỉ xảy ra với đảo quốc sương mù. Chu kì cứ mỗi khoảng mười bốn ngày, từ ngoài biển Hellocean phía Đông Bắc sẽ xuất hiện một màn sương dày đặc khổng lồ đủ tầm vóc bao trọn một tỉnh ập tới vùng Aberdeen trước nay đứng mũi chịu sào. Nếu chỉ có vậy thôi thì không đáng sợ, nhưng hệ quả theo sau nó mới làm bất cứ ai cũng phải kinh hồn bạt vía. Nó mang cái chết trở về.

Tôi tin vào việc thế giới này có những quy luật riêng không thể xóa bỏ, cái chết là một trong số đó. Nhưng đôi lần tôi đã chứng kiến sự bi lụy, bám víu vào quá khứ của những kẻ giàu tình cảm, hay tham vọng ngông cuồng của đám ma thuật sư tạo ra những sự kiện phi thường đến nhường nào. Có điều, chưa lần nào nó đi theo chiều hướng tốt đẹp.

Người dỡ hàng bảo tôi, những sinh vật về từ cõi chết ấy thực chất giống như bị kẻ nào đó điều khiển hơn, Đấng Toàn Năng chẳng hạn. "Bởi chúng nó điên lắm. Không biết sợ, không biết đau, chỉ một mực lao về phía trước như lũ ngựa lồng lộn. Và chúng mạnh, tại không cần suy nghĩ mà, con người nương theo bản năng cũng thường bộc phát như thế. Mỗi khi đàn Mục Quỷ tới, tôi lại nghĩ đó phải chăng là sự trừng phạt mà Quý Bà Bạch Tuộc dành tặng cho những người sống dựa vào biển khơi như chúng tôi..." Tôi đây xin trích nguyên văn ánh mắt thành kính đến kinh sợ của ông bạn nhiệt tình này.

Quân lính gọi đám vất vưởng ấy là Vault - kho bạc - như một cách mỉa mai sự vô giá trị của chúng đối với tử thần. Người dân thì lại thường gọi lũ chúng nó bằng một cái tên dân dã và dễ đi vào lòng người hơn: Mục Quỷ - những con quỷ mục rữa.

Chúng tôi đến thành Aberdeen đúng lúc tháp chuông đồng hồ điểm tám giờ tối. Nơi đây là một tòa thành quân sự, thành ra tôi đã phải khá chật vật mới được những anh lính gác cổng cần mẫn cho phép tiến vào. Người dỡ hàng chỉ đường cho tôi tới một quán trọ bình dân, vừa tung đồng xu bạc vừa vui vẻ rời đi. Tôi nghĩ mình nên đến quán rượu trước, thầm mong các quý ông ở đó cũng hào phóng lõi sự đời như chỗ khác mà kể cho cả quán nghe những mẩu truyện kì thú phiêu lưu.

Tiếng kêu oang oác của loài quạ muối như xé toạc bức màn tĩnh lặng. Chúng đã bắt đầu chuyến săn đêm.

Thành Aberdeen còn có tên gọi khác là thành Xám, bởi hết thảy kiến trúc nơi đây đều do đá hoa cương kiến tạo, từ tường thành, công sự đến nhà dân, đường sá. Cảm giác sần sùi chắc chắn truyền qua đôi giày da thuộc, cùng bốn bức tường cao ngất có những người lính đứng nghiêm trang y như mấy con bù nhìn dọa nạt, khiến một kẻ hay sợ sệt như tôi cũng thấy an tâm ít nhiều.

Tối muộn nên chẳng có mấy người ra phố, hoặc truyền thống nơi đây không cho phép các bậc nữ lưu xuống đường nhảy múa, cổ vũ tinh thần cho những đấng anh hào chuẩn bị xuất quân như ở xứ sở cờ hoa. Tôi bước vào một quán rượu có tên "Nước Giải Kì Mã" - chủ quán quả là một người vô cùng tinh tế và khôn ngoan, khi khéo léo vận dụng truyền thuyết nước tiểu của sinh vật huyền bí "Kì Mã" có khả năng ban ma thuật cùng sự bất tử để lôi kéo khách hàng.

Tôi hân hạnh được biết thêm ngài ta còn là một quý ông tao nhã khi đã vô cùng nồng hậu chào đón tôi bằng những lời lẽ không nhiều người thích nghe. Ấy là bởi tôi vào quán đúng lúc ông định bụng đóng cửa, và thế là vì miếng cơm manh áo, ông buộc phải nhẫn nại ngồi nghe ba chàng lính quèn tiếp tục khua khoắng tay chân kể về chú sư tử vùng Edinburgh dũng mãnh.

Tôi thầm tạ ơn đất mẹ dịp may này.

