Vol 1: Cây Cọ Vẽ Hành Trình Và Chiếc Ba Lô Cồng Kềnh Trên Vai
Chương 1.3: Nhà ga xe lửa nổi trên chân trời xanh thẳm
4 Bình luận - Độ dài: 3,672 từ - Cập nhật:
Ăn uống là một trong những thú vui lớn nhất của đời người.
Dù là vậy, nhưng nước uống và đồ hộp là nguyên liệu duy nhất mà tôi có, nên đã rất lâu rồi tôi chưa được ăn thịt hay cá tươi. Tuy thường thấy cây trái phát triển, nhưng tôi lại chẳng biết loại nào ăn được. Nhìn chung thì, chế độ ăn uống của tôi không được cân bằng cho lắm.
Bóng tối dần dần bao trùm lấy vạn vật. Tuy nơi đây không một bóng đèn đường, nhưng vầng trăng tỏ trên bầu trời đêm đã rọi xuống nhân gian muôn vàn tia sáng dịu nhẹ. Chiếc đèn bão trong tay đang mờ dần, nên tôi xoay núm vặn của nó. Cú xoay sản sinh ra điện, nhờ vậy mà tôi có thể sạc điện thoại của mình đôi chút.
Tôi xếp những chiếc lon của mình thành hàng và xem qua mấy cái nhãn hiệu của chúng bằng ánh đèn bão. Tất nhiên rồi, vì không thể đọc được chữ viết của thế giới này, nên mấy cái nhãn đó ghi gì thì tôi cũng chẳng biết, nhưng nhờ vào kinh nghiệm qua biết bao lần mở hộp mà tôi có thể đoán được đại khái nội dung trên đó dựa vào kích cỡ cũng như thiết kế của lon.
Tôi chọn cái lon chứa nước sốt đỏ thẫm với những miếng thịt cho tối nay. Vị cay của nó xộc thẳng lên mũi tôi, nhưng đồng thời cũng có chút hương ngọt. Tôi dùng đũa gắp một miếng thịt cho vào miệng. Nó có vị ngọt và chua, với cả…
“A, nóng quá!”
Lưỡi tôi như bị xuyên thủng bởi miếng thịt đó. Vị cay có thể ngon, nhưng thế này thì hơi quá rồi. Loại thịt giống gà ấy khá phổ biến trong đồ hộp nơi đây. Đây là lần đầu tiên tôi nếm thử loại nước sốt này, và nó làm tôi liên tưởng đến tương ớt. Chỉ tội là quá cay, và nóng hơn so với những gì tôi có thể chịu được.
Khi đang suy nghĩ cách để nấu nó, tôi châm lửa cho Svea, thắp sáng bức tường nhà ga với ánh đỏ lập lòe. Đặt một cái nồi nhỏ lên đầu đốt rồi đổ hết lon gà cay vào đó, tôi múc ít nước để tráng phần sốt còn sót lại trong lon và đổ vào nồi. Như vậy sẽ làm sạch được hộp cũng như làm loãng gia vị: một mũi tên trúng hai con nhạn.
Tôi lấy ra thêm hai chiếc hộp có vẻ quen thuộc nữa từ thùng dự trữ. Một hộp chứa đậu luộc, cái còn lại thì là bắp cải muối. Tôi đổ cả hai vào hỗn hợp, dùng thìa để trộn đều tất cả rồi đợi nó sôi. Ngay khi hỗn hợp đã đủ nóng và sủi bọt quanh mép nồi, tôi múc lên một thìa và nếm thử.
Tôi dừng tay lại trước khi thốt lên một câu, “Chà, được rồi.”
Đúng như mình mong đợi. Đó là câu duy nhất mà tôi có thể nói về nó, chính là một trong những hương vị này.
Tôi lấy một chiếc hộp nhỏ từ trong thùng ra và gỡ những dây kim loại buộc trên nó. Một đống chai và hũ nằm bên trong. Đây là hộp đựng tất cả gia vị từ thế giới này của tôi.
