#2 - Về "Mệnh đề quan hệ".

 Xin chào, lại là tôi, Tôi Report Truyện Của Bạn đây. Nhớ không, cái tên giả vờ tử tế được mấy ngày thì lại đi report truyện ngay ấy?

 Trong các bản dịch tiếng Anh thì mệnh đề quan hệ xuất hiện rất nhiều, nếu không muốn nói là câu nào cũng gặp. Một số dịch giả không chuyên thường rất lúng túng khi xử lí những kiểu câu như thế này, làm cho câu văn trở nên “Tây” hơn là thuần Việt. Thậm chí có vài người dịch ra những câu mà tôi có thể nhanh chóng nhận ra người đó dịch từ Eng hay Raw, và đoán được cả câu gốc.

Những khó khăn trong cách dịch các cấu trúc có chứa đại từ quan hệ tiếng Anh sang tiếng Việt nảy sinh có lẽ là do tiếng Việt của chúng ta không có lớp từ này và vì thế mà người Việt học tiếng Anh khó có thể hình dung ra một hiện tượng ngữ pháp không tồn tại trong tiếng mẹ đẻ. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng ta không có cách nào để biến chuyển những câu văn đó theo hướng thuần Việt. Hi vọng bài viết này sẽ khai thông bế tắc và gợi ý cho các bạn một số cách để xử lí các câu mệnh đề quan hệ sao cho mượt mà hơn.

 Và như thường lệ, bài viết này hoàn toàn dựa theo ý kiến cá nhân của tôi. Các bạn có thể thoải mái chỉ trích phương pháp mà tôi nêu ra dưới đây. Nhưng như vầy sẽ tốn thời gian lắm, vì dù gì tôi cũng chỉ là một con clone rác thôi.

 

Phần 1 – Tổng quát về mệnh đề quan hệ.

 Trước khi đi qua các hướng xử lí, tôi sẽ nêu ra một vài điểm nổi bật của mệnh đề quan hệ. Nói tóm gọn, thuật ngữ “mệnh đề quan hệ” (relative clauses) dùng để chỉ những mệnh đề bắt đầu bằng các đại từ quan hệ (gồm who, whom, whose, which và that) hoặc trạng từ quan hệ (when, where và why), dùng để giải thích rõ hơn về danh từ đứng trước nó. Ví dụ:

  • Yesterday, I read a terrible translation, which made me planned on reporting. = Hôm qua tôi đọc được một bản dịch tệ kinh khủng, làm tôi phải lên kế hoạch report.
  • Did you see the hat that I bought yesterday? = Anh có thấy cái nón em mới mua hôm qua không?

 Bình thường là thế, nhưng các bạn vẫn sẽ gặp những mệnh đề quan hệ đã bị lược bớt các đại từ quan hệ hoặc lược bớt danh từ đứng trước mệnh đề quan hệ. Ta sẽ gọi chúng là mệnh đề quan hệ giản lược. Cụ thể:

  • I couldn’t get married to the girl whom I loved so kindly. = Tôi đã không thể cưới được người con gái mà tôi yêu tha thiết. Ở đây, nếu giữ lại đại từ “whom”, thì ta sẽ có hai từ “the girl” (chỉ người con gái và nhân vật “tôi” yêu tha thiết) và “whom” (cũng chỉ người con gái…) đứng sát nhau. Tuy về mặt ngữ pháp thì không sai, nhưng như thế sẽ gây nên sự lặp lại. Vậy nên người ta sẽ bỏ đại từ quan hệ.
  • I remember the day when Mr C. got banned like it was yesterday. = Tôi vẫn còn nhớ như in cái hôm anh C. bị ban. Tương tự như trên, “the day” và “when” đều chỉ thời điểm mà anh C. bị ban. Khá dư thừa. Vậy nên chúng ta sẽ bỏ một trong hai đi, ở đây ta bỏ danh từ đứng trước mệnh đề quan hệ (tức “the day”).