Tôi ngã mũ chào ba chàng quân nhân đã tận hiến vì đất nước nơi biên ải, bọn họ cũng cực kỳ tử tế chào lại khi tôi nhắc đến việc bày tỏ lòng biết ơn của mình bằng ba cốc bia Ale. Tôi vinh dự được họ mời ngồi hầu chuyện, sao tôi có thể từ chối đây.

Được biết, ba anh đều là binh lính trực thuộc quân đội thành Aberdeen do tướng Lockwood thống lĩnh. Nhưng khi tôi hỏi đến vấn đề quân kỷ có cho phép họ ra ngoài chè chén trong tình hình này không, họ chỉ cười trừ khiêm tốn bảo rằng nhiệm vụ ngày mai của họ không phải thủ thành mà là thu dọn chiến trường nhằm phòng ngừa dịch bệnh, và chuyện đó phải đến tận trưa. Họ đáp trả sự lo lắng của tôi bằng những lời giải thích dài lê thê về tầm quan trọng trong nhiệm vụ của mình, đôi khi kèm một vài lời chửi rủa ngài đại đội trưởng vui tính thỉnh thoảng xén bớt phần tiền thưởng.

Chúng tôi ngồi đến hơn chín giờ tối thì cuối cùng ông chủ quán dường như đã không kiên nhẫn nổi nữa. Ông lịch sự mời chúng tôi về bằng ngôn từ sặc mùi nắm đấm. Và tôi cùng hai anh lính khác phải hết sức can ngăn chàng quân nhân lực lưỡng nhất bọn không lao vào đòi tâm sự thêm với chủ quán đến tận bình minh.

Tôi có đôi phần tiếc nuối do chưa thu được nhiều tin tức về tai ương Màn Sương Bắc sáng ngày mai, ngoại trừ sự đặc tả đáng ngạc nhiên về mùi ươn thối, cảm giác nhớp nháp và cặp mắt đen trợn trừng của đám Mục Quỷ. Tôi buộc lòng phải có lời khen cho những mỹ từ không thua gì nhà hùng biện được thốt ra bởi ba chàng, hòng thuyết phục tôi tin rằng họ đã chịu nhiều gian nan cực nhọc như thế nào.

Tôi xin phép được hộ tống ba người về khu nhà ở dành cho binh sĩ, bởi họ say quá rồi. Anh thì đi đứng xiêu vẹo, anh thì díu hết cả mắt, người nào cũng ê a những ca từ vô nghĩa y như mấy đứa trẻ sơ sinh. Ngoài đường đã vắng tanh vắng ngắt, một hai chiếc đèn treo hiếm hoi còn sót lại tỏa sáng lập lòe, tiếng gió thổi u u như báo hiệu cho thiên tai sắp tới. Nhỡ may họ có mệnh hệ gì thì đến khổ, tôi tự nhủ đây là một phần trách nhiệm của mình khi đã níu kéo họ bằng vài ba cốc bia.

Trên đường về, họ tiếp tục bàn luận về con sư tử vùng Edinburgh khi trước, và lúc bấy giờ tôi mới biết là họ thực ra đang nhắc đến một chàng lính cũng thuộc biên chế quân đội thành Aberdeen. Nghe vậy tất nhiên tôi sinh lòng hứng thú, tò mò không biết bậc anh tài nào có khả năng khiến ba quý ông đây ngưỡng mộ không hết lời qua những tiếng lè nhè đố kị.

Người quân nhân ấy tên là Richard, năm nay chưa tròn hai mươi tuổi nhưng đã được tướng Lockwood công nhận là chàng trai dũng cảm nhất đất hoa cương. Cậu luôn là người xung phong đi đầu trong cuộc chiến chống lại Mục quỷ Vault, và cũng là kẻ cuối cùng trở lại trận doanh khi lớp sương mù tan hết. Những phát súng của cậu luôn chuẩn xác, và kiếm thuật cũng thuộc hàng thượng thừa. Nghe đâu hai năm qua từ khi Aberdeen được cậu bảo vệ, chưa một "kho tiền" dơ bẩn nào có thể thuận lợi tuồn vào trong, dù chỉ là đến cổng thành.

"Nghiêm cẩn và kiêu ngạo." Đó là câu chốt lại sau cùng của cả ba anh lính khi chia tay tôi và chếnh choáng bước về khu kí túc quân sự. Tôi hơi mỉm cười, tự hỏi liệu họ có biết trong một số trường hợp, hai tính từ ấy được coi là đồng nghĩa hay không.

Khu nhà ở dành cho binh lính nằm ở phía Tây Bắc tòa thành, im lìm trong màn đêm tĩnh lặng. Họ cần nghỉ ngơi dưỡng sức để bước vào trận chiến thường kỳ sáng mai. Xung quanh nhà dân cũng hoàn toàn phăng phắc, vầng trăng tròn vành vạnh trên trời cao đã ngủ yên sau tầng mây sương mỏng.