Tôi lấy đường và bột canh ra rồi thêm vào nồi, với hi vọng rằng chúng sẽ làm nổi bật được hương vị. Sau đó, tôi bỏ chút thảo mộc băm nhỏ và một nhúm muối vào. Đây chẳng phải là một nhà hàng, và tôi sẽ là người duy nhất ăn món này. Tôi luôn nấu ăn theo bản năng và thường thì sẽ khá ngon. Hỗn hợp được ninh với lửa nhỏ để đảm bảo món ăn không bị cháy.
Cuối cùng nó cũng đặc lại, và lỏng đi đi khi tôi múc một ít bắp cải bằng thìa. Thổi vài hơi rồi đút thìa vào miệng, lưỡi tôi nóng rát. Tôi hà hơi để làm nguội đồ ăn, rồi mới có thể thưởng thức nó được.
Món ăn có vị ngọt lịm, và đã bớt chua đi. Có lẽ là do thứ bột tôi dùng, nên hương vị giờ đã trở nên đậm đà, giống như cái vị mà bạn cảm nhận được từ nước dùng Dashi vậy. Vị cay cũng đã dịu hơn. Sau khi nuốt, miệng tôi vẫn còn hơi nóng, nhưng là một cái nóng dễ chịu đến lạ người.
“Mình đúng là một thiên tài nấu ăn mà,” tôi nghiêm túc nói.
Tất nhiên là tôi chỉ đang độc thoại, và làm gì có ai trên thế giới này để phủ nhận điều đó. Giấc mơ về một bộ đôi hài kịch của tôi đã chết ngay từ đầu rồi.
Tôi tắt bếp và lấy ra một cái lon hình trụ. Bên trong là một ổ bánh mì cứng ngắc và nhạt nhẽo, dính vào trong miệng và hút hết nước bọt của tôi. Đây là thành phần chính trong chế độ ăn.
Tôi sững người khi nghe thấy tiếng nước bắn tung tóe ở ngoài tầm nhìn của mình. Con người thường sẽ trở nên căng thẳng hơn vào ban đêm; tôi nâng cao cảnh giác, một cơn rùng mình đột nhiên ập đến. Tôi liền siết chặt cái lon trong tay và đưa mắt nhìn ra ngoài đêm tối. Một bóng người di chuyển dưới ánh trăng mờ ảo.
Tôi thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra người đang đứng trong ánh đèn bão kia chính là cô gái họa sĩ nọ. Đôi bốt trên tay cô đung đưa theo từng bước chân lên bậc thang, cùng với đó là một vẻ mặt hết sức nghiêm nghị.
“Xin lỗi,” cô nói với giọng gay gắt. “Thứ mùi đó đang làm phiền tôi đấy.”
“M-Mùi á? Xin lỗi nhé, nó hôi à?”
Cô lắc đầu và cau mày giận dữ, im lặng một lúc rồi cất tiếng trả lời.
“Thứ mùi thơm đó đang làm phiền tôi, khiến tôi không thể ngồi yên được.”
Tôi sửng sốt, rồi cười phá lên. Dù đã cố gắng bóp chặt lon bánh mì để nhịn cười, nhưng làm vậy cũng chẳng mấy hiệu quả. Đã bao lâu rồi mình mới được cười sảng khoái thế này nhỉ? Tôi tự hỏi, lau đi những giọt nước mắt trên đôi mi và thấy cô ấy đang hậm hực nhìn mình, ra chiều hờn dỗi như một đứa trẻ con.
Khi tôi ra hiệu gọi, cô cẩn thận bước ra từ trong bóng tối như một con mèo hoang. Mặc dù vậy, cô vẫn giữ khoảng cách với tôi, đặt mình sao cho có thể chạy trốn được ngay lập tức.
“Cô đã ăn chưa?” Tôi hỏi.
Cô lấy ra một cái lon từ trong túi của áo khoác - được mặc trên chiếc váy của mình và cho tôi xem.
“Đây là bữa tối của cô à?”
“Thức ăn… quý giá lắm,” cô đáp lại sau một thoáng ngập ngừng.
Tôi gật đầu đồng tình. Điều đó thậm chí còn đúng hơn tại nhà ga trên mặt nước này.
