Du hành ở độ cao 3.000m với tốc độ 350km/giờ, Polaris phóng xuyên qua bầu trời xanh biếc, kết hợp với âm thanh từ động cơ của chính nó. Bỏ qua một bên, âm thanh của bầu trời rộng mở và bao la này thực sự vô cùng đặc biệt.
Đại dương phía dưới tất nhiên là rộng lớn, nhưng bầu trời phía trên như thể trải dài bất tận theo mọi hướng, kèm theo những đám mây nhỏ, bằng cách nào đó lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Cả bầu trời và đại dương dường như hợp nhất lại với nhau, tạo nên những vệt xanh dương ngoạn mục. Thế giới này rộng lớn đến mức ta có thể cảm nhận toàn bộ chỉ bằng việc nhìn ra ngoài từ cửa sổ.
Thế giới này, được những cư dân của nó gọi là “Noah”, có vẻ như đã từng có số lượng dân số vô cùng thịnh vượng sống trên những mảnh đất của nó. Truyền thuyết kể rằng có một vị thần tinh nghịch đã quyết định nhấn chìm mọi thứ chỉ trong một đêm. Tuy nhiên, trước khi thực hiện, vị thần đó đã quyết định nói với một người, Noah, là hãy đóng một chiếc thuyền (Noah cực kỳ đẹp trai theo như tất cả các bức chân dung của ông trên khắp thế giới, vì vậy có lẽ vị thần là một cô gái thích ông ta cũng nên).
Noah không chỉ chế tạo một - mà hàng chục chiếc thuyền khổng lồ. Mỗi chiếc thuyền như vậy có thể chứa hàng chục đến hàng ngàn người, khiến chúng giống như những hòn đảo nhân tạo hơn. Mặc dù Noah là một người rất giàu có, nhưng chi phí để thực hiện một nỗ lực như vậy hoàn toàn vượt quá những gì ông ta sở hữu vào thời điểm đó, vì vậy ông ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc vay một số tiền lớn để có thể hoàn thành toàn bộ công việc.
Tất nhiên, có những người nghi ngờ ông ta. Họ nghĩ rằng ông ta đã phát điên với tất cả số tiền khổng lồ đang mượn và những lời chế giễu cứ tiếp diễn theo thời gian. Mặc dù vậy, ông ta chẳng hề quan tâm đến đám người dè bỉu kia, trong lòng tràn đầy niềm tin rằng mình đang làm điều đúng đắn.
Và ông ta thực sự là đã làm điều đúng đắn, vì sau đó thế giới đã bị nuốt chửng hoàn toàn. Toàn bộ mặt đất và phần lớn cư dân của nó đã bị quét sạch sau đại thảm họa. Tuy nhiên, Noah, những tín đồ, và cả gia súc của ông đều sống sót nhờ những chiếc thuyền. Để rồi sau đó, mọi người bắt đầu cất lên những bài ca ca tụng, cuối cùng đặt tên cho thế giới mới này là “Noah” để vinh danh ông.
Cho đến ngày nay, con người vẫn sống hạnh phúc trên những con tàu của ông.
Khi tôi còn nhỏ, cha mẹ tôi luôn nói những điều như, “Nếu con không đi ngủ sớm là sẽ bị chìm xuống đáy đại dương đó”, vì vậy tôi luôn có ấn tượng rằng ai ai trên thế giới này đều biết đến huyền thoại đó. Có lẽ đó là một gã kể chuyện vĩ đại nào đó kể lần đầu vào hàng ngàn năm trước, và sau đó câu chuyện được tô điểm, thêm thắt thêm khi nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Cá nhân tôi thì nghĩ đó là một câu chuyện thú vị. Việc có thể đi bộ đến bất cứ nơi nào bạn muốn - từ vùng đất này sang vùng đất khác - thật tuyệt vời. Người kể chuyện đó hẳn là đã có một trí tưởng tượng vô cùng hoang dã để có thể nghĩ về một điều như vậy ngay từ đầu.
Nhưng cuối cùng, những câu chuyện cũng chỉ là những câu chuyện. Thực tế là một thứ gì đó hoàn toàn khác biệt. Những gì bao quanh tôi không phải là đất liền, mà là bầu trời và đại dương vô tận với sắc xanh đặc trưng của chúng. Cả hai đều tuyệt đẹp, nhưng lại chứa đầy hiểm nguy ngay cả khi trông chúng thật bình lặng qua vẻ ngoài. Một sai lầm bất cẩn đồng nghĩa với cái chết - Vì tạo hóa không nhân từ với những kẻ đã ngã xuống đại dương.
Tôi đã khảo sát khu vực trước khi tìm đến biểu đồ dòng chảy để ở bên phải của mình, được cất giữ trong một chiếc hộp bạc Almine sáng bóng, không bao giờ bị rỉ dù cho có bao nhiêu ngày tháng trôi qua đi nữa. Tên của cha tôi, Akasha Migrateur, được khắc ở trên cùng bên trái trong khi tên của tôi được khắc ngay bên dưới. Đó là truyền thống khắc tên của một người khi biểu đồ được truyền lại từ đời này cho đời sau, nhằm biểu thị lịch sử, độ tin cậy và giá trị của biểu đồ. Biểu đồ này vẫn còn tương đối trẻ vì mới chỉ có 2 cái tên trên đó, trong khi đó có những cái đã xuất hiện 10 đến 20 cái tên. Dù vậy, đối với tôi đây là một món đồ vô giá. Không có bất cứ thứ gì trên thế giới có thể khiến tôi đổi nó đi cả.
Khi tôi cắm chìa khóa vào, chiếc hộp mở ra theo cả bốn hướng, để lộ ra một chiếc bàn cùng với một cây bút và sổ ghi chú. Cây bút, là món quà của cha tôi, được làm từ chiếc lông dài của một con Albatore. Ngoài ra còn có một cuốn sách được bọc da rất dày đã được gắn cố định vào toàn bộ bàn làm việc. Tôi lật sang trang cuối cùng, nơi có tất cả các bản đồ của khu vực và mở trang bên phải.
Đã 40 giờ trôi qua kể từ khi tôi rời Vessel, và tôi đã dựa vào các dụng cụ, biểu đồ dòng chảy và khung cảnh bên ngoài để vạch ra lộ trình. Cùng với đó, kết hợp với việc sử dụng bản năng là đủ để tôi tính toán vị trí chính xác của bản thân. Tiếp theo là thực hiện một số điều chỉnh nhỏ cho đích đến, Nave.
Điều vô cùng quan trọng là bạn luôn phải biết vị trí của chính mình mọi lúc, và đặc biệt hơn là phải nắm bắt được khoảng cách của bạn ở nơi ở hiện tại với nơi xuất phát, cũng như xác định điểm đến cụ thể. Trong một thế giới nơi vạn vật liên tục dịch chuyển, việc mất phương hướng là chuyện quá dễ dàng.
Tất nhiên, các thiết bị trên Polaris có thể cho tôi biết dữ liệu chính xác về độ cao hay tốc độ, nhưng có một phần dữ liệu quan trọng mà nó không thể đo được - hướng đi. Ta chỉ có thể nắm bắt hướng đi bằng cách “cảm nhận” từ bên trong bản thân, bằng thứ hay được gọi là “la bàn nội tâm”.
Theo các nhà khoa học cổ đại, Noah bị bao bọc trong một từ trường yếu mà la bàn nội tâm của chúng ta đã thích nghi để xác định phương hướng. Các nhà khoa học như Coulomb và Lorentz đã đưa ra một loạt các lý thuyết nhằm giải thích hiện tượng này, nhưng thành thật mà nói, tôi chẳng hiểu gì hết cả. Khá chắc rằng cũng chả có ai đang sống ở thời đại này có thể hiểu được chúng đâu.
Cảm giác của việc nắm bắt được phương hướng thật khó để diễn tả. Cách giải thích thường thấy nhất đó là hình dung từ trường của Noah như một dòng nước liên tục trôi qua chúng ta. Vì dòng nước đó luôn chảy theo cùng một cách dù là ngày hay đêm, tôi sẽ cảm nhận được nếu có sự thay đổi hướng đi.
Có những tin đồn về sự tồn tại của những chiếc la bàn vật chất vào những ngày xa xưa, ở thời đại khi Noah vẫn còn sống. Những chiếc la bàn đó được làm từ đá và có thể được sử dụng bởi bất cứ ai, nhưng dù thuận tiện như vậy, cho đến ngày nay vẫn chưa có một thứ gì như vậy được tìm thấy cả.
Đó là lý do tại sao những người có la bàn nội tâm yếu đã được định sẵn cái chết, ngay từ lúc họ quyết định bắt đầu cuộc phiêu lưu của mình. Chỉ những người có giác quan sắc bén mới có thể di chuyển những quãng đường dài ở Noah. Mặc dù mọi người đều có la bàn nội tâm, nhưng hiệu quả của nó ở mỗi người là khác nhau. Những người chỉ có thể nhận biết tối đa 8 hướng được liệt kê vào cấp D, trong khi 16 hướng là cấp C, 32 hướng là B và 360 là A. Ngoài ra, các cấp S và SS được dành riêng cho những người có thể đi xa hơn thế, với sự chênh lệch giữa S và SS được phân hóa thành 6 cấp riêng biệt.
Của tôi là cấp S - mức độ tối thiểu của một Swallow.
Trong mọi trường hợp, theo tính toán của tôi thì đích đến đã ở gần trước mắt.
“Đáng ra là phải thấy rồi chứ nhỉ,” tôi lo lắng thì thầm với bản thân. “Nếu mình không nhìn thấy nó, thì sẽ là dấu chấm hết...”
Rốt cuộc thì, trong khi những thứ như độ cao và tốc độ có thể được đo chính xác, những tính toán từ la bàn nội tâm không bao giờ có thể chuẩn chỉnh tuyệt đối được. Một biên độ sai sót nhỏ có thể không là vấn đề lớn, nhưng bất cứ gì hơn đều sẽ là kết thúc.
Tôi đã biết quá rõ những trường hợp Swallow ra đi và không bao giờ có thể quay trở về. Điều nên nói ở đây là họ sẽ sống sót được bao lâu trước khi mắc phải sai lầm chí mạng đó thôi.
Đích đến của tôi, Nave, là một quốc gia nổi trôi dạt xung quanh dòng chảy phía Bắc. Vừa nãy đã có một cơn gió Nam rất mạnh, vì vậy có lẽ Nave đã trôi dạt vài trăm cây số về phía Nam. Nếu đúng như vậy, tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc quan sát các dòng hải lưu và tìm kiếm nó. Hy vọng là lần này không phải làm vậy.