Tôi nghĩ thật hiếm hoi bản thân mới được bao trùm bởi yên tĩnh như lúc này. Ở Tân Thế Giới, dường như không có ranh giới giữa ngày và đêm. Những bữa tiệc thâu tới sáng của giới quan chức, tiếng sắt rơi ở công trường, nhạc Bleues an ủi của dân Faunan trong giờ nghỉ, ánh đèn phố, âm máy kẹt, cuộc cách mạng, súng vang,... Họ làm gì có thì giờ xa xỉ nằm nghỉ ngơi, hay bất hạnh bị thế lực kì bí của tự nhiên tiến đánh, trong khi ghim súng vào sau lưng nhau đã là một trò chơi quá đủ tao nhã.

Sự đối lập lạ lẫm này quả đem lại cho tôi đủ cảm xúc khôn tả. Nhưng khát khao được nằm ngủ mà không bị nỗi lo xa tròng trành bấp bênh khi trên biển bỗng nhiên trỗi dậy mãnh liệt trong tâm. Tôi nghĩ đã đến lúc mình tìm một quán trọ.

Sáng hôm sau, đâu đó khoảng sáu giờ, tôi quá bộ đến gặp mặt tướng Lockwood qua chút quen biết ít ỏi thời xa xưa, và xin ngài cho phép được quan sát sự thất bại của đám Vault trên tường thành. Tôi khá bất ngờ khi người đàn ông truyền thống như ngài biết chút danh mọn của mình, và đặc biệt là không chỉ chấp thuận lời đề nghị mà còn đích thân cam đoan sẽ bảo vệ tôi an toàn.

Bình minh trên Đồi Aberdeen thực sự khiến tôi cảm thấy rùng mình.

Những đám mây dày đặc, kết thành tảng, che lấp bầu trời làm tôi liên tưởng tới miếng cá sống vừa mới lọc xương. Từng múi thịt đỏ hồng của nó chớp lóe, ẩn hiện mập mờ bên trong thứ sắc màu đen kịt, e rằng sẽ khiến bất cứ chiến binh dũng cảm nào cũng phải dè chừng nếm thử. Nó bắt đầu cuồn cuộn ập xuống như sóng trào, phát ra những âm thanh quái gở u uất, tựa tiếng vọng ai oán của những sinh vật rác rưởi đã bị cả sự sống lẫn cái chết chối từ.

Bầu không khí trầm mặc chạy dọc tường thành Kirkwall dài đến năm mươi dặm Anh. Không tiếng động đậy, tất cả ai ai cũng căng thẳng và chăm chú nhìn về trước. Đây chính là phòng tuyến chính phía Bắc, kéo dài tới vùng núi Thursinver ở đằng Tây. Và Aberdeen có thể nói là cột sống trụ chống đỡ cho các đốt xương - đồn trú khác.

"Chúng đã tới." Bên cạnh tôi, ngài Lockwood khẽ nói với một người đội trưởng, sau đó anh ta lại chuyển cho người bên cạnh, cứ thế rất nhanh đi hết Kirkwall. Một lời cảnh báo, đồng thời là sự xác nhận âm thầm rằng họ đã sẵn sàng.

Đối với một kẻ ưa thích các câu chuyện như tôi, sở hữu đôi tai thính sẽ có lợi thế rất lớn trong việc mà người ta vẫn gọi là hóng hớt, tôi thì thích bốn từ "bắt kịp tình hình" hơn. Đồng thời với âm báo hiệu, tai tôi bắt đầu nghe thấy những tiếng như vẩy nước, bì bõm và lạch bạch. Tôi buộc lòng phải tự hỏi ngài Lockwood làm cách nào có thể xác định chính xác thời điểm bọn chúng đến tại một nơi tối om cách bờ biển gần một cây số như vậy. Kinh nghiệm quả là thứ đáng sợ nhất trong một cuộc chiến.

Thật ngược đời khi mặt trời càng lên cao, bầu trời lại càng tối. Những vệt đỏ cuối cùng đã bị nuốt chửng. Có thời, tôi sống ở lãnh địa của các vị thần là Nga, gần nửa năm trời chìm trong bóng tối. Nhưng khi ấy là mặt trời không chịu dậy, chứ nào có phải do tầng tầng sương mù che khuất như bây giờ. Mùi tanh mặn từ gió biển thổi vào thật nồng làm tôi không khỏi chau mày.

Tướng Lockwood nhấc lên khẩu súng trường mũi kim, hướng nòng vào màn sương đặc sệt đang chậm chạp sà xuống, và nạp đạn.

Tầm nhìn hoàn toàn bị hạn chế, cũng không ai mang đèn vì điều đó chẳng khác gì một tín hiệu dẫn dụ cái bản năng mù quáng của lũ Vault. Cuộc chiến phòng thủ này hoàn toàn dựa vào sự điều khiển nhạy bén của người chỉ huy, khả năng ứng biến đã qua huấn luyện chỉn chu của quân sĩ, và tính chủ động. Tất nhiên là cả bức tường chắn khó lòng vượt qua nữa.