Ánh đèn bão khiến tóc cô ấy ánh lên màu xám tro, khác hẳn với khi chúng tôi gặp nhau lúc hoàng hôn buông xuống. Cách mà mái tóc của cô dường như đổi màu thu hút sự chú ý từ tôi.
“Muốn ăn cùng nhau chứ? Tôi đã phát ngán với việc phải ăn một mình rồi.”
Thoạt đầu, cô chẳng nói gì cả. Nhưng sau đó lại lắc đầu rồi đáp lại, “Không.”
Dù đã lên tiếng từ chối nhưng ánh mắt cô vẫn dán chặt vào cái nồi. Và sau đó, cô phải khom người ngay lập tức để ôm cái bụng vừa réo lên của mình.
“Cậu không nghe thấy gì cả.” cô nói với tôi.
“Không hề nha, rất to và rõ là đằng khác.”
“Là tiếng của một con chim đấy,” cô khăng khăng sau một hồi ủ rũ.
“Thế à, nếu vậy thì tốt,” Tôi đồng tình.
Và cô ấy cứ trừng mắt nhìn tôi.
“Hay là chúng ta làm một cuộc trao đổi đi?” Tôi đề nghị. “Cô đưa tôi cái lon đó, và tôi sẽ chia sẻ món gà sốt ớt và rau hầm này. Sao nào?”
“Ưuu,” cô rên rỉ.
Trông cô ấy như đang vật lộn với một bài toán hóc búa vậy. Dù thế, ánh mắt cô lại không hướng về phía tôi, mà lại là cái nồi hầm. Tôi cường điệu dùng thìa để khuấy đồ ăn và nghe thấy tiếng cô ấy khịt mũi. Sau đó, cô lặng thinh một hồi lâu.
“Tôi đồng ý với lời đề nghị của cậu,” cô dõng dạc tuyên bố.
Hẳn đó là một quyết định khó khăn lắm. Tôi lại cười.
“Thế thì lại đây nào.”
Tôi lục lọi cái thùng để tìm bát và thìa bằng kim loại. Thường thì tôi sẽ ăn thẳng những món ăn mà mình đã nấu mà không dùng bát đũa gì cả, nên cũng đã lâu rồi kể từ lần cuối tôi sử dụng bộ bát đĩa cũng như ăn cùng với ai đó.
Tôi chuẩn bị món hầm và cô ấy tiến lại gần, nhưng vẫn di chuyển một cách thận trọng. Có khi cô ấy còn nhảy dựng lên và bỏ chạy như một con mèo nếu tôi làm cổ giật mình ấy chứ.
“Tôi tên là Keisuke. Còn cô?” Tôi hỏi, đưa cho cô ấy cái bát và thìa.
Cô ấy nhìn vào món ăn được chia cho trước khi liếc nhìn mặt tôi.
“Nito,” cuối cùng cô cũng đáp lại, đặt cái lon xuống sàn và đẩy nó về phía tôi, rồi bưng bát.
Sự bướng bỉnh không chịu lay chuyển của cô ấy thực sự rất đáng yêu. Cô cứ nhìn chằm chằm cái bát, còn tôi thì cứ chằm chằm nhìn cô. Khi cô đột ngột ngước lên và ánh mắt chúng tôi chạm nhau, tôi lại quay mặt về phía cái nồi.
Tôi lấy ra ổ bánh mì từ trong hộp rồi cắt thành lát. Ổ bánh mì có hình trụ giống cái lon, được cắt thành những lát tròn. Tôi bưng nồi ra khỏi đầu đốt rồi dùng lửa để nướng bánh mì. Một tiếng kêu ngạc nhiên khe khẽ phá vỡ sự yên lặng.
“Cô không thích nó à?” Tôi hỏi trong lo lắng.
Rốt cuộc thì, tôi đã nêm món ăn theo khẩu vị của mình.
Tuy nhiên cô lắc đầu, còn biểu cảm thì dịu đi như đang xấu hổ về phản ứng của mình.
“Tôi chỉ đang ngạc nhiên thôi… Ngon thật đấy.”
“Thế thì tốt rồi.”
“Bộ cậu là đầu bếp à?” cô thậm chí còn hỏi thế.