 Đó là về mặt hình thức, còn về nội dung thì ta có thể chia làm ba loại. Xét các ví dụ:

  • My victim who got reported not so long ago was so pissed that he decided to left Hako and translating manga instead. = Cái tên nạn nhân bị tôi report cách đây không lâu cay đến nỗi quyết rời Hako và chuyển sang mảng manga rồi. (1)
  • One of my victim, who got reported not so long ago, was so pissed that he decided to left Hako and translating manga instead. = Một trong những nạn nhân bị tôi report cách đây không lâu cay đến nỗi quyết rời Hako và chuyển sang mảng manga rồi. (2)
  • One of my victim was so pissed that he decided to left Hako and translating manga, which is not surprising to me. = Một trong những nạn nhân của tôi cay tới nỗi bỏ Hako để sang dịch manga, chuyện này đối với tôi cũng chẳng mấy bất ngờ. (3)

 Ở ví dụ (1), ta có thể thấy mệnh đề “who got reported not so long ago” đóng vai trò quan trọng trong câu. Vì nhân vật “tôi” có nhiều “nạn nhân” quá, nên anh ta cần phải chỉ ra nạn nhân nào để những người đọc tò mò (là các bạn) có thể khoanh vùng và tờ mờ đoán ra đó là ai. Những mệnh đề quan hệ như thế thì được gọi là mệnh đề quan hệ xác định.

 Ở ví dụ (2), mệnh đề “who got reported not so long ago” kẹp giữa hai dấu phẩy có thể được lược bỏ mà chẳng ảnh hưởng đến nghĩa của câu. Những mệnh đề quan hệ như thế thì được gọi là mệnh đề quan hệ không xác định.

 Ở ví dụ (3), mệnh đề “which is not surprising to me” đứng cuối câu có tác dụng nêu lên những thông tin bên lề, bổ sung cho câu đứng trước. Những mệnh đề quan hệ như thế thì được gọi là mệnh đề quan hệ nối tiếp.

 

Phần 2 – Đề xuất một số cách giải quyết

I – Dịch thành một cụm chủ vị: Các cấu trúc có chứa đại từ quan hệ trong tiếng Anh có thể dịch thành các cụm chủ vị trong tiếng Việt khi:

 1 – Danh từ ở mệnh đề chính là đối tượng của động từ vị ngữ trong mệnh đề phụ.

  • I couldn’t get married to the girl I loved so kindly. = Tôi đã không thể cưới được người con gái mà tôi yêu tha thiết. Danh từ ở mệnh đề chính (the girl/người con gái) là đối tượng của động từ vị ngữ (love/yêu) trong mệnh đề phụ. “Tôi yêu tha thiết” là một cụm chủ vị.
  • Did you see the ridiculous tantrums that he threw yesterday? = Bạn có được chứng kiến cái màn ăn vạ lố lăng mà hắn ta bày ra hôm qua chưa? Danh từ ở mệnh đề chính (ridiculous tantrums/màn ăn vạ lố lăng) là đối tượng của động từ vị ngữ (threw/bày ra).

 Ở trong cả hai ví dụ trên, từ liên kết là “mà”.

 2 – Danh từ ở mệnh đề chính diễn đạt thời gian, không gian của sự kiện trong mệnh đề phụ.

 Xét 3 ví dụ sau:

  • I usually have some coffee at my favourite shop at 6:30, when there are less customer. = Tôi thường uống cà phê ở quán tủ của mình vào khoảng 6 giờ rưỡi, khi ấy thì sẽ ít khách hơn. Thời gian ở đây là 6 giờ rưỡi, nằm trong mệnh đề chính, còn sự kiện “quán ít khách” nằm trong mệnh đề phụ diễn ra vào khoảng thời gian được nhắc đến ở mệnh đề chính (tức 6 giờ rưỡi). (4)
  • We visited the house in which Shakespear lived during his childhood = Chúng tôi đã đến thăm ngôi nhà Shakespear đã từng sống thời niên thiếu. Địa điểm ở mệnh đề chính là “ngôi nhà”, biểu thị không gian của sự kiện “Shakespear đã từng sống thời niên thiếu” được nhắc đến ở mệnh đề phụ. (5)
  • I would never forget the day I met you. = Anh sẽ không bao giờ quên được ngày anh gặp em. Thời gian ở mệnh đề chính: “ngày”, sự kiện diễn ra trong mệnh đề phụ: “anh gặp em”. (6)

 Ở ví dụ 4, ta có thể sử dụng từ “khi ấy” để dịch từ “when”, nghe sẽ thuần Việt và tự nhiên hơn nhiều so với “Tôi thường uống cà phê ở quán tủ của mình vào khoảng 6 giờ rưỡi, thời điểm mà quán ít khách hơn.”

 Ở ví dụ 5, từ liên kết mà tôi đã dùng là từ “mà”. Nhưng sang ví dụ 6 thì tôi lại bỏ từ “mà” đi (thay vì Anh sẽ không bao giờ quên được cái ngày mà anh gặp em). Đó là vì giới từ “mà” ở ví dụ số 6 có thể lược bỏ vì nó chẳng ảnh hưởng đến ngữ nghĩa của câu, nên bỏ đi người đọc đỡ mệt mỏi. Còn ở ví dụ số 5, từ “mà” được sử dụng để nhấn mạnh: “Shakespear có thể có nhiều nhà, nhưng bọn tôi tới thăm cái nhà ổng sống thời niên thiếu ấy.”