Với cương vị là người nắm rõ nhất lãnh địa mình cai quản, ngài Lockwood đã cho tôi một cái nhìn sơ bộ nhất, cũng như một số thông tin vặt vãnh thú vị về cuộc chiến trước nay không hề cân sức này.

Cơ bản thì quân thủ thành được chia làm hai đội là Taker và Taxer. Taker - những gã thu tiền sẽ từ trên tường thành tấn công trước vào các kho bạc đang lê lết hòng tiêu hao phần lớn bọn chúng. Chẳng may nếu có đồng xu nào lọt lưới, Taxer - đám đánh thuế đứng dưới chân thành cũng sẽ chặn đánh và bòn rút sạch sành sanh.

Biết được trận chiến chống lại Màn Sương Bắc thực ra không mấy khó khăn làm tôi vơi nhiều đi niềm hứng thú. Theo lời ngài Lockwood thì trừ lần đầu tiên xảy ra cách đây hơn trăm năm khiến họ không kịp trở tay ra thì chưa con Mục Quỷ nào có thể tiến nhập thành. Nhưng cũng có lần xuất hiện một thể biến dị chạy đến tận rừng Thursinver và làm chết mất một người. "Miễn là chúng tôi cẩn trọng và giữ vững đội hình." Ngài nói.

Kì thực cuộc chiến dễ dàng theo đúng nghĩa của nó. Hầu hết Vault là cá chết vừa và nhỏ chứ không phải "người" như ban đầu tôi nghĩ, mặc dù không ít ngư dân nơi đây theo tín ngưỡng Quý Bà Bạch Tuộc. Đối phó với chúng rất đơn giản, họ cho đào một con hào và dựng hàng rào tẩm dầu sẵn phía sau, một khi lũ Vault bước vào phạm vi xác định, họ sẽ bắn những mũi tên lửa vào đó để kích thích chúng lao lên như đám thiêu thân. Tuy không thể hoàn toàn diệt trừ nhưng cũng phần nào cản được phần lớn đám Mục Quỷ bò trên đất, giúp họ có thêm thời gian đối phó.

Tôi nhắc đến quỷ biết bò thì tức là có quỷ biết bay - đám này là mối lo ngại lớn nhất cùng một vài thể bất thường. Chúng lao vút như tên làm các Taker và Taxer được một phen chật vật mới thu thập xong xuôi kho báu bằng những phát súng chính xác như tập trận hàng ngày. Và thú thật, chứng kiến cảnh lũ Vault có thể bay làm tôi buộc phải dấy lên mối đa nghi về việc có bàn tay của ai đó nhúng trong hiện tượng này hay không.

Tướng Lockwood quan sát chiến trường, liên tục đưa ra các mệnh lệnh. Ngài phụ trách khu vực cổng chính là nơi tập trung đông Vault nhất nên rõ ràng áp lực nặng nề hơn hẳn. Tôi không hiểu nhiều về quân sự nên không dám đưa ra bất cứ nhận định hay bình phẩm nào. Nhưng qua những chỉ thị kịp thời khi xuất hiện lỗ hổng do một cậu lính quá "hăng máu," hay cấp tốc lệnh quân ngũ lùi nửa bước khi một Vault kỳ lân biển biến dị lao tới, đã cho thấy ngài là một người tự tin nhưng không hề khinh địch.

Cuộc chiến kéo dài từ hơn bảy giờ sáng tới mười giờ sáng. Tính tôi không ưa mấy vụ xung đột lắm, nên thành ra đứng suốt ba tiếng đồng hồ nó hơi quá sức. Tàn cuộc chỉ còn sót lại những tiếng chìm nghỉm của thép nguội đâm vào thịt, thuốc súng có hạn nên đã hạ xuống từ lâu. Đám biến dị đã bị hạ gục hết, nhưng lũ cá cùng cua chết vẫn đông đến một đám. Chúng nhỏ mà cứ nhảy tưng tưng làm mấy ngọn đuốc toàn vồ hụt, chưa kể xác chết đã chất chồng, chảy ra mấy chất dịch nhầy nhụa khó di chuyển.

"Giờ không cần theo hàng ngũ nữa," ngài Lockwood nói, giọng thoái mái khác hẳn vẻ nghiêm nghị trước đó, "nguy hiểm đã qua." Màn sương bắt đầu rút bớt, đúng hơn là bốc hơi cho ánh dương thế chỗ vào. Quân Taker trên tường thành nhẹ nhõm cười nói, thu dọn quân dụng và lui dần, trong khi đội Taxer phòng thủ phía dưới vẫn xử lí nốt Mục Quỷ.