Tôi căng mắt hết mức có thể để không nhìn sót nó, cầu nguyện từ sâu trong thâm tâm rằng mình đang ở gần. Làn nước phản chiếu ánh mặt trời rực rỡ trên đỉnh cùng với bóng râm từ những đám mây trên trời chẳng giúp ích được gì.
“A! Tìm thấy rồi!” Tôi kêu lên sau khi vất vả trong việc tìm ra bất kỳ dấu hiệu nào về nó. May mắn thay, tôi đã có thể nhìn thoáng qua hình ảnh con thuyền ở khu vực phía Tây Nam.
Tôi lấy ống nhòm ra để xác nhận rằng đó có thực sự là Nave, và thật nhẹ nhõm vì đó đúng là nơi tôi đang tìm kiếm.
“Quốc gia nổi”, theo đúng như tên gọi, là những quốc gia nằm trên thuyền. Về cơ bản, chúng là những hòn đảo nhân tạo được xây dựng trên những chiếc thuyền mà Noah đã xây nên, mãi mãi trôi dạt theo các dòng hải lưu, hay “dòng chảy” như chúng tôi hay gọi. Cũng có những hòn đảo cố định tồn tại trên mặt đất thật, nhưng đó là những trường hợp cực kỳ hiếm. Trước tiên, những vùng đất đủ rộng lớn để có thể chứa đựng cả một đất nước là không nhiều. Nhưng hơn hết, tài nguyên đất là vô cùng quý giá, nên các quốc gia không ngừng tranh giành nhau nhằm giành quyền kiểm soát. Điều này rõ ràng khiến chúng không phải là nơi lý tưởng để sinh sống.
Nave được mệnh danh là “Lưỡi Gươm Sắt” do kiến trúc thú vị của nó. Hình dạng của nó là hai trục xoay quay ngược nhau và giáp lại ở phần đế. Bản thân phần đế đó cũng ấn tượng không kém — nó được xây dựng cực kỳ rộng và cao với toàn bộ thành phố bao xung quanh. Dọc bờ biển có vô số pháo phòng không, nhưng 3 khẩu pháo 80cm chính lại được gắn lại với nhau và bố trí ngay giữa khu vực phía Bắc. Những khẩu pháo khổng lồ này có tầm bắn lên đến 30km và được sử dụng để tấn công thẳng vào các quốc gia nổi khác nếu cần thiết. Ở phía Nam là khu vực cảng được sử dụng cho cả máy bay và tàu thuyền làm bến đỗ. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, là một pháo đài cao chót vót xuất hiện ở chính giữa toàn bộ khu vực. Mặc dù dạng pháo đài như vậy không phải hiếm gặp, nhưng việc được sơn màu đen tuyền khiến nó trông thật nham hiểm.
Nave luôn trong tình trạng chiến đấu để tranh giành trên dưới 10 hòn đảo ở phía Bắc, nên việc nơi này được vũ trang đến mức này là điều hiển nhiên. Đối với họ, việc đe dọa và thị uy sức mạnh quân sự cũng quan trọng không kém so với việc tham gia các trận chiến thực sự.
Mặt khác, mặc dù họ chắc chắn đã thành công ở khía cạnh đe dọa, nhưng nếu phải sống ở đây chắc cũng chẳng dễ chịu gì.
Tôi với lấy máy phát, lật đến trang thông tin của Nave trên biểu đồ dòng chảy của mình và mở liên lạc với họ.
“Đây là đài kiểm soát không lưu của Nave,” một giọng nói cất lên sau khi tôi kết nối thành công. “Xin hãy khai báo danh tính, mã hiệu phi cơ và đơn vị của anh.”
“Tên tôi là Ciel Migrateur. Tên phi cơ là Polaris với mã hiệu S006. Tôi là một Swallow đến từ Hiệp hội Swallow của Vessel. Yêu cầu cấp quyền cập bến cảng biển.”
“Đã rõ. Xin hãy đợi.” họ trả lời, sau đó ngay lập tức cắt đường truyền.
Họ thẳng thắn và có hơi thô lỗ, nhưng dù sao không ngoài mong đợi từ một quốc gia quân sự. Hơn nữa, tôi không thấy ổn cho lắm với cái cách mà họ bảo tôi đợi.
Tôi đã bay vòng quanh Nave một lần để quan sát kỹ càng xung quanh, nhưng rồi tôi phát hiện một chiếc phi cơ đánh chặn đã cất cánh từ một trong những nhà chứa ở sân bay khi trên đường quay trở lại. Có vẻ như trực giác của tôi đã đúng.
Đường truyền lại sáng lên khi tôi nhận được tin nhắn từ họ.
“Đây là đài kiểm soát không lưu của Nave. Chúng tôi đã xử lý xong yêu cầu hạ cánh của Polaris. Chúng tôi xác nhận họ Migrateur của anh là một Swallow đáng tin cậy, nhưng chúng tôi không có dữ liệu về tên của anh, Ciel.”
Tôi đã đoán được họ sẽ nói thế.
“Vì vậy, chúng tôi không cho phép anh hạ cánh.”
“Tôi có hàng hóa ở đây.” tôi đáp lại qua radio, lần này cố hết sức để nói với chất giọng mạnh mẽ và uy quyền hơn. “Vậy tôi có thể tiếp tục việc đó được không?”
Giành được lòng tin chỉ là một trong những công việc thiết yếu khác của Swallow, và tất nhiên đó không phải là điều chúng tôi có thể xem nhẹ.
"Tất nhiên rồi. Hãy xem liệu cậu có thực sự xứng với cái tên Migrateur hay không.”
Lần này người phi công có vẻ hứng thú hơn nhiều trong giọng điệu trả lời. Tương tự như vậy, chiếc phi cơ vừa cất cánh đã gửi cho tôi một tin nhắn của anh ta.
“Tên tôi là Klyce Alouette,” lần này anh nói thông qua một đường truyền công khai. “Tôi là thành viên của Sư đoàn Đặc biệt Lực lượng Không quân của Nave.”
Nghe qua thì giọng anh ta khá trẻ so với các phi công khác. Tuy nhiên, việc thuộc lực lượng đặc biệt đồng nghĩa với việc anh ta cũng là một trong những phi công hàng đầu ở Nave. Kỹ năng của anh ta là không thể xem thường được.
Dù có ở đâu đi nữa, thì tên của cha tôi vẫn sẽ luôn được nhắc đến đầu tiên. Nhiều lúc tôi ước người khác sẽ suy nghĩ đến việc sống đúng với kỳ vọng từ cái tên của ông ấy là khó đến mức nào.
Tôi có thể thấy mọi người tụ tập ở dưới để xem cảnh tượng sắp diễn ra. Họ dường như không quá lo lắng về việc một trận không chiến đang đến gần. Có lẽ những sự kiện như thế này chỉ là trò giải trí đối với một quốc gia thường xuyên có chiến sự.
“Ciel Migrateur từ Hội Swallow của Vessel. Theo các quy định của chúng tôi, anh phải tự tay loại bỏ tất cả những kẻ có ý định lấy hàng hóa của anh. Anh hiểu chứ?”
“Được!"
Và cùng với đó, đường truyền lại bị cắt một lần nữa, nên tôi ngay lập tức chuẩn bị giảm tốc. Phi cơ của Klyce tiếp cận từ phía trước, nhưng sẽ không có gì xảy ra cho đến khi chúng tôi bay ngang qua nhau.
“Đôi cánh đó khá tròn, và thân hẹp,” tôi tự nhủ. “Hmm… chắc hẳn là một Spitfire.”
Mẫu Spitfire được các quốc gia phía Bắc vô cùng ưa chuộng, có lẽ vì tốc độ và sự dễ dàng trong việc đánh chặn các phi cơ khác. Không may là, thế hệ ngày nay hoàn toàn mù tịt trong việc những gì tạo nên một phi cơ tốt và những thứ đại loại khác. Công nghệ có nguồn gốc từ thời Noah đã gần như thất truyền, vì vậy trong khi vẫn phải dựa vào những thứ của họ để tồn tại, chúng tôi có rất ít ý tưởng về nguyên lý hoạt động của chúng. Những gì nhân loại có thể xây dựng bây giờ không thể nào sánh bằng với những thành tựu của quá khứ.
Thỉnh thoảng những tàn tích của quá khứ lại được tìm thấy trên các hòn đảo hoặc dưới đại dương. Chúng tôi gọi những tàn tích đó là các “nguyên mẫu” và nhiều quốc gia đã phân tích các nguyên mẫu đó và dùng phương pháp kỹ thuật đảo ngược để tạo ra những sản phẩm tương tự của riêng họ.
Đặc điểm đáng chú ý nhất của Spitfire là đôi cánh tròn, hình elip giúp chúng giữ ổn định vô cùng tốt. Rất dễ dàng để kiểm soát ngay cả khi ở trạng thái tốc độ cao.
Có lẽ về mặt khách quan thì phi cơ của anh ấy tốt hơn, nhưng tôi không hề bận tâm. Kỹ năng của phi công cũng phải được tính đến trong một trận chiến.
Tôi kéo bánh lái sang một bên và kéo xuống trong khi nhấn ga, khiến máy bay của tôi lao lên trên và quay vòng. Trong một trận không chiến, điều quan trọng là luôn có được lợi thế về độ cao. Bắn từ trên xuống sẽ luôn dễ hơn là bắn từ dưới lên.
Khi phi cơ của tôi di chuyển, tôi thấy Klyce cũng đang làm điều tương tự, mặc dù thao tác của anh ta nhanh hơn nhiều so với tôi dự đoán. Anh ta kết thúc lượt của mình trước và tiến về phía tôi.
“Tốc độ đó ít nhất phải khoảng 600 km/h, vậy chiếc phi cơ đó có công suất khoảng 2.000 mã lực, huh…”
Tôi tự hỏi liệu phi cơ của anh ta có phải mẫu mới không. Vì động cơ vĩnh cửu của Polaris chỉ có công suất 1.500 mã lực, với tốc độ tối đa 550km/h nên Klyce có thể dễ dàng đuổi kịp ngay cả khi tôi bay hết tốc lực đi nữa.
Thì ra đây là những gì Noah mang lại. Tôi vặn ga hết mức và tiếp tục lao lên dù cho biết rằng Klyce nhanh hơn. Động cơ của tôi rít lên, nhưng cuối cùng tôi cũng xoay sở được vị trí của mình phía sau anh ta.
Tuy nhiên, lợi thế tôi nắm giữ không tồn tại lâu. Klyce cố gắng lộn thật nhanh để vòng qua và lao xuống phía sau tôi ngay khi tôi có được góc bắn thuận lợi. Để đối phó, tôi ngay lập tức ngừng phóng lên và thay vào đó thực hiện một cú quay nửa vòng xuống phía dưới để giữ khoảng cách.