 Kết luận lại, chúng ta luôn nên bỏ giới từ để câu cú bớt lê thê, nhưng hãy tự hỏi: 1) Sau khi lược bỏ thì câu cú có bị tối nghĩa không? 2) Thông tin được nhắc tới có phải là thông tin được tác giả cố tình đánh giá, giải thích cặn kẽ hay nhấn mạnh không?

 3 – Danh từ trong mệnh đề chính chỉ nguyên nhân của sự việc trong mệnh đề phụ

  • Toi Report Truyen Cua Ban is the reason why that poor translator has to leave Hako and all of his projects behind. = Tôi Report Truyện Của Bạn là lí do tại sao mà dịch giả tội nghiệp đó phải từ bỏ chốn CLN và tất cả những PJ của mình.
  • Many people want to know the reason why I did all of this. = Có rất nhiều người muốn biết (lí do) vì sao tôi lại làm mấy chuyện này.

Ta sẽ dùng từ liên kết trong trường hợp này là “vì sao”, “tại sao” hoặc “do đâu”, (đôi khi có thể lược bỏ đi cụm “lý do” hay “nguyên nhân”).

 II – Dịch nối từ

 Ta có thể dịch nối mệnh đề quan hệ với mệnh đề chính để trở thành một câu hoàn chỉnh trong các trường hợp sau đây:

1 – Danh từ trong mệnh đề chính là chủ thể của hành động được nhắc đến trong mệnh đề phụ

  • They have built a house which can withstand the worst kind of earthquake. = Người ta đã dựng được một căn nhà có thể chịu được những cơn động đất tồi tệ nhất. Chủ thể mệnh đề chính: a house/căn nhà, hành động được nhắc tới trong mệnh đề phụ: withstand the worst kind of earthquake/chịu được những cơn động đất tồi tệ nhất.
  • They have edited their chapter so that it could outplay Diffchecker. = Bọn họ đã sửa chương sao cho có thể qua mặt cả Diffchecker. Chủ thể mệnh đề chính: chương, hành động được nhắc tới trong mệnh đề phụ: qua mặt cả Diffchecker.

2 – Danh từ trong mệnh đề chính là đối tượng của hành động được nhắc đến trong mệnh đề phụ.

  • Ronaldo’s second goal, which was scored in the final minutes, won Manchester United the Champions League. = Bàn thắng thứ hai của Ronaldo được ghi vào những phút cuối của trận đấu đã đưa Manchester United đến chiến cúp Champions League. Danh từ trong mệnh đề chính: Ronaldo’s second goal/Bàn thắng thứ hai của Ronaldo, là đối tượng của hành động “score/ghi” trong mệnh đề phụ.
  • The previous example, which was purely fantasy, must have been a wonderful dream of a Manchester United fan = Cái ví dụ sặc mùi viễn tưởng vừa rồi hẳn là giấc mơ của một tên fan Quỷ Đỏ nào đó rồi.

 III – Dịch tách thành hai câu đơn độc lập.

 Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi để dịch các mệnh đề quan hệ không xác định, liên kết lỏng lẻo với mệnh đề chính.

 Có hai dạng tách, một là tách thành hai mệnh đề chủ vị độc lập trong một câu phức, hai là tách ra thành hai câu độc lập. Ta cùng đi qua hai ví dụ:

  • I’ll finish my deadline on the 30th of Feburary, which is not a legitimate date. = Tôi sẽ hoàn thành hạn chót của mình vào ngày 30 tháng 2, đó là một ngày không tồn tại.
  • My cousin, who just got a university scholarship in Australia, is hoping to find some useful tips here in Hako. = Đứa em họ của tôi vừa được học bổng đại học tại Úc. Và em ấy hi vọng sẽ nhận được nhiều lời khuyên bổ ích ở chốn Cổng Light Novel này.

 

Phần 3 – Một số “bài tập” tập luyện

 Như bài trước, tôi sẽ để một số câu cho các bạn thực hành ngay tại chỗ. Đừng chỉ làm theo răm rắp những gì tôi nói ở trên, nhưng cũng đừng đi xa quá so với nghĩa ban đầu của câu.

① Acupunture, which originated in China, has become a world-renowned form of medical treatment.

<Spice> Trị bệnh bằng cách châm cứu, vốn khởi khuồn từ Trung Quốc, nay đã trở nên phổ biến trên toàn cầu.