Đột nhiên, từ dưới đất một Vault rùa lưng da trồi lên đúng lúc tôi đang nhìn về hướng đó, khiến cả người tôi giật nảy, đến tướng Lockwood cũng bật cười vì sự nhút nhát đáng xấu hổ này. Con rùa là một biến dị, mai thủng hẳn một lỗ lớn. Nó nhe hàm răng như lưỡi cưa định táp vào chân cậu Taxer ngay đó, nhưng cậu ta đã nhanh chóng tránh được, còn kịp thời vung kiếm cắt phăng luôn cái đầu.

Ngài Lockwood bỗng hỏi tôi thấy cậu ta thế nào. Tôi cũng rất thành thật không tiếc lời khen dành cho sự nhanh nhẹn của cậu. Ra đó chính là chú sư tử Richard mà ba chàng bợm tối qua nhiệt liệt tán dương. Cậu nấn ná trên chiến trường hồi lâu để kiểm tra, đề phòng bắt trắc, nghe đâu từng có tiền lệ một Vault rươi biển biến dị còn sống lọt vào thành sau trận chiến, khiến cơ số người bị ngộ độc nguồn nước. Quả là một chiến binh tận tụy.

Đến đây tôi phải xin phép về nghỉ ngơi vì không tài nào chịu nổi mùi tanh tưởi của thịt thà ngâm thời gian dài trong nước biển đang bốc lên kinh dị và nồng nặc. Tất nhiên ngài Lockwood hết sức sốt sắng, đã cho gọi một cỗ xe ngựa và một người lính đến hộ tống, nhưng tôi buộc lòng nói lời từ chối vì không muốn làm phiền thêm sự quan tâm của những con người dũng cảm.

Tôi thức dậy lúc gần giữa chiều và ghé qua một quán trà Bergamot ở phía Tây. Điều tôi không ngờ tới nhất là nơi này có phục vụ trà đá ngọt, một phong cách chỉ mới rộ lên trong giới trung lưu Mỹ vài năm trở lại đây. Vậy mà ở Anh nó đã phổ biến cho toàn đại chúng. Có vẻ trí nhớ kém cỏi của tôi về những bữa tiệc trà chiều vốn chỉ dành cho quý bà giàu có nơi đây đã quá đỗi lạc hậu. Đặc biệt hơn, quán được thiết kế theo kiểu phòng trà nhỏ thịnh hành ở Tân Thế Giới đã cho thấy thương nghiệp giữa các châu lục phát triển đến nhường nào.

Khác với những phòng trà được coi là điểm đến tuyệt vời cho lớp người ăn không ngồi rồi nhàn tản ở Mỹ, quán tôi tới chẳng có vị khách nào cả, chỉ có một người chủ đứng tuổi kiêm phục vụ, hai chậu oải hương thơm quyến rũ và ánh nắng nhẹ lách qua khung cửa sổ. Không gian bình yên chốn này quả thực khiến tâm trí tôi dịu đi nhiều sau những cảnh chém giết ban sáng, đồng thời mang đến luồng gió dạt dào ý tưởng. Tôi bèn gọi vài lát bánh ngọt, kèm một tách trà xanh lạnh có pha chút rượu pân.

Sau khi được ông chủ tốt bụng giới thiệu rằng bờ rừng đông của đồi Thursinver có khung cảnh xế chiều cực đẹp và một khóm hoa tử đinh hương kì lạ có thể đổi màu theo thời gian, tôi đã đặt chân tới đó, đâu khoảng năm giờ chiều. Đang là mùa hè nên thời tiết có phần dễ chịu, thậm chí đứng ở trong rừng còn có cảm giác như lạc vào khu vườn mang hơi thở mùa xuân chậm nhịp với hoa nhài, lưu ly, và hoa trúc mai xanh - một loài hoa đặc hữu của Vùng Không Tên. Nhưng thứ đáng chú ý nhất phải kể đến nhúm tử đinh hương mọc quanh một ngôi mộ nhỏ dựa gốc cổ thụ. Nó phát ra ba màu đỏ, vàng, lam, liên tục biến đổi từng màu theo một quy luật nhất định. Cá nhân tôi nghĩ chúng trông hơi giả tạo. Hẳn là do tác động của ma thuật.

Đúng lúc ấy, đôi tai thính như động vật đi săn lẫn bị săn của tôi nghe thấy tiếng bước chân hướng về đây. Đó là một chàng trai trẻ, khuôn mặt góc cạnh, ánh mắt kiên định đúng theo kiểu quân nhân. Điều làm tôi bất ngờ hơn cả khi đó không phải ai khác ngoài Richard - chú sư tử dũng cảm, người mà tôi phải nghe đến ít nhất hai lần trong vòng chưa đầy một ngày. Cậu ta thoáng dừng bước khi thấy tôi đứng trước ngôi mộ, nhưng rồi sau đó lại tiếp tục đi tới. Cậu lịch sự cúi đầu nói "Chào Ngài" và tôi cũng rất lấy làm vinh dự đáp lại.