“Không phải đâu. Chỉ là sở thích của tôi mà thôi.”
Tôi với tay ra và đặt miếng bánh mì nướng vào bát cô ấy.
“A,” cô càu nhàu.
“Sẽ ngon hơn nếu cô ăn cùng với nó đấy. Chà, có lẽ vậy.”
Cô lưỡng lự.
“Bánh mì không nằm trong giao dịch mà.”
“Nhưng món này luôn được ăn kèm với bánh mì.”
“Nghe như cậu đang bào chữa cho ý tốt của mình vậy.”
“Đó là lỗi của cô vì đã không xác nhận chi tiết cuộc trao đổi trước khi chấp thuận. Ăn thêm bánh mì đi,” Tôi nói với cô ấy, rồi ngoảnh đi nướng ổ bánh mì của mình.
Tôi không thèm quan tâm mà cứ tiếp tục nướng, ngay cả khi cô bĩu môi với mình. Một lát sau, tôi phải cố nhịn cười khi nghe thấy tiếng răng rắc của bánh mì nướng cùng với tiếng thì thầm ngạc nhiên.
Có hai loại bữa ăn: bữa ăn mà bạn ăn một mình, và bữa ăn mà bạn chia sẻ. Chúng tôi chẳng có một cuộc trò chuyện thú vị hay gì cả, nhưng tôi vẫn nghe thấy tiếng một ai đó ngoài bản thân đang thổi đồ ăn cho nguội, một ai đó ngoài bản thân đang ngấu nghiến ổ bánh mì của mình, và tiếng dao nĩa lách cách của một ai đó khác. Thực sự có một ai đó khác ngoài tôi đang tồn tại trong thế giới cô quạnh này.
Chấm miếng bánh mì với phần nước sốt còn lại trong nồi rồi bỏ vào miệng, nó mềm đi rất nhiều và tan ra trên lưỡi tôi. Bản thân miếng bánh mì gần như vô vị, nhưng khi ăn thế này, nó lại có một hậu vị ngọt mặn dễ chịu.
Nito đã ăn xong, bộ bát đĩa sạch sẽ như chưa từng được sử dụng. Dù vậy, vẻ thèm thuồng trên khuôn mặt cô ấy chắc có lẽ chỉ là sự tự phụ của bản thân tôi.
“Cô vẫn chưa no sao?”
“Đủ rồi,” cô miễn cưỡng gật đầu. “Ngon lắm. Cảm ơn nhé.”
Tôi lấy lại cái bát và thìa từ tay cô và đặt chúng lên nắp nồi.
Những giọt nước bắt đầu rơi từ trên cao xuống. Tuy không nghe thấy tiếng mưa rơi, nhưng tôi dường như nghe được âm thanh lốp bốp của những hạt mưa khi trông thấy chúng đáp xuống mặt nước. Mưa ngày càng nặng hạt hơn; những gợn sóng không ngừng lan rộng ra khắp mặt nước, làm biến dạng hình ảnh phản chiếu của vầng trăng.
“Chúng ta nên vào trong ga trước khi trời mưa nặng hạt.”
Chúng tôi đang đứng trước cầu thang, tuy có mái che nhưng cả hai vẫn có thể bị ướt nếu hạt mưa rơi nghiêng. Tôi khoác ba lô, nhặt lên chiếc hộp rồi đi vào bên trong. Trước mặt tôi là bóng tối trải dài đến vô tận, nơi ánh trăng chẳng thể với tới, khiến cho việc đặt bước chân tiếp theo ở đâu cũng làm tôi phân vân.
Đột ngột ánh sáng tràn ngập khắp căn phòng. Nito bước vào với chiếc đèn bão trên tay.
“Cảm ơn nhé, tuyệt thật đấy.”
“Không có gì.”
Chúng tôi đứng cạnh nhau, đưa mắt nhìn lên bầu trời mưa đang ngày một nặng hạt. Tôi vẫn nhìn thấy mặt trăng, nên có lẽ cơn mưa sẽ sớm dứt, nhưng cũng có thể kéo dài cho đến sáng. Dù sao thì, Nito cũng không thể rời đi cho đến khi mưa tạnh.