<A1ka> Thuật châm cứu vốn bắt nguồn từ Trung Quốc nay đã trở thành một phương pháp điều trị y học được cả thế giới biết tới.

 

② Silas adopted a young child, Eppie, the daughter of an impoverished woman who had died suddenly.

<Bitz> Silas đã nhận nuôi cô bé Eppie, con của một người phụ nữ khốn khó vừa đột ngột qua đời.

 

③ The chemical formula of deoxyribonucleic acid (DNA) is now well established. The molecule is a very long chain, the backbone of which consists of a regular alternation of sugar and phosphate groups.

 

④ Silas might be seen in the sunny mid-day, or in the late afternoon when the shadows were lengthening under the hedgerows, strolling out with uncovered head to carry Eppie beyond the Stone-pits to where the flowers grew, till they reached some favorite bank where he could sit down, while Eppie toddled to pluck the flowers, and make remarks to the winged things that murmured happily above the bright petals.

(George Eliot, Silas Marner, 1861)

<Bitz> Vào những buổi trưa nắng chói chang, hay lúc chiều tà khi bóng ngả dài trên những hàng rào, có thể bắt gặp cảnh Silas tản bộ nhàn nhã với mái đầu trần cõng bé Eppie vượt qua hố đá tới nơi hoa nở, mãi tới khi cả hai đến được bờ sông vừa ý để Silas ngồi nghỉ, còn Eppie thì chập chững hái hoa và bộc bạch những suy nghĩ ngây ngô về các sinh vật có cánh thầm thì thích chí trên những cánh hoa rực rỡ.

Bài viết trước

#1 - Về "Nó".

76 Bình luận

TRANS
AI MASTER
Bác ơi cho hỏi câu:

My cousin, who just got a university scholarship in Australia, is hoping to find some useful tips here in Hako. = Đứa em họ của tôi vừa được học bổng đại học tại Úc. Và em ấy hi vọng sẽ nhận được nhiều lời nguyên bổ ích ở chốn Cổng Light Novel này.

Phải là "lời khuyên" chứ nhỉ, hay lời nguyên cũng là từ có nghĩa.
Xem thêm
10 điểm bắt lỗi chính tả =)
Xem thêm
TRANS
AI MASTER
@A1ka: what tôi hỏi nghiêm túc mà, nhỡ đâu có từ tôi ko biết
Xem thêm
Xem thêm 1 trả lời

2, Silas nhận nuôi một đứa trẻ tên là Eppie, con gái của một người phụ nữ bị nghèo khổ đã đột ngột qua đời.
Xem thêm
1. Việc chữa bệnh bằng châm cứu khởi nguồn ở Trung Quốc rồi trở nên phổ biến trên toàn cầu.
Xem thêm
Câu 1 là mệnh đề quan hệ không xác định, tức nếu bỏ cụm "which originated in China" đi thì câu vẫn mang nghĩa. Mệnh đề quan hệ được cho vào chỉ nhằm mục đích bổ sung thêm thông tin.
Trong khi đó, câu dịch của bạn theo lối "kể chuyện", tức sự kiện "châm cứu khởi nguồn từ Trung Quốc" là quá khứ, dẫn đến sự kiện hiện tại là "châm cứu trở nên phổ biến trên toàn cầu". Như vậy, nếu tôi bỏ cụm "khởi nguồn từ Trung Quốc" đi thì câu văn của bạn hoàn toàn vô nghĩa. Vậy nên câu dịch của bạn không đúng với ý đồ của câu văn. Bản thân câu văn cũng chỉ nêu lên một sự thật hiển nhiên rằng "châm cứu đã trở thành một phương thức trị bệnh nổi tiếng trên toàn thế giới" chứ không kể từ quá khứ đến tương lai như câu dịch của bạn.
Nói như thế không có nghĩa là bỏ cụm "which originated in China" đi nhé.
Xem thêm
TRANS
Phần 2. Mục I.3., ví dụ thứ nhất
Bác ghi sai từ "has" thành "have" kìa
Xem thêm
TRANS
Phần 2, mục II.1. "It" thành "they" chứ nhỉ?
Phần 2, mục II.2. "an M.U." chứ vì chữ đầu chữ M là âm /e/ nên trước nó phải là "an" chứ đâu "a" được.
Chưa đọc hết nhưng tôi nghĩ mấy cái ví dụ bác nên kiểm tra lại đó.
Xem thêm
TRANS
@No.4 T: chuẩn đét
Xem thêm
TRANS
rất tâm huyết và bổ ích
xin chân thành cảm ơn bác rất nhiều
Xem thêm