Tôi khá tin vào duyên phận và rõ ràng đây như một minh chứng kì diệu cho điều ấy. Tôi đứng quan sát cậu đặt một bông cúc xuống, tay khẽ lau lớp bụi vương trên tấm bảng tên. Mỗi động tác của cậu đều nhẹ nhàng và toát ra sự trầm mặc lạ kỳ mà tôi tin chắc là hoàn toàn khác với sáng nay.

Sau hồi lâu thì cậu mở lời, hỏi tôi đến đây ngắm cảnh phải không. Cậu nói cậu có thấy tôi đứng trên tường thành và ngài Lockwood cũng nhắc đến. Tôi và cậu cùng trao đổi một số đề tài phiếm luận và cậu quả quyết là bản thân không hề xứng với lời khen mà tôi đã chân thành tặng cậu vì những kiến thức uyên bác về lịch sử lẫn văn học, xã hội. Khi tôi hỏi cậu nghĩ gì về những rục rịch giữa hai miền Nam Bắc ở bên kia đại dương, cậu không ngần ngại bày tỏ quan điểm đồng tình trong việc giới hạn quyền lợi đối với Faunan, đồng thời nhất mực tin rằng trật tự hiện nay của các quốc gia Châu Âu sẽ khó lòng bị rối loạn như bên đó, ít nhất là hết thế kỉ hiện tại.

"Đó là cô gái của cậu ư, Richard?" Nhưng, cuối cùng sự tò mò vô lễ của tôi đã không thể kiềm được mà dò hỏi về chủ nhân của ngôi mộ trước mặt.

Tôi quả là phiến diện khi nghĩ rằng cậu sẽ tránh né trả lời, nhất là sau khi đã biết cậu là một chàng trai lễ nghĩa nhưng cũng cởi mở. Giọng cậu đều đều như thường lệ, cho tôi biết đúng là vậy, cơ mà có lẽ không phải theo mối quan hệ mà người ta thường nghĩ tới đầu tiên khi nhắc đến một cặp nam nữ.

"Có thể nói nàng là tri âm của tôi, cũng là người thầy đã dạy cho tôi nhiều điều mà sách vở không cách nào truyền tải hết. Tôi tin dù là trí tưởng tượng phi thường của ngài cũng khó mà ngờ rằng ba năm trước tôi là một kẻ hèn nhát và đáng xấu hổ đến nhường nào."

Đôi mắt cậu bỗng trở nên xa xăm, hướng về một nơi nào đó vô định giữa ánh đèn thành thị và bụi sao lấp lánh.

"Tôi được đào tạo quân sự tại thủ đô từ nhỏ và đạt nhiều thành tích xuất sắc. Tôi ngưỡng mộ Công tước Lockwood vì sự cống hiến miệt mài của ngài cho quốc gia và tự tin rằng mình đến đây cũng đủ khả năng đạt được những huân chương tương tự. Nhưng rõ ràng, lý thuyết trên lớp cùng những buổi huấn luyện ít nguy hiểm ở vương đô so với khi chính thức lâm trận là hoàn toàn khác biệt. Tôi không thích nghi kịp, và đã sợ hãi khi chứng kiến người lính bên cạnh mình bị một Vault biến dị cắn đứt cánh tay. Cảm nhận cái chết đích thực gần kề đã khiến bản năng đáng khinh bỉ của tôi vùng chân bỏ chạy. Với tôi, quay lưng bỏ mặc đồng đội chính là nỗi ô nhục lớn nhất của một người lính.

Trong lúc tôi bước đi vật vờ giữa chợ, còn chưa biết đối mặt ra sao với quân pháp, thì tôi gặp được nàng.

Thưa ngài, nghĩ lại thì tôi thấy thật buồn cười và hổ thẹn. Nhưng vì ngài là một quý ông dễ mến và biết lắng nghe, tôi cũng không ngần ngại gì cả mà giãi bày. Khi ấy tôi có mang theo tiền trong người và bị nàng trộm mất. Do vóc dáng nhỏ bé như trẻ con nên tôi không đề phòng khi nàng tiếp cận. Thực ra lúc đó, chuyện tiền nong chẳng đóng góp chút lợi ích nào giúp tôi vơi bớt nỗi khỗ đang có. Nhưng lòng tự tôn cùng sự kiêu hãnh đã thâm căn cố đế trong gia tộc buộc tôi phải đòi lại thứ danh dự đã chẳng mảy may còn giá trị.

Nàng nhanh nhẹn một cách lạ kỳ, và tôi đuổi theo nàng đến ngay chỗ hai chúng ta đang đứng. Nàng dừng lại, nguyên do là bởi sự đeo bám dai dẳng của tôi sẽ dẫn đến nguy cơ chỗ trú ẩn của nàng bị phát hiện. Tôi không khó khăn gì cả, chỉ yêu cầu nàng trả lại đồ cho tôi là xong. Tâm trí lúc đó của tôi không có thì giờ nghĩ tới một cuộc tay đôi và dù sao luật cũng không cho phép chuyện thách đấu với phái nữ. Thế nhưng nàng thật cứng đầu, không những từ chối lòng tốt của tôi mà còn tấn công tôi bằng ma thuật.