“Chết tiệt, anh ta nhanh thật đó…”
Mặc dù thao tác của tôi khiến chúng tôi quay lưng lại với nhau, nhưng anh ấy vẫn vòng ra phía sau tôi mà tốc độ không bị giảm sút nhiều.
Tốc độ thật đáng sợ — mặc dù tôi cũng đã dự đoán từ trước. Nếu có ai đó mà Nave cử đến để gặp tôi, đó chắc hẳn sẽ là một phi công tài năng với phi cơ hàng đầu.
“Trời ạ, không biết liệu mình có làm nổi không nữa,” tôi tự nhủ.
Cha tôi chắc sẽ thực hiện một vài thao tác hoa mỹ để vòng ra đằng sau anh ta, nhưng tôi không phải là một phi công thiên tài đến mức quái vật như ông. Trong khi ông ấy có thể dễ dàng né khoảng 30 phi cơ khác nhau mà không bị trúng đòn dù chỉ một lần, thì tôi vẫn đang học cách chiến đấu chỉ với những thứ cơ bản.
Tôi quay đầu lại để nhìn lướt qua Klyce khi anh ta vẫn đang ở phía sau tôi. May mắn thay, tôi biết rằng không lâu nữa anh ta sẽ bóp cò, vì vậy tôi chỉ cần dự đoán khi nào điều đó sẽ xảy ra.
Tôi cẩn thận theo dõi cả hai và chờ đợi thời điểm phi cơ của chúng tôi thẳng hàng, bởi vì tôi biết đó là thời điểm anh ta sẽ bóp cò.
"Bây giờ!"
Vào thời điểm phi cơ của chúng tôi thẳng hàng, tôi đã hạ phi cơ của mình xuống ngay trên mực nước biển đúng lúc một loạt đạn bay tới.
Tôi tiếp tục hạ xuống thấp dần, dù biết việc lao xuống biển với tốc độ này đồng nghĩa với việc đâm thẳng vào một bức tường bê tông. Càng xuống gần mặt nước, tôi càng có thể bù đắp cho sự thiếu hụt mã lực của mình. Anh ta sẽ khó đuổi theo tôi gần mặt nước hơn là khi ở độ cao lớn hơn.
Bây giờ chúng tôi đã ở sát mực nước biển, tôi thực hiện một số thao tác né tránh sang trái và phải bằng cách lắc bánh lái tới lui nhằm cố gắng đánh lạc hướng Klyce. Điều đó tỏ ra vô ích khi anh ta vẫn bình tĩnh bám sát, chờ đợi một cơ hội hoàn hảo để bắn.
Anh ta đang tỏ ra cẩn trọng - quá cẩn trọng, và tôi biết rõ cách để đối phó với loại phi công này. Trong suốt cuộc chiến này, tôi đã ở thế phòng thủ, nhưng bây giờ đã đến lúc phải thay đổi nhịp độ. Đã đến lúc cho anh ấy thấy những gì tôi có.
Chúng tôi nhanh chóng tiếp cận thành phố với tất cả khán giả trên đường. Tôi tự hỏi liệu họ có tận hưởng cuộc chiến này không, còn tôi thì chắc chắn là có rồi.
Tôi vặn ga lên mức tối đa một lần nữa và bay lên phía trên phía Bắc của thành phố, nơi có vô số tháp canh và ụ súng nằm rải rác xung quanh. Rõ ràng là tôi phải tránh chúng nếu không muốn bị đâm và chết, và để làm được điều đó cần sự tập trung tuyệt đối.
Tôi nắm chặt bánh lái của mình hơn và tập trung vào việc không va vào bất cứ thứ gì trong khi cố gắng len lỏi, thậm chí vòng qua một bức tường bất ngờ cản đường. Tuy nhiên, càng né tránh, tôi càng cảm thấy được sự kết nối của bản thân với phi cơ của mình. Chẳng bao lâu, đôi cánh trắng của Polaris bắt đầu giống như một phần mở rộng của cơ thể tôi, và bánh lái của nó dường như được điều khiển bởi bản năng của tôi.
Trong hoàn cảnh sinh tử này, tôi đã trở thành một với Polaris.
Việc tôi len lỏi trái phải qua tất cả các tòa tháp và ụ súng chắc hẳn đã khiến các khán giả lo lắng, nhưng Klyce vẫn đang ở ngay sát phía sau.
“Vậy, thế này thì sao!”
Tôi bay qua thành phố và tăng tốc về phía pháo đài đen tuyền khổng lồ ở giữa như thể sắp đâm thẳng vào đó, biến cuộc chiến thành trò chơi đổ xô thành trì. Kẻ nào né tránh đầu tiên sẽ mất lợi thế, tạo cơ hội cho kẻ kia áp sát phía sau.
Gió hú, bầu trời xé toạc và khung cảnh xung quanh mờ đi như thể tôi đang đứng trước ngưỡng cửa tử thần. Tuy nhiên, tôi không hề sợ hãi - mọi thứ đối với tôi đều rất tự nhiên. Cha tôi yêu bầu trời và đây là chiếc phi cơ của ông.
“Tôi chỉ biết một điều trong đời, đó là lái chiếc phi cơ này!” cha tôi từng nói. “Đó không phải là lý do đủ để tôi làm việc đang làm hay sao?”
Tôi mỉm cười khi nghĩ đến điều đó. Là con trai của ông ấy, tôi đã sẵn sàng cho việc này từ khi sinh ra.
Vào giây phút cuối cùng, ngay trước khi sắp va chạm, tôi đã lao ra khỏi pháo đài đen tuyền. Gió giật từ thao tác của tôi bật ra và sau đó cộng hưởng vào phi cơ, giúp đẩy tôi bay lên bầu trời rộng mở.
Klyce đã né trước tôi đúng như dự đoán, nên giờ tôi có được lợi thế về vị trí khi ở phía sau anh ấy.
“Chà, cậu nắm thóp tôi rồi!” anh ta liên lạc cho tôi qua radio ngay trước khi tôi chuẩn bị bóp cò. "Tôi đầu hàng!"
Tôi rất ấn tượng. Anh ấy không chỉ có kỹ năng xuất sắc mà còn biết đâu là lúc nên dừng lại.
Tôi đoán là những suy nghĩ ngưỡng mộ của tôi dành cho Klyce kéo dài hơi lâu, vì ngay lúc đó anh ta đã phóng phi cơ sang một bên như thể dành cho tôi một tràng pháo tay.
—
Tôi không chỉ được phép hạ cánh mà sau đó, tôi còn được diện kiến chính Nhà Vua của Nave, Schwert Nave Falke.
"Thật tuyệt vời!" ông ấy nói, vỗ nhẹ vào vai tôi. “Cậu có khi đã bắt kịp cha cậu rồi không chừng đấy!”
“K-Không thể nào đâu ạ…” Tôi đáp lại.
“Trận chiến của cậu ngày hôm nay làm ta nhớ đến ngày cha cậu lần đầu tiên đến Nave.”
“Tôi vẫn còn nhiều điều phải cải thiện ạ,” tôi khiêm tốn nhắc lại.
Nhưng sau khi tôi nói vậy, Schwert đột nhiên trừng mắt.
“ Cậu nói gì cơ?"
"Dạ?"
“Vừa rồi cậu đã đánh bại quân của ta, nhưng cậu vẫn nói rằng mình cần phải cải thiện… Vậy ý cậu là quân của ta không đủ mạnh? Hử? Cậu đến đây chỉ để làm nhục ta thôi à?”
Tôi điên cuồng lắc đầu. “K-Không, ý tôi không phải vậy ạ!”
Tôi đoán là tôi không nên coi trọng quá mức những gì ông ấy nói vừa rồi vì ông ấy vừa cười phá lên.
"Ta chỉ đùa thôi."
"Eh?"
“Trông cậu ngại ngùng quá làm ta muốn dọa cậu một chút thôi mà!” Ông ấy nói với một nụ cười toe toét. “Ít nhất thì về điểm đó cậu không giống cha cậu. Cậu biết đó, thế giới cần những người như cậu nhiều hơn! Nếu chỉ có những người như ta thì thế giới này sẽ tệ hại lắm!”
Ông ấy lại phát ra một tràng cười lớn, vang vọng khắp căn phòng.
“Haha, ha…” Tôi khẽ cười lên. Kiểu người huyên náo như ông ấy là loại tôi không giỏi đối phó, nhưng tôi đảm bảo rằng khuôn mặt của mình không thể hiện điều đó. Thay vào đó, tôi chỉ gượng cười.
“À đúng rồi, này! Ta có thứ này cho cậu."
"Dạ?"
Nhà vua vỗ tay và một người phục vụ ngay lập tức bước vào với hai thỏi vàng.
"Vàng!?!?" Tôi không thể tin vào mắt mình. Hai thanh nặng 500g, tổng cộng là 1kg. Chúng trị giá khoảng 4,000,000 gotes - một số tiền có thể dễ dàng giúp tôi sống sót cả năm.
Schwert nói: “Hãy coi đây là lời tạ lỗi của ta về việc vừa rồi.
“Đ-Đợi một chút đã! Tôi không thể lấy những thứ này… Tôi không làm việc gì để xứng đáng có chúng cả!”
Schwert cau mày. “Cậu quả là người cứng đầu đó,” ông ấy nói. “Không sao đâu, cậu không cần phải ngại! Đây là một món quà từ ta.”
“Tôi vẫn không thể nhận được…”
“Được rồi, thế này thì sao?” nhà vua nói. Ông lấy một thỏi vàng bằng tay phải và giữ nó trước mặt. “Cái này là dành cho trận chiến xuất sắc mà cậu đã thể hiện cho tất cả bọn ta, còn cái này—”
Sau đó nhà vua dùng tay trái để lấy thỏi vàng còn lại.
“Đây là dành cho cậu khi đồng ý tiếp tục di sản của cha mình dưới cái tên ‘Bạch Dực’. Giờ cậu không còn vấn đề gì phải lo lắng về việc này, được chứ?”
Tôi không thể nào nói từ chối, đặc biệt là sau khi ông ấy cười sảng khoái như vậy.
“Vậy hãy biến đây thành một hợp đồng chính thức. Ciel, biểu đồ dòng chảy của cậu.”
Với một cái gật đầu, tôi mở biểu đồ dòng chảy của mình và đưa cho nhà vua cuốn sổ biểu đồ được gắn chặt ở bên trong. Ông ấy lật đến trang của Nave, nhưng bất ngờ dừng lại khi nhìn lướt qua nó.
“Ta cũng đã ký cái này cho cha cậu rồi nhỉ. Thật đáng kinh ngạc khi anh ta có thể xây dựng cái biểu đồ đó đến mức này… Là một Swallow được cả đại dương, bầu trời và gió biển yêu mến, anh ta quả xứng đáng với cái danh ‘Bạch Dực’.”