“Cô có ô tô không?” Tôi hỏi.
“Không, chỉ có một chiếc xe ba bánh tự động thôi.”
“Một chiếc xe ba bánh tự động á?”
Cô ấy lộ rõ vẻ hoài nghi khi tôi không biết nó là gì. Thoạt đầu, cô cứ im ỉm, nhưng rồi cuối cùng cũng mở miệng giải thích.
“Nó là một chiếc xe nhỏ, có ba bánh và chỗ để hành lý, và cũng không khó để điều khiển như ô tô chạy bằng hơi nước đâu. Dù vậy, tôi cũng không có bằng lái của cả hai loại xe.”
“À, vậy là cô cần phải được cấp bằng đúng không?”
Trông cô có vẻ bối rối khi chuyển ánh nhìn từ tôi sang Kettle, đôi mắt lộ rõ thắc mắc như đang muốn hỏi: Cậu lái chiếc xe đó thật đấy à?
“Tôi đã học cách để lái nó rồi, nhưng vẫn chưa có bằng. Vì tôi không đến từ thế giới này.”
“Ồ, cậu là một dị giới giả ư?” Nito hỏi với đôi mắt mở to, khựng lại vì bất ngờ. “Vậy ra họ thực sự tồn tại sao. Tôi cứ ngỡ là họ chỉ có trong sách thôi cơ.”
“Chúng tôi thực sự tồn tại đây. Hân hạnh được gặp cô.”
Ánh mắt của Nito lơ đãng.
“Hẳn cậu đã rất khó khăn nhỉ. Nếu đến đây sớm hơn thì cậu đã được các quốc gia trả tiền cho rồi đó."
“Thật à, giờ tôi mới biết vụ đó luôn đấy.”
“Nền văn minh nơi đây phát triển được là nhờ vào những gì mà bọn tôi tìm thấy được trong mê cung, và nhờ tri thức của các dị giới giả được triệu hồi đến đây nữa. Quốc gia nào cũng muốn được họ chiếu cố cả.”
Sau một hồi tôi mới nói: “Có lẽ tôi đến sai thời điểm rồi ha, mà thực sự tôi cũng không muốn đến đây chút nào.”
Tôi đặt tay lên đầu. Tuy chẳng có kiến thức hữu ích nào cả, nhưng tôi thà được đối xử như một vị khách của quốc gia còn hơn là sống một cuộc sống vô định thế này.
“Ừ, thôi thì đằng nào tôi cũng chả giúp được gì cho họ. Cô biết cách để tôi quay trở lại thế giới cũ không?”
Cô dừng lại suy ngẫm.
“Trước đây, khi mê cung triệu hồi một người từ thế giới khác và trải qua một cuộc biến động mana, thì họ sẽ được trả về. Nhưng giờ thì cả thế giới đã bị bão hòa với mana, nên chuyện đó không xảy ra nữa. Tôi cũng nghe nói tài nguyên của các mê cung đã cạn kiệt và chúng đều đã bị phong tỏa. Hơn nữa, làm thế nào mà cậu đến đây được vậy?”
Tất cả những gì tôi mơ hồ nhớ được là về một tàn tích xây bằng đá. Tôi đang đi cắm trại dài ngày, rồi có cảm giác như mình vừa rơi xuống một cái lỗ cống. Và khi tỉnh lại, tôi đã ở trong cái tàn tích đó rồi.
“Tôi chịu. Tôi biết một người dường như hiểu được chuyện gì đã xảy ra, nhưng không biết người ấy đã đi đâu.”
“Ra là… vậy sao…” cô nói, đôi mắt chan chứa sự đồng cảm dịu dàng.
Chắc hẳn cô ấy là một người tốt.
“Cô cũng đang du hành phải không?” Tôi hỏi cô.
“Phải.” Cô ngập ngừng đáp lại. “Đây là chuyến hành trình đầu tiên của tôi.”
Không phải cách nói này ẩn ý quá sao! Tôi trầm ngâm suy ngẫm xem liệu mình có nên đào sâu hơn hay không. Khoảng cách giữa cả hai vẫn còn rất lớn. Người ta cần thời gian để tìm hiểu nhau, và việc đột ngột thu hẹp khoảng cách chẳng tế nhị chút nào.
“Được rồi, có vẻ như cả hai chúng ta đều đang gặp khó khăn ha.” Thay vào đó tôi nói.
“Phải.”
Những hạt mưa đều đặn rơi xuống, phủ kín mặt nước với những gợn sóng. Những đám mây dày đặc bay đến, từ từ che khuất ánh sáng của vầng trăng.
“Thật ra,” cô nói, “chiếc xe ba bánh tự động của tôi bị hỏng rồi. Nó không di chuyển được nữa.”
“Trùng hợp thay, xe của tôi cũng bị hỏng. Nó đã phải ráng sức hoạt động một thời gian rồi.”
“Hử?” cô thốt lên, rồi quay lại nhìn tôi.
Tôi nhìn thẳng vào cô ấy.
Chúng tôi cứ tiếp tục nhìn nhau với một bầu không khí im lặng đến khó chịu bao trùm.
“Ra là vậy,” cô nói.
“Đây đúng là một vấn đề đấy. Chúng ta phải làm gì bây giờ?”
“Thường thì ta nên gọi đội Lưu Động, nhưng xét đến việc…” Cô hạ giọng, dường như nhận ra sự bối rối của tôi về cái tên xa lạ kia, rồi thốt lên một tiếng "à" khe khẽ ra vẻ hiểu biết và bắt đầu giải thích. “À, đó là một dịch vụ sửa chữa lưu động dành cho các phương tiện chạy bằng hơi nước. Họ sẽ lái xe dọc theo các con đường và sửa chữa những chiếc xe bị hỏng mà họ tìm được, hoặc kéo xe cậu đến một công xưởng.”
“Nghe có vẻ tiện lợi quá nhỉ.”
Vậy là chúng tôi được cứu rồi.
Bởi mặt trăng bị che khuất, tôi chẳng thể thấy một dấu hiệu nào của sự sống trên núi hay đồng bằng. Tôi tự hỏi rằng khi mà những người điều hành nhà ga vẫn còn ở đây, liệu họ có nhìn thấy ánh đèn pha chiếu khắp đồng bằng, hay nghe thấy tiếng chim và côn trùng hay không. Cảm giác như đang ở trong một tòa lâu đài đổ nát vậy. Thật khó để tưởng tượng rằng trong quá khứ, thế giới nơi bạn chẳng hề quen thuộc đã như thế nào. Nhưng quan trọng hơn cả là cái cảm xúc lo ngại của tôi vì không biết phải làm gì vào ngày mai.
“Chắc là tôi nên đi thôi,” Nito nói, hơi cúi đầu. “Cảm ơn vì bữa ăn nhé.”
“Trời vẫn còn đang mưa mà. Sao cô không đợi thêm chút nữa?”
“Không xa đâu, với lại đã muộn rồi.”
Tựa như nàng công chúa sắp đến giờ giới nghiêm, cô nhặt đôi ủng lên và bước xuống cầu thang trong cơn mưa. Tôi dõi theo cho đến khi hình bóng của cô ấy lẩn khuất vào đêm tối, và cuối cùng là tiếng bước chân nhỏ dần trong màn mưa.
Tôi đứng đó một lúc, ngỡ như màn đêm trở nên u tối hơn khi tôi chỉ có một mình.
“A!” Tôi kêu lên, nhận ra điều đó như sét đánh giữa trời quang.[note50301]
Lẽ nào cô ấy đang kêu gọi sự giúp đỡ chăng? Tôi đâu phải người duy nhất bị kẹt lại vì không có phương tiện.
‘’’Trùng hợp thay,’ quả thực, Keisuke.”
Nhưng cũng vì đang ở trong tình cảnh tương tự, nên tôi chẳng thể giúp được cô ấy, mà đáng lẽ tôi đã có thể nói gì đó tốt hơn mà. Tôi nhìn về hướng mà Nito đã rời đi, dù vậy cũng không thể đuổi theo cô ấy vào lúc này được.
Tôi thở dài thườn thượt rồi quay trở lại bên trong. Đã đến lúc để chìm vào giấc ngủ.
4 Bình luận