Ngài Germain ạ, ngài không biết cái tôi cao ngạo của tôi đã bị xúc phạm như thế nào đâu, và từ trước đến nay tôi vẫn thường giữ một sự ác cảm đặc thù với những kẻ sử dụng ma thuật. Tôi hiểu Anh quốc cần có giới pháp sư để duy trì thế cân bằng, nhưng nàng đây rõ ràng là phù thủy. Tôi đã để phẫn nộ lấn át lí trí và tấn công một cô gái mà khi đó tôi không coi là đáng đứng cùng mình."

Nói đến đây, cậu siết chặt nắm đấm, như đang dằn vặt về sự thiếu thanh lịch cũng như suy nghĩ của bản thân. Tôi không bình phẩm một lời nào vì tôi cũng là người biết chút ít về thuật giả kim. Tôi hiểu được sự xích mích nhiều năm giữa các pháp sư được đào tạo chính thống với đám phù thủy mà họ coi là man rợ ở Rừng Thét. Tôi ngỏ lời, muốn được nghe tiếp câu chuyện của cậu.

"Thưa ngài, tôi vô cùng xấu hổ phải nói với ngài một sự thật mà tôi chưa từng kể với bất kỳ ai khác, để đáp lại sự kiên nhẫn đáng quý mà ngài đã ưu ái dành cho tôi. Ấy là tôi đã thất bại trong cuộc đấu. Tôi không có ý biện hộ cho sự thua cuộc của bản thân là do cách nàng vận dụng ma thuật rất khác so với các pháp sư thuộc Học viện Vô Hình. Tuy tôi đã khinh thường và bất cẩn, nhưng tôi phải công nhận với lòng mình khi đó là nàng có nhiều kinh nghiệm giao chiến hơn tôi vô cùng.

Tôi bị đả kích nặng nề, không phải vì thương tích mà là do sự kém cỏi không cách nào thừa nhận. Những tự hào trước giờ đã bị các sự việc ngày hôm đó hợp lực đánh gục. Tôi mất sạch ý chí để tồn tại.

Gần như vậy.

Nếu lúc đó nàng không đưa tay cứu lấy tôi đang ngập chìm trong biển sâu vô vọng.

Ngài cũng biết, giúp đỡ một kẻ xa lạ thì đó phải là một người sở hữu trái tim bao dung và đáng quý biết bao nhiêu, chưa kể một giây trước, tôi vẫn là kẻ thù của nàng.

Nàng nói rằng đã thấy tôi bỏ chạy, vì từ đồi Thursinver có thể bao quát được toàn cảnh, mắt nàng lại tinh. Nàng nghĩ tôi sẽ là một con mồi dễ dàng, nhưng đâu ngờ tôi lại suy sụp và tan vỡ đến vậy. Nàng, với một khuôn mặt vô tư không vụ lợi, liền ngồi xuống và kể cho tôi câu chuyện của bản thân.

Nàng là một đứa kém cỏi thuộc bộ tộc có tên Tiên Linh, luôn luôn bị chúng bạn cùng tuổi trêu chọc vì sự chậm tiến và nhút nhát của nàng. Nhưng yếu đuối đâu có nghĩa là không thể trở nên mạnh mẽ. Nàng tin vào một ý niệm do chính mình huyễn hoặc ra rằng chính sự yếu đuối của mình là nền tảng để hiểu được giá trị thực của sức mạnh.

"Quan trọng nhất là chính mình phải chấp nhận được thiếu sót của bản thân và dũng cảm truy cầu sự tiến bộ. Đó là một con đường khó khăn, cứ sợ hãi cũng được, nhưng tôi nhất định không được vì thế mà nản chí cùng lùi bước."

Lắng nghe những lời của nàng khi đó thật sự đã cứu rỗi và thanh tỉnh cho sự ngu dốt của tôi nhiều lắm. Nàng kể cho tôi nghe nhiều chuyện linh tinh, phù phiếm khác. Như ngày bé nàng sợ loài ếch Ba Gang có cái bọng to gấp sáu lần thân nó ra sao, hay cái lần nàng phát hiện thế giới sử dụng đồng tiền để giao dịch trao đổi. Nàng đã rời khỏi khu rừng của mình và đến đây - một nơi mà trước giờ không hề có nhận thức, khái niệm nào về nó. "

Giọng cậu có chút nghẹn ngào, nhưng vẫn duy trì được sự rành mạch và dõng dạc vốn có. Nỗi xúc động đang cố kìm nén cùng ánh mắt đầy đam mê của cậu làm tôi nghĩ tới một phẩm chất mà các quý ông Anh thường phạm phải, đó là luôn cần toát ra sự quý tộc, gồng mình đến mức tự làm khổ bản thân.