Trong lòng tôi nhăn nhó—tôi luôn cảm thấy vậy khi mọi người nói về cha tôi. Luôn có rất nhiều áp lực phải tiếp nối di sản của ông ấy vì mọi người luôn kỳ vọng tôi sẽ trở thành một Swallow tuyệt vời, thậm chí vượt qua cả ông.
“Vâng, thưa bệ hạ,” tôi mỉm cười nói, một lần nữa che giấu cảm xúc thật sự bên trong. “Tôi chắc chắn cha sẽ rất vui khi nghe điều đó.”
Tôi luôn phải thể hiện ra ngoài rằng mình sẵn lòng đi theo con đường của cha, bởi lẽ đương nhiên đó là điều ai ai cũng mong đợi. Đó là nghĩa vụ tôi phải hoàn thành kể từ khi trở thành Swallow.
Trở thành một Swallow đồng nghĩa với việc tôi phải kết nối với những người và các quốc gia khác. Đó là lý do tại sao điều quan trọng đối với tôi là được yêu thích và tôn trọng, cũng như việc đáp lại những cảm xúc đó cũng quan trọng không kém. Không có chỗ cho cảm xúc cá nhân. Điều đó đã trở thành một thứ xa xỉ kể từ lúc tôi bắt đầu cuộc phiêu lưu của mình.
Schwert đứng dậy khỏi ngai vàng và đưa lại cho tôi cuốn sổ biểu đồ.
“Ta, Vua Schwert Nave Falke của Nave, tuyên bố Sắc lệnh Hoàng gia rằng Ciel Migrateur, ‘Bạch Dực’, sẽ nhận được biểu đồ dòng chảy của Nave. Hãy tiến đến và nhận lấy."
"Cảm ơn bệ hạ rất nhiều."
Trên trang của Nave, dưới chữ ký gửi cho cha tôi, có dòng chữ sau:
Nave đã chính thức lập hợp đồng với Swallow, Ciel Migrateur.
-Vua của Nave, Schwert Nave Falke
“Bây giờ tất cả những công việc chính thức đã hoàn tất, nào! Chúng ta cùng uống thôi!”
“Ừm, nhưng tôi vẫn chưa đủ tuổi ạ…”
“Có lẽ chưa đủ để uống ở Vessel chăng?”
“Chắc cũng tương tự ở Nave ạ.”
“Ta chưa bao giờ nghe nói có điều luật như vậy!”
“Thưa bệ hạ, Ciel ở đây còn quá trẻ để uống rượu ngay cả ở quốc gia của chúng ta ạ…” một người phục vụ xen vào.
“Ngươi vừa nói gì cơ? Đúng là một luật vô dụng!!”
Đúng là tôi với ông ấy không hợp nhau mà…
—
Du hành khắp nơi với tư cách là một Swallow là một sự phiền phức nhưng cũng không kém phần tế nhị. Một hành trình có diễn ra tốt đẹp hay không phụ thuộc hoàn toàn vào biểu đồ dòng chảy của người đó.
Bởi vì tất cả các quốc gia nổi trên thế giới đều trôi theo dòng hải lưu riêng biệt, nên hầu hết các tuyến đường của chúng đều khác nhau. Có một số đi theo dòng chảy lớn, một số lại đi theo những dòng nhỏ hơn, thậm chí có một số chỉ chạy quanh quẩn ở vùng trung tâm. Mỗi quốc gia xác định một năm là khoảng thời gian hoàn thành một vòng, do đó, độ dài một năm ở mỗi quốc gia có thể khác nhau. Đó là lý do tại sao biểu đồ dòng chảy lại vô cùng quan trọng. Chúng chứa đựng những thông tin quý giá về cách thức hoạt động của các dòng hải lưu này.
Mặc dù Noah đã chế tạo ra những chiếc thuyền chứa các quốc gia nổi khổng lồ ở khắp nơi, nhưng ở thời đại này, việc một quốc gia mới được tạo nên là không thể. Trong khi cây trồng và nông sản có thể được trồng trên thuyền, những thứ như kim loại, dầu và than đá lại không được như vậy. Các quốc gia luôn thiếu đất đai và nguồn cung, dẫn đến việc phải phụ thuộc rất nhiều vào các hòn đảo, nơi những vật liệu đó có thể khai thác dưới lòng đất.
Sự cố xảy ra khi cùng một hòn đảo lại nằm trên dòng chảy của nhiều quốc gia. Trong trường hợp đó, mỗi quốc gia đó đều gửi quân đội của mình đến đó và gia tăng viện trợ cho họ hằng năm khi đi qua theo chu kỳ. Về cơ bản là kết quả có một cuộc chiến giành quyền cai trị không hồi kết.
Sẽ không quá tệ nếu đó chỉ là vấn đề duy nhất, nhưng sự thật đâu chỉ có vậy. Vấn đề thực sự xảy đến khi hai đất nước giáp mặt đối đầu nhau. Các trận chiến mang lại hậu quả thương vong rất lớn, và đôi khi dẫn đến sự xóa sổ của cả một quốc gia.
Đó là lý do tại sao biểu đồ dòng chảy của một quốc gia được coi là thông tin tuyệt mật, vì cả đất nước sẽ gặp nguy hiểm nếu thông tin đó bị rò rỉ.
Mặc cho mọi chuyện, có những lúc các quốc gia vẫn muốn hợp tác với nhau và thành lập liên minh. Đó là lúc chúng tôi, những Swallow xuất hiện. Chúng tôi là người trung gian giữa các quốc gia, đồng thời đóng vai trò như một người hòa giải, nhờ khả năng định hướng nhạy bén và phi cơ có thể bay vĩnh viễn nhờ sở hữu động cơ vĩnh cửu được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Kết quả là chúng tôi có thể đi du hành từ nước này sang nước khác một cách dễ dàng.
Chúng tôi chỉ nhận được biểu đồ dòng chảy của một quốc gia chỉ khi chiếm được lòng tin và lập hợp đồng với họ. Bởi vì biểu đồ dòng chảy về cơ bản là sinh mệnh của hàng chục nghìn người sống ở đất nước đó, nên họ phải hết sức cẩn thận trong việc giao chúng cho người khác. Biểu đồ dòng chảy mà cha tôi để lại bao gồm đường đi của 15 quốc gia trong số này và 176 vị trí của các hòn đảo, vì vậy thực sự không hề quá khi nói rằng nó giá trị hơn mạng sống của tôi.
Khi biểu đồ dòng chảy được truyền lại cho thế hệ sau, người kế thừa phải được sự chấp thuận của người sở hữu trước đó thông qua thư giới thiệu hoặc di chúc. Ngoài ra, Hội Swallow còn có một loạt bài kiểm tra để xác định xem người đó có phù hợp để nhận nó hay không. Biểu đồ dòng chảy càng giá trị thì các bài kiểm tra này càng khó.
Nhưng việc chỉ nhận được biểu đồ dòng chảy không thôi không đồng nghĩa với việc các quốc gia sẽ ngay lập tức tin tưởng vào người kế nhiệm mới. Nếu tôi tiếp nối di sản của cha, điều đó có nghĩa là tôi phải nhận được sự tin tưởng mà các quốc gia này từng dành cho ông. Nói cách khác, tôi phải tự mình kiếm được nó.
Tôi mãi mãi biết ơn Vua Nave vì đã tin tưởng tôi. Nhờ đó, tôi đã tìm được một mục đích khác trong việc du hành trên bầu trời.
Thành thật mà nói, tôi không quan tâm lắm đến công việc hay thậm chí là mức lương khi trở thành một Swallow. Hiện tại, mỗi lá thư tôi mang từ Vessel trị giá khoảng 300,000 gotes, nhưng số tiền đó là quá nhiều. Tôi thậm chí còn không ngại cho chúng đi khắp nơi miễn phí.
Lý do thực sự khiến tôi làm tất cả những điều này chỉ là vì tôi thích bay, nhưng với tư cách là người thừa kế cái tên “Bạch Dực”, tôi phải bay với bổn phận đó. Đối với tôi, trở thành một Swallow không gì khác ngoài một cái cớ để đi khắp nơi, đồng thời thỏa mãn tình yêu của mình với bầu trời.
—
Sau chuyến thăm của tôi với nhà vua ở pháo đài trung tâm, cuối cùng tôi cũng có thể đưa lá thư cho một người trong thành phố, cũng là lý do chính tôi đến đây.
Đường phố ở Nave cực kỳ phức tạp và rất dễ bị lạc. Có lẽ nó được tạo ra như vậy để mang lại lợi thế phòng thủ tốt hơn nếu họ có bị quốc gia đối thủ xâm lược.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khu vực này nguy hiểm hay gì cả. Những con đường chật hẹp đi kèm với những ngôi nhà thậm chí còn hẹp hơn, và mọi thứ, kể cả con người, đều có cảm giác rất gần gũi với nhau. Tôi không thể đếm được số lần tôi nhìn thấy người trên cầu đi bộ ở phía trên đột nhiên chào hỏi người quen ở dưới đường.
Thật là một nơi ấm cúng để sinh sống.
“Giờ mình đang ở chỗ nào rồi nhỉ…” Tôi tự hỏi sau khi va phải một ngõ cụt khác. Đúng như dự đoán, việc di chuyển trên những con phố này thật khó khăn. Tôi đã đi qua nhiều ngõ cụt đến mức có thể đã đi qua đích đến nhưng mà lạc mất rồi cũng nên.
Sau khi lang thang thêm một lúc nữa, có ai đó đột nhiên gọi tôi.
“Này, cậu ơi,” một chàng trai trẻ nói từ phía sau.
Người này có vẻ ngoài vạm vỡ nhưng lại toát ra vẻ thân thiện nhờ đôi mắt xanh to tròn và mái tóc vàng bồng bềnh tự nhiên. Tôi biết anh ấy thuộc quân đội vì chiếc áo khoác màu nâu trên người có thêu hình lá cờ của Nave trên đó.
“Ừm, tôi không phải là kẻ đáng nghi hay gì đâu, vì tôi đến đây để—” tôi lẩm bẩm. Tôi bắt đầu giải thích nhưng bị cắt ngang bởi tiếng cười khúc khích của anh ấy.
“Không không không,” anh nói khi lắc đầu. “Tôi vừa nhận thấy cậu đi đi lại lại giữa hai nơi. Cậu bị lạc đúng chứ?
“Uhh… Không. Đợi đã, hả?” Tôi đáp lại với vẻ mặt trống rỗng.
“À, không phải vậy sao? Xin lỗi về điều đó nhé. Chúc cậu một ngày tốt lành."
Anh ấy quay người định bỏ đi, nhưng theo bản năng tôi đã hét lên trước khi anh ấy kịp làm vậy.
“Đ-Đợi đã! Tôi bị lạc rồi!”
—
“Một Swallow hả? Từ đã, cậu là phi công của Polaris? Ciel Migrateur?!” Anh nói với vẻ mặt hoài nghi.
Tôi bật cười.
“Tôi nghĩ cậu rất cừ, không phải xuất sắc, nếu cậu hiểu,”[note55310] anh ấy tiếp tục.
Mặc dù anh chàng này không hề giữ lời nhưng tôi không quá bận tâm. Lời nói tuy rất khắt khe, nhưng anh ấy có ý định tốt.
“Tôi hiểu điều đó rất rõ…” tôi trả lời. “Anh có xem toàn bộ từ bên dưới không?”
“À, xin lỗi, tôi chưa giới thiệu bản thân nhỉ? Tôi là thành viên của Sư đoàn Phi cơ Chiến đấu Đệ Nhất của Lực lượng Không quân Nave, Klyce Alouette.”
“Klyce… chờ đã, vậy anh là—”
"Chuẩn rồi! Tôi là phi công của chiếc Spitfire mà cậu đã đánh bại.”
Thật là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tại thời điểm này, tất cả những gì chúng tôi có thể làm chỉ là cười trừ.
“Tuy nhiên, với độ tuổi của cậu thì đó đã là một thành tựu khá lớn rồi. Về lý thuyết, tôi có phương tiện tốt hơn, động cơ tốt hơn và tôi nắm rõ địa hình hơn nên đáng lẽ tôi phải có mọi lợi thế… nhưng tôi vẫn thua.”
Klyce cười cay đắng. Anh ấy đủ chuyên nghiệp để không thể hiện điều đó ra ngoài, nhưng tôi có thể nói rằng anh ấy vẫn còn thất vọng vì trận thua vừa rồi.
Tôi không biết phải trả lời như thế nào. Phải có điều gì đó tôi có thể nói mà có lợi cho cả tôi và anh ấy. Nếu tôi đáp lại bằng cách nói rằng điều đó không đúng thì có thể khiến anh ấy khó chịu. Mặt khác, có thể tôi sẽ tỏ ra quá kiêu ngạo nếu nói rằng anh ấy đã chiến đấu tốt hoặc chỉ đơn giản là đồng ý với anh ấy.
Tôi nên nói gì đây? Không biết nữa. Những lúc như thế này, tôi ước mình là một người trưởng thành có thể bình tĩnh thoát khỏi tình huống này một cách tốt đẹp, nhưng sự thật tôi vẫn chỉ là một đứa trẻ không biết phải làm gì.
Cuộc trò chuyện của chúng tôi dừng lại vì tôi không đáp lại bất cứ điều gì. Thay vào đó, tôi tiếp tục đi theo Klyce khi anh ấy dẫn tôi đến địa chỉ đích đến. Tôi chỉ ước mình biết cách nói chuyện với mọi người tốt hơn—kỹ năng giao tiếp của tôi chưa bao giờ đủ tốt cả.
Sau khi leo lên một ngọn đồi nhỏ, Klyce bất ngờ hỏi tôi một câu hỏi.
"Này, tại sao tôi không thể thắng cậu?"
Tôi nghĩ về điều đó một chút trước khi trả lời: “Thay vì tập trung vào bản thân, anh lại mắc kẹt ở trong trò chơi của tôi. Nếu anh không vào thành phố phía sau tôi, kết cục của trận đấu có lẽ đã khác”.
“Chà, tôi không thể từ chối một thử thách như thế ngay dưới bầu trời của mình được.”
“Không, không phải vậy,” tôi nói, gật đầu. “Spitfire của anh hoàn toàn vượt trội hơn tôi về tốc độ, nhưng về độ cơ động, tôi có lợi thế hơn một chút với khả năng thực hiện những vòng cua nhỏ hơn. Trong trường hợp đó, vì tôi đã đưa anh vào thành phố nên tôi đã có lợi thế. Thêm vào đó, động cơ vĩnh cửu của tôi hoạt động tốt hơn ở những tốc độ chính xác so với động cơ xăng. Nếu anh chọn trận chiến của mình tốt hơn, có thể như ở bầu trời rộng mở hơn, nơi anh có thể tận dụng tốc độ của mình một cách tự do hơn—“
Tôi dừng lại ngay khi nhận thấy Klyce không nói gì.
“Xin lỗi, nghe có vẻ rất tự phụ, phải không…”
"Không có gì. Cuối cùng tôi cũng cảm thấy mình đã hiểu tại sao mình lại thua…” lần này anh ấy nói với một nụ cười chân thành. Anh ấy có vẻ hạnh phúc hơn, nhưng tôi không thể nói chắc chắn. “Này, cậu có nghĩ cuộc chiến đó thú vị không?”
“Ừm, có một chút.”
“Tôi biết ngay mà…” anh thì thầm. “Cậu biết đấy, tôi thực sự rất sợ hãi đó. Khi chúng ta ở thành phố đó và tôi ở phía sau cậu, điều đó thực sự đáng sợ”.
Anh dừng lại một lúc để nhìn lên bầu trời. “Ngay cả khi trên không, cậu vẫn có những suy nghĩ đầy toan tính như vậy. Cậu hiểu điểm mạnh và điểm yếu của mình là gì và đặt tôi vào tình thế mà cậu có thể lạm dụng lợi thế đó. Trong khi đó tôi lại quá chìm đắm trong niềm kiêu hãnh và sự kiêu ngạo của mình đến mức không nhìn thấy con đường dẫn đến chiến thắng. Đó là lý do tại sao tôi thua.”
Tôi quá sửng sốt trước lời nói của anh ấy đến nỗi không thể nói lại được gì. Chắc hẳn giờ tôi đang làm vẻ mặt kỳ lạ lắm, vì Klyce chỉ nhìn chằm chằm vào tôi.
"Chuyện gì vậy?"
“À, không có gì… Tôi chỉ chưa bao giờ nghĩ đến điều đó trước đây thôi.”
Klyce nghe tôi nói vậy và bật cười theo cách tương tự như nhà vua. Tôi cảm thấy hơi lo lắng vì không hiểu tại sao anh ấy lại cười.
“Vậy, cậu nghĩ gì khi bay?”
“Những gì tôi nghĩ?”
“Ừ, cậu đang nghĩ gì trong đầu?”
Tôi mất một lúc để suy nghĩ về nó nhưng vô ích.
“Tôi không biết nữa…” Cuối cùng tôi cũng trả lời.
“Cậu không biết mình đang nghĩ gì à?”
Tôi gật đầu.
"Hừm, thú vị đó…"
“Có lẽ tôi không nghĩ gì cả?”
“Có thể,” anh trả lời.
“Còn anh thì sao, Klyce?” Tôi hỏi. Tôi rất ngạc nhiên khi lần này chính bản thân là người nối tiếp cuộc trò chuyện. “Anh nghĩ gì khi đang bay trên bầu trời?”
“Cái chết của chính tôi, và sau đó là của đối thủ,” anh trả lời ngay.
Tôi nuốt nước bọt. Thật là một phản hồi mạnh mẽ.
“Tôi sinh ra để chiến đấu,” anh tiếp tục. “Đó là lý do tại sao nhiệm vụ của tôi là hạ gục kẻ thù, trước khi tôi bị hạ gục.”
Đối với tôi, tôi chưa bao giờ giết một phi công nào khác trong đời. Mặc dù cho đến nay đã tham gia nhiều trận chiến, nhưng tôi vẫn chỉ gây ra một lượng sát thương đủ để khiến chúng rút lui hoặc tự mình rút lui. Là một Swallow, công việc của tôi là bảo vệ hàng hóa ở trên phi cơ. Tôi không cần phải sử dụng súng máy để làm điều đó, ngay cả khi ở trong một trận chiến.
Mặt khác, Klyce không ngần ngại sử dụng súng của mình. Mục đích duy nhất của anh là chiến đấu, chiến đấu và chiến đấu. Đó là một sự thật hiển nhiên vì anh ấy là một quân nhân, nhưng tôi vẫn không thể hiểu nổi.
“Thật là khó khăn… phải không,” tôi nói nhẹ lại.
Klyce lắc đầu. “Tôi không nghĩ vậy.”
"Tại sao không?"
“Nếu tôi chiến đấu, người khác sẽ không phải làm vậy.”
Cuối cùng tôi cũng hiểu được một chút điều anh ấy muốn nói, nhưng không thể biết đó chỉ là những lời nói sáo rỗng, hay là logic thực sự của anh ấy. Dù thế nào đi nữa, tôi vẫn giữ quan điểm rằng đó không phải là một điều tốt.
“Vậy là anh đang hy sinh bản thân để cứu người khác?”
“Ừ, đại loại vậy đó.”
“Đúng là khó khăn mà…”
“Tuy nhiên, tôi không nghĩ đó là một điều xấu. Tôi muốn bảo vệ mọi người và đảm bảo họ được an toàn,” anh nói, nói với chính bản thân hơn là với tôi.
Tôi không nói thêm gì nữa, chỉ chọn cách im lặng bước đi. Nhưng một lúc sau, anh ấy bất ngờ hỏi tôi một câu hỏi khác.
“Này, tại sao cậu lại trở thành một Swallow?”
“Là vì tôi cần một lý do để bay,” tôi trả lời không một chút do dự.
"Một lý do?"
"Vâng. Tôi đã lấy tên của cha tôi—Akasha Migrateur—Polaris và cả biệt danh “Bạch Dực”, để bay. Với những điều đó, tôi cần phải trở thành một Swallow.
“Ồ…” anh trả lời, có vẻ đang suy nghĩ sâu sắc. Anh im lặng một lúc trước khi thốt ra điều cuối cùng.
“Cậu cũng khó khăn nhỉ…” anh ấy nói, mỉa mai làm sao lại giống hệt câu tôi vừa nói trước đó.
“Sao lại như vậy?”
“Cậu đã trở thành một Swallow để có thể bay phải không?”
Tôi gật đầu và Klyce mỉm cười.
“Tôi lại nghĩ rằng mọi người muốn bay để cuối cùng họ có thể trở thành Swallow, chứ không phải ngược lại.”
Tôi suy nghĩ cẩn thận về những gì anh ấy nói, nhưng vẫn không thể hiểu hoàn toàn được. Những gì anh ấy vừa nói giống như cầu vồng - ở gần đến nỗi tôi cảm thấy như mình đã nhận ra, nhưng lại xa đến mức tôi cảm thấy không thể hiểu nổi ý của anh là gì.
“Việc vươn tới bầu trời chỉ vì ước muốn cá nhân có tệ đến vậy không? Chỉ để thỏa mãn bản thân? Tôi nhẹ nhàng hỏi.
"Dĩ nhiên là không. Tôi nghĩ nó thật tuyệt… nhưng chỉ là nó không dành cho một người như tôi,” anh ấy trả lời trước khi dừng lại. “Được rồi, chúng ta đã đến nơi. Đây là đích đến.”
Chúng tôi đã đến đích trước khi tôi kịp nhận ra. Tôi đã quá tập trung vào cuộc trò chuyện đến nỗi không biết rằng chúng tôi đã nói chuyện trong bao lâu.
“Cậu biết đấy Ciel, tôi rất vui vì có thể nói chuyện với cậu.”
Tôi gật đầu. “Cảm ơn anh vì đã dẫn đường,” tôi nói.
Klyce định bỏ đi nhưng quay lại một lần để nói một điều cuối cùng.
“Tôi hy vọng một ngày nào đó cậu sẽ tìm ra lý do thực sự để trở thành một Swallow.”
Tôi cúi đầu chào anh ấy rồi tiến tới gõ cửa. Đây là một lá thư cần phải được chuyển đến.
—
Một cô gái trẻ đeo tạp dề và quấn băng trên đầu trả lời, nên tôi cho rằng cô ấy là một trong những hầu gái.
“Tôi là Ciel Migrateur từ Hội Swallow của Vessel. Tôi có một lá thư cần chuyển đến.”
"Một Swallow?!?" cô ấy nói, nhanh chóng dẫn tôi đến một phòng tiếp tân nhỏ. “Xin hãy đợi ở đây một lát! Tôi sẽ đi đưa ông chủ đến đây.
Cô cuống cuồng vội vã rời đi. Chắc họ đã không dự đoán được sự có mặt của tôi.
Một lúc sau, một người đàn ông lớn tuổi bước vào phòng. Tóc ông đã bạc từ lâu và được chải gọn gàng về phía sau, nhưng ngay cả khi đã già ông vẫn tỏ ra rất khỏe mạnh. Ông cũng đang mặc một chiếc áo khoác len màu xanh hải quân bóng loáng. Bởi vì cần rất nhiều đất và cỏ để nuôi cừu lấy lông, chắc hẳn chiếc áo khoác của ông ấy có giá khá cao.
“Tôi rất ngạc nhiên khi biết mình có thứ gì đó gửi từ Vessel,” anh nói. “Nó từ ai vậy?”
“Một người bạn cũ,” tôi đáp, “theo lời của người gửi.”
Tôi thò tay vào chiếc túi da màu đào của mình và lấy ra một lá thư được niêm phong bằng một chút sáp đỏ.
Ông ấy xem xét bức thư thật kỹ trước khi lấy con dao ra và cắt nó ra một cách gọn gàng.
“Giờ thì, đó có thể là ai nào…” anh nói khi đọc nội dung. “Ừm… Ừm… quả thực nó là từ một người bạn cũ từ thời chiến. Điều này mang lại nhiều kỷ niệm.”
Ông mỉm cười rồi quay lại nhìn tôi.
“Cậu có biết người gửi bức thư này không?”
"Hm? Ồ, không, tôi không biết. Tôi chỉ là người đưa thư thôi.”
Đó là một điều luật bất thành văn giữa tất cả các Swallow để không làm xáo trộn nội dung gửi và không can thiệp vào cuộc sống của người gửi và người nhận. Một lưu ý tương tự, các Swallow sẽ không chịu trách nhiệm về những gì người gửi đã chọn để gửi. Miễn là họ được trả tiền, họ sẽ sẵn sàng giao bất cứ thứ gì. Họ chỉ không chịu trách nhiệm về nội dung bên trong.
Có lẽ truyền thống này dần dần phát triển vì nhu cầu vận chuyển những hàng hóa nguy hiểm sẽ gây ra những vấn đề ngoại giao giữa các nước. Đó là lý do tại sao tôi chưa bao giờ cố gắng tìm hiểu hơn mức cần thiết. Nó sẽ chỉ đem lại những rắc rối mới.
“Tôi chắc rằng anh ta rất vui khi được nói chuyện với một Swallow trẻ tuổi như cậu. Người gửi cũng từng là một Swallow, cậu biết đấy,” ông nói. Mặc dù đang nhìn thẳng vào tôi, nhưng tâm trí ông dường như lại đang hồi tưởng về quá khứ của chính mình. ”Còn tôi, mặc dù bây giờ không thể nào nhìn ra, nhưng tôi đã từng thuộc Lực lượng Không quân Nave đấy.”
Tôi gật đầu. Đó là lý do khiến ông ấy trông vẫn mạnh mẽ dù đã ở độ tuổi đó.
“Đó đã từ rất lâu rồi…” ông tiếp tục. “Anh ấy đang trên đường đến Nave để giao thứ gì đó thì bị tấn công bởi cướp biển của quốc gia khác. Chúng tôi đã cùng nhau thoát khỏi chuyện đó… Thật ngạc nhiên là tôi vẫn còn nhớ.”
Ông ấy dành thời gian nghĩ về quá khứ của mình trước khi tiếp tục.
“Cậu vẫn còn thời gian chứ?”
"Tôi có. Tôi chỉ đến đây để chuyển lá thư đó thôi,” tôi mỉm cười trả lời.
“Vậy cậu có thể đợi một chút được không? Tôi muốn gửi thư hồi đáp.”
“Đó là vinh dự của tôi.”
“Tôi sẽ đi bảo hầu gái chuẩn bị phí. Xin hãy tự nhiên như ở nhà. Nếu có bất cứ điều gì cậu cần, xin đừng ngần ngại hỏi bất kỳ ai trong chúng tôi.”
"Cảm ơn rất nhiều."
“Tôi thực sự vui mừng khi cậu đến hôm nay. Bây giờ tôi xin phép một chút.”
Ông ấy cúi chào tôi và vui vẻ rời khỏi phòng.
Hầu hết người nhận thường viết lại khi họ nhận được thư. Nhìn chung, những bức thư thường tốn khoảng 200,000 đến 400,000 gotes để chuyển đi, thậm chí còn cao hơn phụ thuộc vào khoảng cách, nên số tiền phải chi ra là một khoản đáng kể. Hầu hết mọi người thậm chí không tiêu đến từng ấy tiền trong một tháng. Tất nhiên, trong khi có nhiều khách hàng vô cùng giàu có, mục đích để sử dụng những dịch vụ này vượt xa những vấn đề tiền bạc.
Trong một thế giới nơi các quốc gia tách biệt hoàn toàn với nhau, mọi người đều sẵn sàng chi bất kỳ số tiền nào chỉ để có thể liên lạc với những người bạn bên kia đại dương. Khi tôi còn nhỏ, cha tôi thường nói với tôi rằng được gặp gỡ mọi người từ khắp nơi trên thế giới là một điều vô cùng xa xỉ. Đó là lý do tại sao ông ấy tin rằng trở thành một Swallow có khả năng làm được những điều như vậy là một sự may mắn.
Mặc dù tôi biết những gì ông ấy nói một cách rõ ràng, nhưng tôi vẫn không thể hiểu nổi. Mọi người luôn rất vui khi tôi giao hàng đến, điều đó khiến tôi tỏ ra vui vẻ, nhưng những gì tôi cảm thấy thật lòng không gì hơn vẻ bề ngoài kia. Đôi khi tôi cảm thấy căng thẳng đến mức khó thở, cuộc sống trở nên quá khó khăn.
Tôi tự hỏi tại sao ngay từ đầu việc gặp gỡ người khác lại được coi là một điều tốt.
Việc tôi đang làm có thực sự quan trọng đến vậy không?
—
Tôi nhận được thư trả lời của ông ấy vào cuối ngày hôm đó và rời Nave. May mắn là trong thời gian tôi ở đây, khoảng cách địa lý giữa hai nước đã rút ngắn nên lúc về sẽ nhanh hơn. Bằng cách bay khoảng 6 tiếng và sau đó dừng lại qua đêm tại một nơi không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ dòng hải lưu nào, tôi sẽ có thể đến được Vessel vào trưa mai.
Và đúng như đã tính toán, tôi đến được Vessel khi mặt trời lên đỉnh vào ngày hôm sau.
Diện mạo của một đất nước nói lên rất nhiều về lịch sử của nó. Ví dụ, Vessel có vẻ ngoài hoàn toàn khác so với Nave. Không giống như Nave với bề ngoài chứa đầy pháo binh kiên cố, khung cảnh và các thị trấn của Vessel lại thơ mộng hơn. Ở trung tâm của những thị trấn đó xuất hiện một lâu đài lấp lánh tựa như truyện cổ tích, phản chiếu ánh mặt trời như một tấm gương.
Vessel còn được mệnh danh là “Công Chúa của Đại Dương” do nguồn tài nguyên dồi dào cùng nền hòa bình vĩnh cửu. Các quốc gia như Vessel rất ít và cách rất xa nhau, bởi vì nó đòi hỏi phải có dòng hải lưu đi qua nhiều hòn đảo mà không có quốc gia nào khác cản trở. Kết quả là, nó có thể khai thác tài nguyên một cách hiệu quả nhờ sự độc quyền tuyệt đối đối với các hòn đảo.
Ngay cả khi nhìn từ xa, Vessel trông như đang tràn đầy sự giàu có.
Khi đến gần, tôi điều chỉnh đúng tần số và mở đường dây liên lạc với tháp điều khiển.
“Đây là Ciel Migrateur từ Hội Swallow của Vessel.”
“Ồ này, Ciel, chào mừng trở lại. Cậu có thể hạ cánh.
"Cảm ơn."
Tôi không thể đếm được mình đã gọi chính xác cuộc gọi đó bao nhiêu lần cho họ nữa, vì vậy chắc hẳn đến giờ họ đã quen với tôi rồi. Họ thậm chí có thể nhận ra phi cơ của tôi chỉ bằng một cái lướt qua sau khi đã nhìn thấy nó vô số lần.
“Xin hãy hạ cánh ở cảng 16 như thường lệ.”
“Rõ—Thật tốt khi được trở lại.”
Tôi luôn cảm thấy hơi lo lắng mỗi khi trả lời: “Thật tốt khi được trở lại”. Bằng cách nào đó, tôi luôn cảm thấy gượng gạo mỗi khi nói câu nói ấy.
Sau đó, tôi cắt liên lạc và vòng về phía Nam để hạ cánh.
—
Sau khi hạ cánh, tôi lập tức đi đến lâu đài. Tôi đã ngắm nhìn nó vô số lần, nhưng sự choáng ngợp khi nhìn thấy nó vẫn như lần đầu vậy. Nó rất đồ sộ, khiến ai cũng phải ngước nhìn hết mức mới thấy được đỉnh, nhưng lại trong sạch và nguyên sơ như những bậc thang cất lên thiên đường. Tôi đã nhìn thấy rất nhiều lâu đài kể từ khi trở thành Swallow, nhưng không có cái nào tráng lệ và hoành tráng như lâu đài này.
Sau khi đến nơi, tôi được một số cận vệ hoàng gia dẫn lên thang máy và vào phòng ngai vàng.
“Tôi, Swallow Ciel Migrateur, vừa trở về,” tôi quỳ gối và nói.
“Chúc mừng cậu đã trở về an toàn. Hãy đứng dậy,” nhà vua trả lời.
Tên ông là Sole Vessel Canal. Mặc dù đã khoảng 50 tuổi, nhưng ông lại toát ra một khí chất vô cùng mãnh liệt khiến ông có vẻ trẻ hơn nhiều so với tuổi thật. Vì khả năng xuất sắc trong việc duy trì và thậm chí mở rộng của cải và tài nguyên quốc gia, ông được người đời mệnh danh là “Vị Vua Thông Thái”.
“Đây là chuyến đi đầu tiên của cậu đến Nave phải không? Đặc biệt là bây giờ cậu đã nhận được danh hiệu 'Bạch Dực' sau Akasha. Nó thế nào?"
“Khi tôi đến, tôi được mời tham gia một trận không chiến. Sau đó, tôi được diện kiến nhà vua, ông ấy nói với tôi…” Tôi ngừng lại và cười cay đắng. “Rằng tôi cũng giỏi như cha tôi và tôi đã hứa một lời hứa với ông ấy.”
Đôi mắt của Sole sáng lên. "Ta hiểu rồi! Đối thủ của cậu là ai?
“Một quân nhân tên là Klyce Alouette từ Sư đoàn Không quân Đặc biệt của Nave. Anh ấy là một chiến binh xuất sắc.”
“Để một người như cậu phải nói như vậy… cậu ta hẳn phải khá giỏi.”
Tôi gật đầu. Tôi có thể dành ra nhiều ngày chỉ để nói về kỹ năng của Klyce, nhưng tôi nghĩ có lẽ Sole cũng quan tâm đến phi cơ của anh ấy.
“Phi cơ của anh ta mạnh đến nực cười,” tôi nói thêm. “Nó chỉ là một nguyên mẫu Spitfire, nhưng có lẽ nó là một mẫu mới vượt xa những gì chúng ta có thể phát triển. Theo ước tính của tôi thì anh ấy di chuyển với tốc độ khoảng 600 km/h, và thậm chí có thể đẩy nó lên khoảng 650.”
“Ta hiểu rồi… Nếu vậy thì chúng ta hoàn toàn bị vượt mặt ở khoản đó, phải không.”
"Đúng vậy. Nó có thể vẫn là nguyên mẫu, nhưng chiếc phi cơ đó có công suất ít nhất là 2.000 mã lực.”
Sole cau mày và im lặng một lúc để suy nghĩ.
“Dù thế nào đi nữa, ta đánh giá cao thông tin này,” cuối cùng ông ấy nói. “Cảm ơn cậu. Ta hy vọng cậu sẽ tiếp tục hỗ trợ quốc gia của chúng ta từ bây giờ trở đi.”
“Cảm ơn bệ hạ rất nhiều,” tôi cúi đầu nói và nhanh chóng rời đi.
“Đợi đã, Ciel.”
“Ngoài lề một chút, nhưng gần đây cậu có đến quốc gia lân cận nào khác ngoài Nave không?”
“Không ạ. Công việc cuối cùng của tôi trải dài từ đảo Divel đến vùng quê Barco.”
“Barco hả? Từ đây đến đó khá xa đấy.”
"Vâng. Tôi đã dành toàn bộ thời gian ở đó, nên vẫn chưa làm gì quanh đây cả,” tôi trả lời. “Có quốc gia nào mà bệ hạ hứng thú không?”
“À, không. Xin lỗi cậu vì câu hỏi vừa rồi.”
—
Bởi vì việc du lịch đến các quốc gia khác nhau là chuyện hiếm, nên việc thu thập thông tin về các quốc gia khác là tương đối khó khăn. Trên thực tế, nguồn tin chính của việc đó là từ những Swallow chúng tôi. Khi trở về từ nhiệm vụ, chúng tôi thường mang về những thông tin như sự thành lập hoàng gia mới, liên minh hoặc chiến tranh liên quan đến các quốc gia, và thậm chí cả những thứ như sự phát triển hoặc mở rộng công nghệ mới trong quân đội của họ. Đôi khi chúng tôi thậm chí còn lấy thông tin như thế làm khoản thanh toán.
Tôi chắc chắn rằng những quan sát của tôi về động cơ xăng của Nave rất có giá trị và thậm chí sẽ hữu ích trong tương lai.
Sau cuộc gặp với nhà vua, tôi chuyển lá thư trả lời lại cho người yêu cầu ban đầu và đi dạo quanh khu vực trung tâm thành phố, quanh những cửa hàng tấp nập dọc theo sườn dốc gạch.
Đó là một cảnh tượng khá sống động. Có những làn người nối tiếp trên đường phố, và những tòa nhà sạch sẽ lấp lánh dường như trải dài từ chân đồi cho đến tận đỉnh trời. Tại thời điểm này, năng lượng và sự sống động này cũng có thể gọi là một thương hiệu của Vessel.
Tôi dự định mua thực phẩm và đồ dùng đủ cho khoảng hai tuần với mỗi chuyến đi vào trung tâm thành phố. Đối với tôi, thực phẩm chủ yếu bao gồm thịt lợn muối và thịt hun khói, cùng với những thứ khác như rau, trứng và bánh mì.
Điều đáng kinh ngạc là Vessel hiếm khi xảy ra tình trạng thiếu lương thực, không giống như các quốc gia khác, nơi đôi khi không có đủ thực phẩm và vật tư để bán. So sánh với họ, Vessel có những lựa chọn mua hàng hóa đáng kinh ngạc.
May mắn thay, tôi đã lên kế hoạch từ trước nên có thể dành thời gian để mua mọi thứ. Hiện tại, Vessel đang cách hòn đảo nhỏ Sunk Tierra ở phía Đông Bắc khoảng 1,000km. Cha tôi là người đã tìm ra hòn đảo này và nó đã trở thành địa điểm tới lui thường xuyên của tôi.
Tôi dự định sẽ dành 1 tuần nghỉ ngơi ở trên hòn đảo đó. Dù sao thì, tôi cũng đã kiếm được số tiền bằng cả năm kiếm được từ công việc ở Nave mà, tại sao không nhỉ?
—
Tôi chất đầy phía sau tất cả thực phẩm và đồ dùng tôi mua trong ngày và rời Vessel vào khoảng buổi tối. Gió rất dịu và yên bình, nhưng hơn cả, khung cảnh hoàng hôn thật đẹp. Ánh sáng đỏ rực của mặt trời nhảy múa cùng bầu trời và đại dương xung quanh nó, tạo nên một hình ảnh của đường chân trời tựa như tranh vẽ.
Hít một hơi thật sâu, tôi bay thẳng vào bức tranh đó. Tôi thích ngắm nhìn bầu trời đổi màu ở khoảng cách gần như thế này, vì tôi thực sự tin rằng đó là cảnh tượng đẹp nhất trên thế giới.
Sau khi bay khoảng ba giờ, cuối cùng tôi cũng đến được hòn đảo nhỏ bé, Sunk Tierra. Sẽ thật tuyệt nếu chúng ta phát hiện ra nó sớm hơn, nhưng nó nằm ở khu vực không có dòng hải lưu nào đi qua và thực sự rất khó phát hiện khi ở trên cao. Trên thực tế, những người duy nhất biết đến hòn đảo này là cha tôi và một vài cộng sự thân thiết của ông ấy.
Cha tôi đã xây một bến tàu khổng lồ để cập bến và một túp lều bên trong một vịnh nhỏ hình lưỡi liềm.
—
Khi hạ cánh, tôi không thể không chú ý đến khung cảnh xung quanh mình lần nữa. Bầu trời bây giờ có màu đỏ nhạt hơn do mặt trời lặn, nhưng nó cũng đủ khiến cát trên bãi biển lấp lánh. Nước biển như thể trong suốt, và xa hơn nữa là túp lều và khu rừng rậm rạp xung quanh hiện ra trước mắt.
Đây thực sự là chốn bồng lai tiên cảnh. Ngay cả việc gọi Sunk Tierra là “Vùng Đất Thánh” cũng không hề cường điệu. Không thể xác định được bao nhiêu tiền tài và của cải con người sẵn sàng chi ra cho hòn đảo này.
Tôi đoán việc tôi đang nghĩ về hòn đảo này đáng giá bao nhiêu khi nhìn thấy vẻ đẹp của nó có nghĩa rằng, hoặc là tôi đã trưởng thành hơn, hoặc suy nghĩ của tôi đang dần trở nên suy đồi theo thời gian.
Tôi cẩn thận hạ cánh phi cơ xuống bến tàu, khiến nó chìm xuống một chút kèm theo tiếng cọt kẹt. Bản thân bến tàu chỉ nổi phần lớn trên mặt nước nên nó lắc lư khi tôi đi trên nó.
“Thật là một cảnh tượng hoài niệm…” Tôi không thể không thì thầm với chính mình.
Lần cuối cùng tôi đến đây là khi 7 tuổi. Lúc đó cha tôi đã đưa tôi đến đây, nhưng lại nhanh chóng quay về Vessel mà không nói một lời. Vì vậy, tôi đã bị mắc kẹt trên hòn đảo này một mình trong 4 ngày.
Hồi đó tôi thực sự nghĩ mình sắp chết đến nơi, mặc dù bây giờ tôi có thể cười khi nghĩ lại chuyện đó. Tôi khóc, khóc đến khi hai mắt sưng đỏ khi nằm trên bãi biển nhìn lên bầu trời đêm.
Cảnh tượng trước mắt tôi vào đêm đó thật choáng ngợp. Bầu trời trông như thể ai đó đã ném một loạt đồ trang sức vào khoảng không hư vô, và nó đủ ấn tượng đến mức khiến tôi quên đi hoàn cảnh của mình trong giây lát. Đó thật sự là một mảng màu sắc rực rỡ ngoạn mục.
Trước đây tôi chưa từng được chứng kiến cảnh tượng như vậy. Quang cảnh từ những thành phố tôi đã ghé thăm hay thậm chí từ trên Polaris còn không thể sánh bằng.
Đêm đó, tôi nhận ra rằng ngay cả thế giới này cũng có thể có những khoảnh khắc đẹp đẽ.
Ngày hôm sau, tôi nằm lười nửa ngày trước khi dành nửa ngày còn lại để cố nhóm lửa từ những kiến thức ít ỏi còn nhớ được. May mắn thay, tôi đã thành công và thậm chí còn bắt được một ít cá nữa. Vào ngày thứ ba, tôi đặt một số bẫy và dùng chúng để bắt cá. Tôi đã thử ăn cả cỏ để có thêm thức ăn, nhưng tất nhiên trước tiên tôi phải nếm thử một ít và đợi cả tiếng đồng hồ xem có ảnh hưởng gì hay không. Mặc dù nó không gây ra bất kỳ vấn đề gì cho tôi, khiến tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ăn nó, nhưng nó đắng đến mức kinh dị.
Khi mặt trời lặn, tôi run lên vì sợ hãi trước âm thanh của thú rừng vây quanh, nên tôi đắp chăn bên cạnh đám lửa trong lều và đợi trời sáng.
Chỉ trong 4 ngày, tôi đã học được rất nhiều điều từ hòn đảo. Những thứ như khó khăn trong việc kiếm được thứ gì đó để ăn, những đêm kinh hoàng, bầu trời tuyệt đẹp, sự biến đổi của đại dương, cuộc sống trong rừng và quan trọng nhất là sự bao la, rộng lớn của thế giới này so với tôi.
Đối với tôi, hòn đảo này là một trải nghiệm học hỏi đáng giá.
Tôi mở cửa lều và phủi bụi bám trên quần áo. Bên trong, không có gì thay đổi cả - mọi thứ vẫn y hệt như tôi nhớ.
Chắc chắn có một số thứ cần phải dọn dẹp, nhưng tôi không cần phải làm mọi thứ ngay lập tức. Hiện tại, chỉ cần chiếc giường là đủ. Vì gỗ không bị mục nát hay bất cứ thứ gì ghê tởm như vậy xảy ra nên tôi nghĩ tối nay nên dọn giường trước đã. Dù sao thì cũng có nhiều thời gian mà, không cần phải vội.
Sau khi tôi mang hết hành lý và đồ dùng vào trong lều thì trời đã tối. Sau khi làm xong, tôi thắp đèn lồng và đi ra bãi biển, như tôi vẫn thường làm khi còn nhỏ.
—
Tôi đã lên kế hoạch cho cả tuần tới… hoặc là không, tùy thuộc vào cách tôi nhìn nhận nó như thế nào. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì tôi muốn cả ngày lẫn đêm, ngủ và thức dậy bất cứ khi nào tôi muốn. Tôi sẽ nấu tất cả những món ăn ngon mà tôi muốn nấu và ngắm nhìn những cảnh đẹp mà Noah mang lại.
Đó sẽ là cách tôi trải qua trong tuần tiếp theo… hoặc tôi tin là vậy. Bằng cách nào đó tôi có cảm giác hòn đảo này không hề tách biệt với phần còn lại của thế giới như tôi nghĩ. Vừa bước ra khỏi túp lều, tôi lập tức nhận thấy có điều gì đó kỳ lạ.
"Cái gì…đây?"
Có thứ gì đó trên bãi biển trông giống như một mảnh gỗ trôi dạt. Điều này khơi gợi sự chú ý đủ để tôi bước tới và xác nhận, và khi làm vậy, tôi nhận ra rằng mình đã hoàn toàn sai lầm. Đường nét mờ nhạt của nó cho thấy nó giống một mảnh vải hơn. Mãi cho đến khi soi đèn ngay bên cạnh, tôi mới biết chính xác nó là gì.
"Một người!??!" Tôi ngã xuống vì sốc. Tấm vải mà tôi nhìn thấy hóa ra là bộ quần áo trắng của cô ấy, và giờ tôi đã ở đủ gần để có thể nhìn thấy chân, tay, mặt… toàn bộ mọi thứ.
Tôi lấy lại bình tĩnh và từ từ tiến đến gần thân hình nhỏ nhắn của cô gái trong khi chiếu đèn lên khuôn mặt cô ấy. Ban đầu tôi tưởng cô đã chết vì da cô trắng như tuyết, nhưng tôi có thể nghe thấy tiếng thở yếu ớt khi áp tai lên mặt cô ấy.
Cô ấy còn thở, điều đó có nghĩa là hiện tại cô ấy vẫn còn sống. Tôi cảm nhận được bàn tay của cô - nó lạnh kinh khủng, có lẽ vì đã ở ngoài biển một thời gian dài. Tôi cần phải sưởi ấm cho cô ấy.
Tôi bế cô gái lên sau một chút lưỡng lự. Cô ấy nhỏ con, nhưng vì quần áo đã thấm nước nên nặng hơn tôi tưởng. Tôi hết sức cẩn thận để không đánh rơi cô ấy khi đưa cô trở lại túp lều.
Ôm cô trong vòng tay, chỉ cần nhìn qua sắc mặt là có thể biết rằng cô ấy đang vô cùng đau đớn, nên tôi vội vã quay lại túp lều và đặt cô ấy xuống giường của mình. Tôi không biết phải làm gì - đôi tay cũng mỏi mệt rã rời.
Cô ấy đã bị nước biển ngấm sâu vào người. Nếu cứ để thế này sẽ không lâu nữa thân nhiệt của cô sẽ rơi xuống mức báo động, nhưng để làm ấm một cách hiệu quả, trước tiên tôi phải cởi quần áo ướt của cô ấy ra. Tất nhiên, cởi bỏ quần áo khi cô ấy bất tỉnh có vẻ không phải là lựa chọn hợp lý. Lỡ như cô ấy đột nhiên tỉnh lại thì sao?
Tôi do dự và nhìn qua khuôn mặt của cô. Cô ấy rất xinh đẹp, nhưng biểu cảm của cô ấy cho tôi biết rằng cô sắp chạm giới hạn— Tôi phải làm gì đó nhanh lên.
Tôi có thể làm gì bây giờ? Ngay cả việc cởi quần áo của cô ấy cũng không hề đơn giản. Theo những gì tôi thấy, cô ấy đang mặc một chiếc váy liền màu trắng với một chiếc áo khoác ngắn màu trắng bên ngoài, được kết nối với một loạt dây quấn quanh lưng và nối vào vòng cổ của cô. Cô ấy cũng đeo một loại mặt dây chuyền nào đó, nhưng tôi không thể nhìn rõ nó vì đã bị giấu trong quần áo.
“Đ-Đúng là bất khả thi mà,” tôi nói, cố gắng giữ khoảng cách vừa phải nhưng cũng đồng thời cố tìm cách cởi áo khoác của cô ấy.
Mọi thứ dường như đều được kết nối với vòng cổ nên tôi phải tháo nó ra trước. Tuy vậy, không có chỗ nào rõ ràng phía ngoài vòng cổ mà tôi có thể làm điều đó.
“Nó phải ở bên trong vòng cổ,” tôi kết luận. Tôi cẩn thận lướt ngón tay qua mái tóc xanh mượt của cô ấy rồi luồn thẳng vào vòng cổ của cô. Thực sự có nút ở bên trong.
Việc tháo nút bằng một tay tỏ ra khá khó khăn.
Xin lỗi, làm ơn hãy chờ thêm chút nữa.
Trông cô ấy như thể đang gặp ác mộng, hơi thở cũng trở nên nặng nhọc hơn.
Tôi nhẹ nhàng tháo chiếc cúc trên cổ cô ấy, trèo lên giường ngay cạnh cô, tay còn lại vòng qua đầu cô ấy để nắm chặt hơn. Tay tôi vừa chạm nhẹ vào mặt cô nhưng tôi nhìn đi chỗ khác và tập trung vào nhiệm vụ trước mắt.
May mắn thay, tôi đã có thể cởi nó ra mà không gây quá nhiều áp lực cho cô ấy. Khuôn mặt của cô thậm chí đã thư giãn hơn một chút sau khi tôi cởi vòng cổ ra. Với điều đó, tôi đã có thể cởi áo khoác ngoài của cô ấy và mọi thứ dường như trở nên đơn giản hơn từ đó. Đôi găng tay dài màu xanh nước biển của cô cũng dễ dàng tháo ra.
Tôi phải liên tục tự nhủ rằng không còn cách nào khác vì tôi cảm thấy mình đã chạm vào cô ấy quá nhiều.
Cuối cùng, tôi đã có thể cởi được mọi thứ trừ bộ váy liền, mặt dây chuyền và đôi tất dài của cô. Không thể nào tiến xa được nữa.
Sau đó thì, bằng một cách nào đó, tôi quấn hai lớp chăn quanh người cô ấy với sự chật vật còn hơn cả vừa nãy và treo quần áo ướt của cô lên để phơi gần đám lửa. Đúng là tôi đang mệt muốn chết, nhưng bây giờ vẫn chưa thể nghỉ ngơi được vì trước tiên phải làm ấm căn phòng lên đã. Quá nhiều không khí lạnh đã tràn vào từ trước, khiến nhiệt độ trong phòng trở nên không phù hợp với cô.
Nếu tôi nhớ không nhầm thì có củi ở kho phía sau. Sau khi mang chúng về, tôi đặt chúng lên đám lửa và dùng diêm châm lửa vào chút bùi nhùi. Chỉ khi lửa đủ lớn, tôi mới đặt củi dày hơn lên trên.
Căn phòng ấm lên đến mức tôi cảm thấy nóng bức. Tôi cởi hết áo đến khi chỉ còn mặc độc một chiếc sơ mi và quay lại kiểm tra cô ấy.
Sắc mặt cô đang dần dần trở nên dễ chịu hơn, và quan trọng hơn là không còn xanh xao như trước.
Có vẻ như mọi thứ đang dần ổn định và cuối cùng tôi cũng có thời gian để suy nghĩ về toàn bộ sự việc. Nơi gần nhất với đây là hòn đảo Divel ở phía Tây Bắc, nhưng thậm chí nơi đó cũng cách hòn đảo này khoảng 700km. Đó không phải là khoảng cách có thể trôi dạt trên đại dương.
Tôi rất vui vì đã đến kịp thời để giúp cô ấy, nhưng tôi không biết phải làm gì sau khi cô tỉnh dậy. Mong rằng sẽ không có nhiều rắc rối cho cả hai chúng tôi.
—
“Ugh…” Tôi tỉnh dậy khi nghe thấy tiếng chăn sột soạt xung quanh.
Chắc hẳn cơn mệt mỏi mãnh liệt hơn dự đoán, nên tôi mới đột ngột ngủ thiếp đi như vậy, hoặc có thể chính hơi thở nhẹ nhàng của cô gái đó đã khiến tôi chìm vào giấc ngủ bằng cách nào đó. Khoảng thời gian đủ lâu để ngọn lửa tắt đi, chỉ còn lại một đống tro tàn.
“Ưmmm…” Tôi nghe thấy, vẫn còn ngái ngủ. Giọng nói của cô ấy nghe trong trẻo và dễ chịu đến nỗi tôi bất giác dụi mắt và quay lại.
Cuối cùng thì cô ấy cũng tỉnh dậy, tay đang ôm chiếc chăn mà tôi đắp lên trên, nhưng ánh mắt từ đôi mắt xanh to tròn kia thể hiện sự không thoải mái của cô.
0 Bình luận