Tuy tôi không hiểu nhiều về tình yêu tình cảm, nhưng tôi thấy được một sự tôn trọng mà chàng trai dành cho cô gái giờ đây đã không còn trên dương thế. Có lẽ cuộc trò chuyện này đã giúp ích cho cả cậu, và tôi. Tôi tin là cậu hiểu, đôi lúc cũng nên dừng chân một khắc, để sau đó tiến được xa hơn.

Tôi chợt nhớ đến biệt danh "Sư Tử" người ta hay nói mỗi khi nhắc đến cậu, bèn hỏi cậu nghĩ sao.

"Chuyện này làm tôi nhớ đến lần mình kể cho nàng nghe sự tích về Đức vua Richard Sư Tử Tâm vĩ đại mà tôi có vinh dự được trùng tên." Cậu bật cười, tiếp tục. "Đột nhiên, nàng bỗng hỏi tại sao sư tử đực lại có bờm. Tôi không rõ lắm câu trả lời, chỉ ú ớ đáp lại chắc là nó dùng để uy hiếp đối thủ. Nàng cười vui vẻ, nói tôi nên nghỉ ngơi, không cần lúc nào cũng tỏ ra mạnh mẽ như loài sư tử. Nàng, vẫn không cách nào phân biệt được tôi và ngài Richard Sư Tử Tâm thực chất là hai người khác nhau."

Cậu không thẳng thắn nói ra suy nghĩ của mình, nhưng có lẽ tôi phần nào hiểu được, "sư tử" trong lòng cậu có ý nghĩa khác với hai từ người ta thường gọi. Họ chỉ thấy sự oai phong, hùng dũng của vị vua muôn loài khi lâm trận, nhưng đâu biết nó đang phải gắng sức gồng gách trách nhiệm bảo vệ cả tộc đàn.

Sư Tử, là tiếng nhắc nhở giúp chàng trai ấy luôn biết nhìn nhận những ưu, khuyết điểm của chính mình.

Chúng tôi chia tay nhau dưới chân đồi. Mai cậu sẽ về Londinium nên hôm nay đặc biệt tới thăm cô ấy, gửi lời chào tạm biệt, tiện thể chăm sóc đám trúc mai xanh mà cô thích nhất - cậu đã phải cất công thuê người mang chúng về từ Vùng Không Tên. Cậu còn niềm nở cho tôi biết nhúm tử đinh hương đằng kia là loài hoa cậu thích, mong là chúng sẽ giúp nàng bớt cô đơn khi cậu rời đi.

Tôi dõi theo bóng lưng thẳng tắp nghiêm chỉnh của cậu khuất dần, thầm mong những điều tốt đẹp sẽ đến với những ai luôn hướng về phía trước. Có những ngày nắng đẹp trời thì tất sẽ có ngày nhiều giông bão, chỉ có kẻ giữ được mình trong dòng chảy thời thế hỗn loạn mập mờ này mới có thể sinh tồn. Chúc cậu sẽ là một bậc minh quân, Richard. Tôi thực sự mong chờ.

Tôi bước về chiến trường đằng xa, ban sáng còn thật nhộn nhịp, nay đã yên lặng và sạch sẽ như một nấm mồ mới tỉa, chứng tỏ ba quý ông tối qua cùng đồng đội đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Trời quang mây tạnh ngập tràn muôn sao, như phản chiếu lại khung cảnh miền viễn Tây. Đầy mơ mộng, và chật chội. Tôi vẫn còn nhớ nó, cái phồn hoa xô bồ đã ngấm sâu trong lòng tận mấy chục năm không dễ gì mà quên được. Xã hội loài người sẽ còn phát triển, có lẽ tôi cần thích nghi và chấp nhận lấy nó thay vì tránh né, bỏ chạy.

Tiếng kêu quang quác khàn đặc của loài quạ muối vang lên từ thăm thẳm, bắt đầu chuyến săn theo bầy. Chúng là loài có tổ chức xã hội cao.

Một, ba, sáu ngôi sao

Bầu trời đêm vô tận.

Trăng tỏ lòng tiếc hận,

Quạ muối ngươi đâu rồi?

Con mồi đi đâu hết,

Bác thợ săn tự hỏi:

Sao sáng thế hở sao?

...

Trong rừng không mở tiệc

Ngoài suối chẳng còn xanh

Quạ ơi mày đi đâu

Mà lại về chốn cũ?

Chúa sơn lâm vẫn ngủ

Bên miếng thịt để dành.

Hai, bốn, bảy vì sao.

Tôi đoán, đã đến lúc mình nên trở về nhà."

-Đoản Ký Người Kể Truyện, St.G, 16/7/1848-

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận