Quán tôi thường mở cửa đến tối muộn. Người ở thế giới này sống theo châm ngôn ‘ngủ sớm dậy sớm’, thế nên sau khoảng chín giờ là đã chẳng còn mấy chỗ sáng đèn trừ các quán bar. Một dải ánh sáng lộng lẫy bắt mắt chạy dọc theo con phố chính và khu đèn đỏ, nơi mà ta có thể nhìn thấy những phụ nữ bán nhân ăn mặc hở hang, nhưng tôi thì không có đủ dũng khí để vào đó.
Rất nhiều người đến đây chỉ vì tò mò khi thấy một cửa hàng ‘không phải quán rượu’ mà lại mở cửa muộn đến thế; có thể là mấy gã say xỉn, mạo hiểm gia trở về từ mê cung, và vô số loại người khác. Hôm nay, có một vị khách kỳ lạ đang ngồi trong quán cà phê của tôi.
“Thơm quá nhỉ,” Faluba thốt lên sau khi hít thật sâu làn hơi bốc lên từ trong cốc.
Cái cốc lớn mà tôi phải cầm bằng hai tay trông chỉ như một tách cà phê bình thường trong tay của Faluba. Miệng ông ta không phù hợp để uống nước từ những vật chứa có dạng hình cốc nên lúc đầu tôi có hơi lo, nhưng rồi hóa ra lại là thừa thãi, bởi vì… ông ta uống hết cốc cà phê nóng chỉ bằng một ngụm.
Faluba hẳn là đang nếm vị cà phê trong khi nó chảy xuống cổ họng, bởi ông luôn hướng mặt lên trần nhà và không nhúc nhích gì nữa. Ngay cả khi ngồi xuống, ông ta vẫn to hơn tôi nhiều, người choán hết cả không gian. Có lẽ cái sự khác nhau giữa chủng tộc của ông và con người không thể nào diễn tả hết bằng lời được, đến cả cái cách ngồi của ông ta cũng khác biệt nốt.
Dù sao đi nữa, người này là một Drake. Khuôn mặt và cơ thể ông ta trông như một con rồng, cùng với đôi cánh lớn ở sau lưng.
Vừa chuẩn bị cà phê, tôi vừa suy nghĩ thật kỹ, cân nhắc xem thế này liệu có được tính là một tình huống kỳ quái hay không.
Bởi vì Drake dù sao cũng là một trong Đế vương Tứ tộc, được coi là đặc biệt trong vô vàn các chủng tộc khác; theo những gì mà tôi nghe được.
Họ mạnh mẽ đến kinh ngạc, thế nhưng lại cực kỳ ít ỏi về số lượng; tôi từng nghe nói như thế.
Họ sống trên đỉnh những ngọn núi lửa, thường nằm ở những nơi xa xôi hoang vắng không có người ở; tôi cũng nghe nói vậy.
Trong những câu chuyện cổ tích, người anh hùng sẽ tìm đến Drake để nhận lấy vũ khí huyền thoại và bắt đầu chuyến phiêu lưu vĩ đại; tôi nghe người ta kể thế.
Nói cách khác, tổng hợp lại những gì tôi nghe được, thì họ là một chủng tộc vô cùng quý hiếm.
Tôi nhìn sang thân thể đen tuyền đang tạo ra một cái bóng lớn ở phía bên kia quầy tiếp khách. Faluba đang giơ chiếc cốc về phía tôi và nhìn xuống với một ánh mắt thông thái, dịu dàng.
“Yuu, thêm cốc nữa được không, và lần này pha đặc hơn nhé. Ta muốn nó thật đắng.”
Ông ta liên tục uống cà phê trước mặt tôi, giờ thì ông cũng đã là khách quen rồi. Người mà những vị anh hùng đang điên cuồng tìm kiếm trong các câu chuyện vẫn thường xuyên đến uống ở một quán cà phê trong thị trấn. Như vậy hẳn là sẽ đỡ mệt cho anh hùng lắm, nhưng mà thế thì câu chuyện sẽ ra sao đây?
Vị anh hùng tìm thấy người Drake đang ngồi chơi trong một quán cà phê và nhận được trang bị huyền thoại.
Quả là một câu chuyện viễn tưởng thảm hại, nhưng rồi tôi nhận ra một sự thật phũ phàng nữa, rằng chuyện đó lại rất có thể là thực tế.
Chắn hẳn trở thành người lớn nó sẽ như thế này đây. Đó có thể là những thay đổi quá nhỏ để được gọi là tiến bộ hay thụt lùi, nhưng tôi chắc chắn không thể nào quay trở lại thế giới khi tôi vẫn còn nhỏ; tôi đã đánh mất đi thứ gì đó để đổi lấy cái sự ‘lớn lên’ này.
“Dạo này cậu thế nào?” Ông ta hỏi.
“Vẫn đến đâu hay đến đó thôi ạ,” tôi trả lời trong khi rót thêm vào cốc, nghe thấy một tiếng như sấm phát ra từ cổ họng, trong khi cái rãnh vốn là miệng của ông ta vặn vẹo, để lộ ra những cái răng nanh sắc bén có thể dễ dàng xuyên thủng tay tôi. Nhưng đây chẳng phải đe dọa hay gì cả, chỉ là ông ấy đang cười mà thôi.
“Vậy à, vẫn đến đâu hay đến đó. Tốt.”
Faluba di chuyển cánh tay, thứ tỏa ra ánh phản chiếu mờ đục như một tấm sắt, và dùng cái móng nhọn của ông để cẩn thận nâng cốc cà phê lên uống - dĩ nhiên, chỉ bằng một ngụm.
Tôi rót thêm một cốc nữa. Ông lại nhấc lên luôn, lần này thì cho lên ngang mặt để tận hưởng mùi thơm. Sự tự tin này chính là thứ mà những người trưởng thành tuyệt vời thường có; họ không mặc kệ thời gian trôi mà cũng chẳng hề vội vã. Thời gian xung quanh những người như vậy dường như rất yên lành, chỉ với việc Faluba ngồi đây thôi đã khiến thời gian trong quán cà phê trở nên chậm rãi và bình thản.
“Ta không thể đến vào buổi chiều được nên cũng không biết, dạo gần đây quán thế nào rồi?” ông hỏi và đột ngột nhìn xung quanh.
“Cũng đến đâu hay đến đó thôi ạ.”
“Ta hiểu. Vậy là vẫn còn những kẻ không biết đến cái hương vị này, thật đáng tiếc.”
Ông lắc lắc cái đầu dài. Faluba là một người thích uống cà phê cực đặc.
Ai cũng có một hay hai thứ để gọi là khoái khẩu, và đối với Faluba, đó chính là cà phê. Một ngày nọ ông đã bước vào quán, uống thử, rồi đặt lên quầy tiếp khách một viên ngọc to bằng nắm tay tôi và hỏi nguyên liệu với công thức làm ra món này. Thực ra, giờ nghĩ lại tôi mới thấy ông ấy cũng giống con người đấy chứ.
“Ahh… tuyệt hảo. Ta không còn cái cảm giác giống như mấy hôm vừa rồi không được uống nữa,” Faluba sảng khoái thốt lên, nốc cạn cái cốc nghi ngút hơi như thể bên trong chứa toàn nước lạnh, đôi cánh sau lưng ông vẫy vẫy.
Mình nghĩ có thể ông ấy bị nghiện rồi. Thế này không ổn, lỡ mà ông ấy phải đi cai nghiện thì sao? Thay vì cấm chất có cồn, người ta sẽ ra lệnh cấm cà phê. Nếu mà vậy thì mình sẽ phải bí mật bán chui cà phê mất.
“Ồ,” ông nói tiếp trong khi tôi bắt đầu thấy hơi bồn chồn, “ta quên mất, hôm nay ta đến để trả công cậu.”
Nói đoạn, ông duỗi một ngón tay ra không khí và lười nhác vẽ một vòng tròn. Khi ngón tay đã quay lại điểm bắt đầu tạo nên vòng tròn hoàn thiện, một cái hố đen hiện ra giữa không trung. Ông bèn thò cả tay vào không chút ngần ngại và lục lọi bên trong.
Tôi đã thấy cái này vài lần rồi nhưng vẫn chưa quen được. Ý tôi là, đó chính là phép thuật đấy. Với một người như tôi, lớn lên ở một thế giới mà khoa học thống trị, thì cảnh tượng này quả là kỳ diệu.
Khi Faluba rút tay ra khỏi cái lỗ trong không khí, ông cầm theo một cái túi lớn màu xám, trông phùng phình như túi của một bà nội trợ vừa đi mua sắm về.
“Ta có kiếm được một ít thịt gosfang hôm qua, cũng vừa đúng lúc nên mang theo đến đây luôn. Thứ này ở đây hiếm lắm, đúng không?”
“Cháu cũng không biết là có ‘hiếm’ hay không nữa, cháu chưa bao giờ nhìn thấy hay nghe nói đến nó.”
“Đó chính xác là định nghĩa của từ hiếm đấy, cậu bé ạ,” ông nói và đặt chiếc túi lên quầy tiếp khách kêu cái bịch. Tôi gật đầu đồng ý.
Tôi mở túi ra, nhìn thấy vô số thứ khác nhau bên trong khiến tôi tự hỏi liệu đây có phải là thành quả sau một chuyến đi mua sắm. Kia chắc hẳn là thịt gosfang rồi, tôi nghĩ vậy khi thấy một miếng thịt có màu lạ, trông như thịt bò nhưng lại có màu xanh lam. Bên cạnh đó là những hạt cây hình tứ giác mà nhìn giống bánh quy hơn là hạt, mấy cây thuốc màu đỏ thẫm, vài loại gia vị mà ở đây không kiếm được, cùng rất nhiều những thứ khác.
“Đã làm phiền ông rồi, mấy món này thực sự rất giá trị.”
Không một thứ nào trong túi có thể dễ dàng tìm được ở thị trấn này.
“Cũng không hẳn, chúng chẳng đáng giá là bao đối với ta, chỉ cần tìm quanh làng thôi ta cũng kiếm được cả đống rồi. Cà phê mới là thứ có giá trị cao hơn, nó quả là tuyệt vời,” ông khẳng định, mắt nhìn mong ngóng vào cốc cà phê tiếp theo đang được pha. Do mỗi cốc ông uống rất nhiều, thế nên phải tốn kha khá thời gian để pha được thêm một cốc khác. Sự bồn chồn trong khi chờ đợi khiến ông phần nào đó như một đứa trẻ vậy, tôi bật cười, nhưng chỉ cười khẽ thôi.
Quyết định cho thịt vào tủ lạnh càng nhanh càng tốt, tôi nhìn xuống cái túi và chuẩn bị nhấc nó lên. Đang làm, tôi để ý thấy có cái gì đó lấp lánh bên trong túi. Thắc mắc, tôi bèn cho tay vào nhấc miếng thịt đang được bọc trong một thứ tựa như lá tre ra.
Vật đang phản chiếu lại ánh sáng đó là một viên quặng lớn, to hơn nắm tay tôi. Thông qua những vết nứt trên bề mặt vật chất xám xịt như xi măng, ánh sáng màu đỏ rực tỏa ra, lấp lánh như mặt trời. Tôi nhặt nó lên, tròn mắt kinh ngạc.
“Faluba, đây là cái gì thế?” tôi buột miệng hỏi.
Faluba bèn di chuyển, mặc dù chỉ có mỗi con mắt, từ cái bình syphon để nhìn sang tôi.
“À, cái đó hả? Ta tìm thấy nó đợt trước, chẳng rõ là cái gì nữa, nhưng Feenu bảo ta cứ mang đi. Nó chỉ là một cục đá với bọn ta, nhưng chắc sẽ có chút giá trị đối với con người, phải chứ? Cứ sử dụng nó tùy ý cậu. Mà nhân tiện, cà phê xong chưa thế? Mau rót ta cốc nữa nào.”
Ông ấy nói với vẻ quá bình thản khiến tôi cũng nghĩ theo như vậy. À, ra thế, vậy thì đành nhận thôi.
“Khoan, cái này chắc là đắt lắm, cháu sẽ trả lại ông.”
Tôi không am hiểu lắm về giá trị của đá quý ở đây, nhưng cũng không nghĩ nó sẽ tầm cỡ tiền tiêu vặt của trẻ con. Dù cho có không phải một tảng đá to đùng như vậy đi nữa, tôi có cảm giác rằng thứ này vẫn sẽ rất quý giá.
Song, Faluba lại nhìn xuống tôi vẻ thắc mắc.
“Nó không có chút giá trị nào đối với cậu ư?”
“Không, không, đó không phải vấn đề.”
“Thế thì vấn đề ở đâu chứ.”
“Bởi vì nó quá là đáng giá, so với tiền công phải trả ở một quán cà phê nhỏ xíu như này.”
“Tức là nó không có giá trị gì đối với cậu?”
“Không phải ạ, ông nên dùng nó cho chuyện gì đó xứng đáng hơn.”
“Thế thì vấn đề là gì?”
“Argh, không thể làm cho ổng hiểu được,” tôi chịu thua và chống cả hai tay lên quầy tiếp khách, người nghiêng về trước. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sự khác biệt trong cảm quan về giá trị lại phiền phức đến thế. Tôi cố gắng bổ não mình ra để tìm cách giải thích chuyện này cho Faluba, người có vẻ như cũng đang có cùng suy nghĩ, ông bèn mở lời trước.
“Ta không thực sự hiểu lắm, ta cũng không muốn đụng chạm đến tiền nong. Cà phê rất là tuyệt, cậu có thể gọi đó là lẽ sống của đời ta cũng được. Mấy cốc cà phê là lý do mà ta có thể tiếp tục khi bị vợ bắt phải đi làm.”
Phái nữ tộc drake chắc khỏe lắm nhỉ… à mà không, lạc đề rồi. Tôi nghĩ thầm trước khi Faluba lại nói tiếp.
“Ta nên bồi hoàn bằng vật có giá trị để lấy những vật có giá trị khác, đúng không? Cục đá đó chẳng có giá trị gì đối với chúng ta, tuy nhiên, Feenu bảo rằng nó có giá trị đối với con người, thế nên ta đã mang nó theo. Nếu cậu không chấp nhận, vậy có phải nó không có giá trị gì?”
Tôi không biết nên trả lời thế nào với ánh mắt của Faluba cứ chòng chọc nhìn mình. Ông ta nói không sai. Tôi “hừm” một cái và sắp xếp lại suy nghĩ.
“Nó thực sự có giá trị,” tôi bắt đầu nói, “mà đúng hơn là giá trị của nó quá cao. Ông hoàn toàn đúng khi nói rằng ta phải bồi hoàn bằng vật có giá để đổi lấy vật có giá khác, nhưng cháu không có cách nào để bồi hoàn lại ông cho thứ này. Viên đá này quý giá quá mức, cháu không biết nên nói là mình không thể nhận nó, hay là giá trị của mình quá khiêm tốn so với nó nữa.”
“Hmm, ta hiểu.”
Ông gật đầu, trước khi chìm vào im lặng.
Tôi nhìn viên đá trên quầy, lòng có chút hối tiếc. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng cứ vô tư nhận lấy những thứ như này chắc chắn sẽ phiền phức về sau. Ta không thể nhận thứ có giá trị cao hơn những gì ta xứng đáng được nhận. Mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn biết bao nếu như không tồn tại những cách biệt về sự giàu có, chức tước, và địa vị.
“Vậy sao không coi nó là một khoản đầu tư vào tương lai?”
“Đầu tư vào tương lai ư?” tôi lặp lại.
“Câu đó là tổ tiên truyền lại đấy, cha ta hay dùng lắm,” ông gật đầu và nói, trước khi nhìn lên trời như thể đang nhớ lại một quá khứ xa xăm. “Rất lâu trước đây, khi ta vẫn còn nhỏ, có năm người đến viếng thăm ngôi làng ta ở. Hồi đó, thánh thần chia rẽ ngôn ngữ của chúng ta, các chủng tộc thì chiến đấu lẫn nhau. Mấy người đó nói rằng họ đang du hành để chấm dứt chiến tranh, và để làm được như thế, họ cần mượn vật báu linh thiêng vốn được truyền từ đời này qua đời khác trong làng ta. Cha ta, khi ấy là trưởng làng, lập tức từ chối, nhưng rồi một trong số những con người đó đã nói chuyện với ông ấy bằng thứ ngôn ngữ mà ta không hiểu được.”
Tôi có hơi không bắt kịp trước màn hồi tưởng đột ngột ấy, nhưng dù vậy, tôi vẫn cầm cái thìa gỗ lên và trộn bột cà phê. Có đang nghe kể chuyện đi nữa thì đây vẫn là công việc của tôi.
“Cha ta nói rằng đó là chất giọng đích thực của thánh thần, thứ “Ngôn ngữ của Thần linh”, và rằng những người hiểu được ngôn ngữ đó thì không còn nghi ngờ gì nữa, họ đang làm việc cho thần, nhưng mà thôi gác lại vụ đó đã. Sau cuộc nói chuyện, cha ta thấy được tiềm năng của họ và đã ban tặng cho mấy người đó báu vật linh thiêng quý giá của tộc ta. Ông ấy nói rằng đó là một khoản đầu tư cho tương lai. Giờ đây, ngôn ngữ của chúng ta lại một lần nữa hội tụ, các chủng tộc nhìn chung không đấu đá nữa. Khoản đầu tư khi đó đã được hoàn lại rồi.”
Phản hồi duy nhất tôi có thể đưa ra trước câu chuyện lớn lao ấy là một hơi thở dài mệt mỏi. Nghe như lấy ra từ một truyền thuyết vậy, nhưng chuyện đó đúng là sự thật. Cơ mà thế thì Faluba đã sống bao lâu rồi? Câu chuyện đó là từ đời nào vậy nhỉ?
Thấy phản ứng đó của tôi, Faluba hẳn đã cho rằng ông vẫn chưa truyền tải được thứ ông muốn nói, bèn tiếp tục sau một tiếng kêu như sấm, vốn là tiếng ông đằng hắng trong cổ họng.
“Nói cách khác, ta có mong đợi rất lớn vào tương lai của quán cà phê này, và ta không ngần ngại đầu tư vào tương lai đó vì tiềm năng của những cốc cà phê ngon tuyệt, thế nên cậu cũng đừng lưỡng lự thêm nữa và nhận lấy nó đi.”
Tôi cố gắng mở miệng phản đối, nhưng từ bỏ mọi lời phản bác khi nhìn thấy ánh mắt của Faluba, một ánh mắt nói rằng dù tôi có cố cũng vô ích mà thôi. Drake dường như là một chủng tộc vô cùng kiêu hãnh, thế nên có lẽ họ không thể nhận lại thứ mình đã trao tặng. Mấy người này cổ hủ đến mức nào vậy chứ?
Tôi thở dài một hơi và đồng ý nhận viên đá. Vẫn biết nó có giá nhiều hơn những gì tôi đáng nhận, nhưng tôi cũng biết rằng cố gắng từ chối sẽ chẳng đi đến đâu cả.
Faluba nhìn tôi phân vân, phát ra một âm thanh thỏa mãn và gật đầu.
“Mà này, Yuu, cậu pha cho ta cốc tiếp theo nhanh lên được không? Ta không nghĩ ta chờ được lâu hơn nữa đâu,” ông hỏi, đôi cánh vẫy vẫy.
Tôi rót cà phê mới pha ra cốc, Faluba uống hết, lại gọi thêm, rồi cứ ngồi đó bồn chồn trong khi mẻ tiếp theo đang được pha trong bình syphon. Cứ thế, tôi đun hết cốc này đến cốc khác, y như mọi khi vậy.
Mặc dù hơi đau lòng khi nhìn thấy cà phê mình mất thời gian pha tan biến ngay lập tức, nhưng tôi vẫn tiếp tục không nản chí cho đến khi cái vòng lặp đó kết thúc, tức là vô số cốc sau đó nữa. Đột nhiên, Faluba nhìn ra cửa, trước khi tôi kịp ngước theo thì bóng tối đã nuốt chửng lấy thân thể ông ta. Đó là một cảnh tượng kỳ quái, giống như vô vàn những cái đai đen mọc từ dưới đất lên và quấn chặt lấy ông vậy. Giây phút tiếp theo, một người đàn ông vạm vỡ đang ngồi ở chỗ của ông. Mặc dù có một cơ thể đáng kinh ngạc, nhưng hình dạng này chắc chắn là của một con người, với mái tóc ngắn màu đen và khuôn mặt vuông vắn. Đây cũng chính là hình dạng ở lần đầu tôi gặp Faluba.
Trong khi tôi vẫn đang há hốc miệng trước màn biến thân thần tốc, tiếng chuông reo lên báo hiệu khách đến.
“Quán còn mở không nhỉ?” Albell hỏi. Mỹ nhân dong dỏng cao bước vào, mái tóc bạc đung đưa phía sau. Trang phục màu lạnh của cô tạo ra một ấn tượng chung giản dị, bởi thế mà trông cô dịu dàng hơn bình thường.
“Vâng, quán vẫn mở ạ, chị vào đi,” tôi gật đầu nói.
Albell yên chí đi sâu vào bên trong. Cô đang mặc quần áo thường ngày nhưng vẫn dắt thanh kiếm bên hông. Mình đoán là mạo hiểm gia không thể rời vũ khí của họ được.
Bước lại gần quầy tiếp khách, cô chạm mắt với Faluba, bầu không khí như đóng băng lại.
“Lại làm phiền cậu rồi,” Albell nói và ngồi xuống chiếc ghế cách ông một quãng, biểu cảm và giọng điệu của cô hơi thô hơn ban nãy một chút, giống như thể cô đang cảnh giác với Faluba vậy. Faluba thì liếc nhìn cô một cái trước khi tiếp tục uống cà phê và chẳng buồn để tâm nữa.
“Chị uống cà phê nhé?” tôi hỏi bằng giọng vui tươi hơn thường lệ, khiến cô thư giãn trở lại và nhìn sang tôi.
“Ừ, cho tôi một tách.”
Cặp lông mày cảu Faluba nhướn lên, dường như phản ứng với từ “cà phê”.
“Cô cũng uống cà phê ư?” ông hỏi. Ông đang quan sát cô gái qua khóe mắt mà không đối diện trực tiếp.
“Cà phê như là máu của tôi vậy,” Albell vui vẻ đáp lời.
Faluba khịt mũi, nghe như một tiếng bất đồng hơn là khúc khích cười vui để đáp lại một câu bông đùa.
“... Có gì đáng cười sao?”
“Không hề, ta chỉ nghĩ rằng nghe câu đó hơi tự mãn, nói cà phê là máu của cô thì quả là phóng đại.”
Tôi gần như đã thấy gân xanh nổi trên thái dương Albell.
“Không phải khoe khoang, chứ tôi ngờ rằng không con người nào trên đời uống nhiều cà phê bằng tôi đâu. Có phải vậy không, chủ quán?”
Tôi không thể làm gì hơn ngoài gật đầu một cái vụng về trước ánh mắt của cô ấy. Chuyện gì đang xảy ra thế này? Sao giữa hai người họ lại căng thẳng vậy? Đây chắc phải là lần đầu họ gặp nhau chứ.
“Chính bởi loài người luôn phán xét mọi thứ dựa trên cái logic tầm thường như vậy khiến cho kiến thức của họ hạn chế vô cùng. Cô khiến ta phải phì cười đấy. Thế này đi, chủ quán, cậu thấy có ai uống cà phê nhiều hơn ta không?”
Tôi lắc đầu trước ánh mắt điềm tĩnh của Faluba. Ông uống cà phê toàn bằng cốc siêu bự, tính ra thì cái lượng cà phê ông uống vào nhiều đến phát sợ lên được.
Tôi ngậm chặt miệng, không hé răng một từ nào trong đó cả. Dường như đã bằng cách nào đấy mà hiểu được ý, Albell nắm chặt tay trên quầy, trán cô nhăn lại.
“Tôi vào quán ít nhất là hai lần một tuần, và bất cứ khi nào có thời gian rảnh nữa, nhưng đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy ông. Vậy bao lâu ông mới đến đây một lần?”
Giờ thì Faluba nhăn mũi lại.
“... Để xem, ta nghĩ là cứ mười ngày một lần.”
“Ồ, ra vậy. Thế chắc là khổ sở lắm nhỉ, nếu tôi mà không được uống cà phê suốt mười ngày, tôi sẽ không chịu nổi mất,” Albell chậm rãi nói, nghiêng đầu ra sau như thể đang tự hào khoe khoang một món đồ chơi mới.
Cái kiểu thi thố gì thế này?
Không đủ tự tin để xen vào, tôi chỉ im lặng chuẩn bị cà phê, rót nó từ trong bình cầu vào tách rồi đặt xuống phía trước cô. Sau đó, Albell cầm tách và đưa lên môi trong một chuyển động mà tôi chỉ có thể miêu tả bằng từ ‘tao nhã’.
“Ngon tuyệt, chính cái vị này đây.”
“Hmph, vậy ra cô uống luôn mà không thưởng thức hương thơm sao. Thật là kém sang.”
“Tôi tận hưởng cả hương và vị khi nó trôi từ miệng qua mũi. Tôi đâu có phải loài quỷ, và cũng không muốn trở thành loại người có thể thỏa mãn chỉ với chút mùi hương mờ nhạt trong không khí.”
“Ồ… cô cũng rành đấy nhỉ.”
“Ông cũng vậy.”
Hai người họ cùng ngồi, cà phê giữ trên một tay, mắt lườm nhau. Cả hai đều cười, nhưng ánh mắt họ thì sắc như dao.
Trên đời có những người chẳng thể hợp nhau nổi, giống như người ta vẫn hay nói là ‘như chó với mèo’ ấy, họ sẽ nổi cơn tam bành với nhau chẳng vì lý do gì hết, nhưng tôi không nghĩ là mình lại được chứng kiến điều đó tận mắt như vậy.
Ở góc bên này, ta có một người cao hơn hai mét với khuôn mặt nghiêm nghị. Ông tên Faluba, vốn thực ra là một người drake. Góc bên kia, ta có một cô gái mảnh mai như siêu mẫu, người đẹp lạnh lùng Albell.
Và hai người ấy lúc này đang tranh cãi nhau như trẻ con vậy. Tôi muốn thở dài hơn là chỉ mỉm cười cam chịu thế này.
“Yuu, cho ta cốc nữa được không?” Faluba hỏi sau khi nốc cạn.
“Tôi cũng thế,” Albell bồi thêm, bắt chước theo mặc dù tách cà phê của cô chỉ vừa mới được pha xong.
Thế rồi họ lại chạm mắt nhau, giữa hai người như đang tóe ra những tia lửa vô hình. Tôi không biết mình nên nói gì đó hay cứ tiếp tục giữ im lặng, nhưng rồi quyết định rằng can thiệp vào cuộc trò chuyện của khách là không hay, thế nên tôi không nói gì hết.
Tôi đổ đầy cái bình cầu chạm ngưỡng tối đa và chuẩn bị pha lượng cà phê nhiều nhất có thể, tôi có linh cảm hai người này sẽ còn uống thêm nhiều cốc nữa.
“Quán cà phê này thực sự rất thoải mái, lúc nào nó cũng thật yên bình… ừ thì, hôm nay có hơi khác một chút,” Albell thành thật nói, khiến cho bầu không khí trở nên râm ran.
“Không thể đồng ý hơn,” Faluba đáp lời, tay khoanh lại.
“Đến đây vào buổi tối và nói chuyện với chủ quán trong khi uống món cà phê hảo hạng quả thực vô cùng tuyệt vời, đến nỗi ta không thể diễn tả hết bằng lời… ừm, hôm nay thì hơi khác.”
Hự, bụng mình hơi đau đau… không lẽ hôm qua mình ăn phải cái gì sao?
Tôi cố hướng sự chú ý của mình vào cà phê đang sôi sục, nhưng vẫn không thể tránh khỏi nhìn lên khung cảnh phía trước. Hai người đó đang nhìn nhau, miệng cười ngoác đến tận mang tai. Mà nhân tiện, khi tôi nói “cười đến mang tai”, ý tôi là như kiểu một con thú săn mồi cười trước thức ăn của nó ấy.
Tôi rót cà phê ra cốc trong khi cố gắng để ý đến hai người kia ít nhất có thể rồi mang ra cho họ. Faluba bắt đầu bằng việc ngửi, còn Albell thì làm luôn một ngụm.
“Hương thơm chạm đến tận đáy bụng ta, tuyệt vời.”
“Hương vị để lại khi nó trôi qua mũi đúng là tuyệt nhất.”
Sau đó họ quay ra nhìn nhau và cười. Hai nụ cười rất tươi, nhưng đôi mắt của họ thì tuyệt đối lạnh lùng. Thế này thì lạ thật, cả hai người họ đều yêu thích cà phê, mình cứ nghĩ họ sẽ hợp nhau lắm chứ.
“Ừm, sao hai người lại ganh đua với nhau?” tôi hỏi, cuối cùng đã hết nhịn nổi.
“Đây không phải là ganh đua. Nếu phải mô tả bằng lời, ta sẽ nói rằng đây chỉ là chơi đùa với trẻ con.”
“Chẳng phải là ganh đua chi hết. Nói đúng ra, đây như kiểu tôi chiều lòng một đứa nhóc bướng bỉnh thôi.”
Đó lần lượt là lời của Faluba và Albell, gần như nói ra cùng một lúc. Tôi đã phải xoa xoa ngón tay lên thái dương mình, bởi hai người này đang khiến tôi đau hết cả đầu.
Mặc dù đang so kè nhau, họ vẫn nốc cà phê hết cốc nọ đến cốc kia và lại gọi thêm nữa, tập trung toàn bộ vào đối thủ.
Cà phê cứ thế chảy như nước, và hai người đó thì vẫn một mực: “Không con người nào yêu cà phê như tôi cả,” hoặc là “Không ai thưởng thức cà phê nhiều như ta hết.”
Tôi thực sự muốn họ dừng cái vụ này lại, bởi tôi cứ phải đổ đầy cốc cho họ liên tục và pha cà phê không ngừng nghỉ. Nào là xay hạt, đun nước, lau sạch cái bình cầu, và nhiều việc khác nữa.
Tình hình này thì pha kiểu nhỏ giọt sẽ nhanh hơn nhiều, pha bằng bình syphon tốn quá nhiều công sức. Mà hơn hết, tôi lại chỉ có một bình, thế nên lại còn mất thời gian hơn. Chỉ một tách thôi cũng đã rất hao tâm tổn trí để căn thời gian đun, nhiệt độ nước, vân vân. Để rồi sau đó, cà phê chỉ đơn giản biến mất tiêu, chẳng biết có nếm được gì không.
Không nhớ là sau đó bao nhiêu cốc nữa, tôi cuối cùng đã hết chịu nổi và cảm thấy có lý do để mà giận dữ. Liệu hai người kia có thân thiện hơn với nhau nếu tôi nổi giận không? Dĩ nhiên là không. Trong khi tôi đang nghĩ cách để giải quyết vụ này, chuông cửa reo lên và Linaria bước vào quán.
Cô tròn mắt ngạc nhiên trước gã đàn ông vạm vỡ và người đẹp ngồi bên quầy tiếp khách, rồi di chuyển đến một chiếc bàn trong khi vẫy tay chào tôi.
Cô ấy đến thật đúng lúc. Linaria đến làm tôi nghĩ ra một cách rất hay, bèn ra dấu gọi cô ấy lại gần.
Nhưng cô nàng lắc đầu, chết tiệt, người đâu khôn thế…
Vẫn không từ bỏ, tôi rốt cuộc đã phải chắp hai tay lại cầu xin, Linaria mới chịu lại gần.
Nhẹ cả người, tôi bèn quay sang hai người kia, nói một cách không phóng đại tí nào thì lúc này đang lườm nhau chằm chằm.
“Albell, Faluba, hai người thôi gây gổ đi được không?” tôi hỏi.
“Bọn ta không…”
“... có gây gổ,” họ nói.
Sao tự nhiên bây giờ thì lại hợp nhau vậy, tôi thầm nghĩ, không nói ra thành lời.
“Nếu hai người thực sự phải quyết định xem ai tốt hơn, sao không làm một cuộc thi nếm cà phê nhỉ?” tôi khoanh tay lại và thách đố.
“Thi nếm cà phê ư?”
“Em sẽ pha hai loại cà phê khác nhau, hai người hãy nếm thử và nói xem bên nào dùng loại hạt tốt hơn.”
“Ta hiểu,” Faluba gật đầu, “đó là một bài kiểm tra xem liệu bọn ta có phát hiện được hương vị hay không.”
“Dễ hiểu mà, đúng không?”
“Đúng vậy, tôi đồng ý cách này. Cơ mà, tôi nghĩ cái đồ to con kia sẽ chẳng nhận ra được sự khác biệt đâu.”
“Chỉ có kẻ thiếu tự tin mới lắm mồm.”
Thôi nào, hai cái con người này, chưa gì đã lại cãi nhau rồi.
Trong khi đó, Linaria đang nhàn rỗi đứng ở quầy tiếp khách, mắt lườm tôi.
“Ước gì cậu đừng có lôi tớ vào,” cô nói.
“Xin lỗi, xin lỗi, cậu giúp tớ một xíu thôi nhé?”
“Bằng cách nào chứ. Tớ đâu thể làm gì được với cái kiểu người như vậy,” cô nói với biểu cảm không hài lòng, liếc nhìn sang hai người kia.
“Đừng như vậy, họ không xấu tính đâu, họ là người tốt, chỉ có điều hơi… cậu biết đấy.”
Linaria chùng vai buông một hơi thở dài, mái tóc đỏ rực như hoàng hôn được buộc ra sau đầu chảy xuống vai cô.
“Tớ sẽ giúp một chút, nhưng không phải làm cái gì kỳ lạ đâu nhé.”
“Cảm ơn nhé, cậu đúng là cứu tinh.”
Ai cũng nên có một người bạn tốt. Tôi vẫn để cô ấy ngồi đó cho đến khi tôi cần và bắt đầu phần chuẩn bị của mình.
Còn bây giờ, mình cần phải tập trung cho cái này.
Ừ thì, nghĩ là vậy, chứ thực ra tôi chỉ làm cái mà tôi vẫn làm trước giờ, công việc của tôi, đó là pha ra những cốc cà phê ngon tuyệt. Tôi chẳng làm gì đặc biệt hết và rót mẻ đầu tiên ra cốc, thảy gồm có ba cái, rồi đặt nó xuống trước ba người.
Cả Albell và Faluba đều uống cẩn thận hơn khi nãy, thử mùi thơm và quan sát thật kỹ, nếm một cách thực thụ.
Hiển nhiên, mặt Linaria trông rất lưỡng lự, tôi không nhịn nổi cười trước cái vẻ ngán ngẩm trông thấy của cô ấy.
“Tại sao tớ cũng có một cốc?” cô hỏi.
“Đây là thỉnh cầu của tớ. Tớ muốn cậu cũng nếm thử như họ.”
Cô ấy lắc đầu.
“Cậu biết mà, tớ có phân biệt được cà phê ngon hay dở đâu.”
“Cậu chỉ cần nói cái gì mình nghĩ là được. Với lại, cốc này cũng chỉ đủ cho một ngụm thôi mà.”
Tôi không rời mắt cho đến khi Linaria rốt cuộc thở dài và gật đầu.
Tạ ơn trời, giờ thì có thể sang loại thứ hai được rồi.
Trong khi ba người kia đang uống, tôi chuẩn bị làm mẻ thứ hai, lần này thận trọng hơn bình thường, rồi sau đó chuyển qua cho họ. Faluba và Albell lần lượt uống cốc của mình và gật gù.
“Ông thấy thế nào?” tôi hỏi Faluba sau khi quyết định giờ là cơ hội tốt để hỏi.
“Cốc thứ nhất khá dễ uống, nó có vị đắng vừa phải và ta còn cảm thấy vị chua nữa. Cốc thứ hai thì vị đắng rất mạnh, mùi của hạt cà phê dễ nhận ra hơn… Ta chắc chắn rằng cốc thứ hai sử dụng loại hạt tốt hơn.”
Tôi gật đầu tỏ ý đã hiểu trước khi quay sang Albell.
“Chị thì sao?”
“Tôi nghĩ là cốc thứ hai quá đắng, và cái vị đắng đó đã can thiệp vào hương vị trôi qua mũi tôi khi uống. So sánh với nó, cốc thứ nhất có vị đắng dịu hơn và hương thơm rất dễ chịu. Tôi chọn cốc thứ nhất.”
Sau tuyên bố đó, ánh mắt của hai người chạm nhau. Đúng như tôi nghĩ, ý kiến của họ đối lập nhau. Cả hai cùng quay sang nhìn tôi cùng lúc và nói.
“Nhưng mà Yuu, cốc thứ hai là loại ta vẫn thường uống mà.”
“Chủ quán, chẳng phải cốc thứ nhất là loại tôi hay uống sao?”
Thế rồi họ lại nhìn nhau lần nữa, khiến người khác có thể sẽ nghĩ rằng họ rất ăn ý với nhau. Không trả lời những câu hỏi đó, tôi quay sang Linaria.
“Còn Linaria, cậu nghĩ sao?”
Hai người kia đều quan sát cô ấy. Thay vì gặng hỏi sự tham gia đột ngột này, họ đều nhìn cô với vẻ rất tò mò muốn biết ý kiến của cô ấy ra sao. Tôi mừng vì khỏi cần phải giải thích, nhưng cũng tự hỏi vì sao họ không thể hòa đồng với nhau mặc dù cả hai đều dễ thích nghi với hoàn cảnh như vậy.
Linaria lưỡng lự một giây trước những ánh mắt của chúng tôi, nhưng rốt cuộc vẫn nói ra:
“Không phải chúng đều cùng một loại sao?”
Ngay lập tức, Albell và Faluba đều há hốc miệng, biểu cảm của họ thể hiện rằng họ đã nghĩ Linaria chỉ là một tay mơ không thể nào nhận ra nổi sự khác biệt giữa hai hương vị hoàn toàn không giống nhau. Thế rồi, tôi nhìn cô ấy và mỉm cười.
“Chính xác.”
Mặt của hai người kia lúc này quả là một cảnh tượng đáng chiêm ngưỡng, tôi ước gì mình có thể chụp lấy một tấm ảnh. Dùng từ ‘kinh hoàng’ để tả họ lúc này là chuẩn không phải chỉnh luôn, thậm chí trông còn có vẻ hơi bối rối.
“Cái gì cơ, không. Chúng có vị rất khác nhau mà… Thực ra, nếu chúng đều là một loại hạt, vậy thì đây không phải là kiểm tra vị giác, đúng không?”
Tôi cười rạng rỡ với Albell sau câu hỏi của cô.
“Đó là một cái bẫy rất phổ biến. Em cứ nghĩ chị sẽ phát hiện được ra chứ, mà dù sao, chúng ta có một người làm được ở ngay đây này,” tôi nói và chỉ vào Linaria, khiến cho Albell nghiến răng kèn kẹt.
“Ta đã bị lừa rồi, ai mà ngờ lại là cùng một loại hạt,” Faluba trầm ngâm, hai tay khoanh lại, “nhưng mà này, Yuu, tại sao vị của chúng lại khác nhau đến thế? Ta không thể nghĩ ra lý do nào khác ngoài việc chúng là hai loại hạt khác nhau. Ta không thể tin được rằng thứ cà phê ta thường uống và cà phê trong cốc thứ nhất đó đều có chung một nguồn.”
Tôi gật đầu trước câu hỏi của ông, “Hạt thì chắc chắn là một loại.”
“Nhưng hương vị thì khác nhau,” Albell cũng đang nhìn tôi chăm chú.
Tôi chống tay lên hông và vén màn một trong những bí mật kinh doanh nho nhỏ của barista.
“Đó là bởi cháu đã thay đổi nhiệt độ của nước.”
“Nhiệt độ của nước ư?” Linaria hỏi thay cho hai người kia, trong khi họ nhìn tôi đầy thắc mắc. Tôi vui vẻ giải thích cho sự xen vào đúng lúc ấy.
“Cà phê là một thứ cực kỳ tinh tế. Mặc dù sử dụng cùng một loại hạt, thay đổi nhiệt độ của nước có thể làm biến đổi hương và vị của nó.”
“Sao cơ…” Faluba rên rỉ đúng nghĩa đen.
“Vậy ra gã cốt đột đó và tôi vẫn thường uống chung một loại hạt? Và mặc dù vậy, bọn tôi lại thích những vị khác nhau?” Albell hỏi, giọng khàn khàn, một giọt mồ hôi lạnh chảy xuống má cô.
“Chính xác, chị thích vị hơi chua hơn là vị đắng hay quá mạnh, thế nên em đã dùng nước nhiệt độ thấp hơn để pha cho chị. Faluba thì ngược lại, ông ấy khoái vị mạnh và đắng, thế nên em dùng nước nóng hơn.”[note17698]
“Cậu thay đổi tùy theo từng khách hàng ư?” Linaria ngạc nhiên hỏi, tôi bèn ưỡn ngực tự hào.
“Dĩ nhiên.”
Tất cả họ đều là khách quen của tôi, thế nên tôi biết khẩu vị của họ. Faluba và Albell nhìn tôi kinh ngạc đến mất cả tiếng, tôi có cảm giác rằng họ cuối cùng đã nhận ra cái thâm sâu của thế giới cà phê.
“Tôi thấy thật hổ thẹn,” Albell nói, “Tôi quá thiển cận, tôi đã nghĩ rằng trên đời chỉ có một loại cà phê, thứ đồ uống hoàn hảo cho tôi, hoàn toàn hợp với khẩu vị tôi.”
“Ta cũng vậy, ta cũng nghĩ như thế. Nhưng, đúng… cà phê đó đã được điều chỉnh cho ta, giờ ta nghĩ lại mới thấy, hồi đầu ta uống không giống vậy.”
“Cả hai ta vẫn còn thiếu kinh nghiệm.”
“Đồng ý.”
Tôi gật gật đầu trong khi xem họ đối mặt với nhau. Tốt, tốt, đừng lấy cà phê ra tranh cãi nhau làm gì, cứ chấp nhận tất cả và nó sẽ cứu rỗi thế giới này.
Sau đó họ đột nhiên nhớ ra và cùng nhìn sang Linaria.
“Thế thì làm sao mà cô bé có thể nhận ra được?” Albell gặng hỏi.
“Uh, ừm…”
Linaria không thể trả lời trước ánh mắt dữ dội của cô, tôi bèn thở dài và lắc đầu, không giấu diếm sự thất vọng.
“Chị không nghĩ ra điều hiển nhiên như vậy ư?” tôi hỏi cô ấy.
“Sao cơ?” Đến lượt Faluba cau mày hỏi.
“Trong quá trình thử nghiệm hương vị và cách pha chế, em đã cho cô ấy nếm thử kết quả. Hai người có thể gọi cô ấy là… đúng vậy, một chuyên gia cà phê.”
Khuôn mặt họ bị lấp đầy bởi sự ngỡ ngàng, mắt chữ o mồm chữ a.
Linaria nhìn lên tôi, cô cũng rất ngạc nhiên trước lời tôi vừa nói.
Tuy nhiên, hai người còn lại, vốn đã bước vào vực sâu thăm thẳm của cà phê, hồi phục lại nhanh đến bất ngờ, họ chỉnh trang lại tư thế và cúi đầu với Linaria.
“Làm ơn,”
“Hãy nhận tôi làm đệ tử.”
“Không bao giờ.”
Tình bạn đúng là đẹp thật, tôi nghĩ, đầu gật gật mấy cái liền.
Sau khi bí mật đã được bật mí, mọi thứ trở nên hiển nhiên, tôi đã từng dùng cách thử vị này với Linaria trước đây. Cô ấy hoàn toàn không nhận ra sự thay đổi trong vị cà phê của tôi và nói cô không hiểu cà phê cho lắm. Ai mà ngờ được sẽ có ngày lại cần dùng tới.
Không lâu sau, Albell và Faluba đã vai kề vai, nghiêm túc thảo luận về cà phê trước khi họ rời khỏi quán. Rõ ràng, Albell thì phải đi làm ngày mai, còn Faluba phải đi ngay vì nếu không về đúng giờ, vợ ông sẽ rất là đáng sợ.
Sau khi họ đi khỏi, Linaria và tôi là hai người duy nhất còn lại, quán cũng sắp đến giờ đóng cửa.
“Lúc nào tớ đến đây cũng thấy có mấy người kỳ quặc,” cô bình luận trong khi nằm áp mặt lên tay trên quầy.
“Thế tức là cậu cũng kỳ quặc đấy.”
“Vậy thì tớ không đến nữa,” cô cười và đe dọa. Tôi bèn giơ tay đầu hàng.
“Mà thôi, hôm nay cậu có chuyện gì à? Sao ở lại đây muộn thế,” tôi nói. Linaria sống trong ký túc xá của trường, và họ có giờ giới nghiêm.
“Tớ đăng ký ra ngoài hôm nay rồi, không sao đâu.”
Cuộc trò chuyện cứ thế lặng dần mất một lúc, sự im ắng thống trị quán cà phê.
Tôi rửa mấy món đồ sứ đã dùng, phơi khô và để ra chỗ khác. Trong khi tôi làm, Linaria cứ bồn chồn nghịch ngợm với tách cafe au lait của cô, hết chọc chọc lại vuốt ngón tay lên vành cốc.
Cô thở dài một hơi và ngẩng đầu lên.
“Này, tuần sau cậu có rảnh không?”
“Tuần sau á? Quán vẫn mở mà.”
“Ý tớ không phải vậy, ừm…”
Đang nói thì dừng lại, Linaria hiếm khi như vậy, bởi cô thường nói luôn những gì đang nghĩ. Cô đặt tay lên trán trong khi tìm cách diễn đạt trước khi nhìn thẳng vào tôi.
“Tớ đang hỏi là cậu có kế hoạch gì cho Ngày Lễ chưa!?”
Ánh mắt nhiệt tình của Linaria như đâm xuyên tôi vậy, hai má cô đỏ lựng và câu hỏi vừa rồi chắc hẳn đã hao tốn đáng kể dũng khí và quyết tâm của cô, tôi cảm thấy có chút tội lỗi và hỏi lại:
“Xin lỗi cậu, Ngày Lễ là sao?”
Cô há hốc miệng trước câu hỏi của tôi và nhìn tôi như thể không tin được vào mắt mình. Đừng nhìn tớ như kiểu sinh vật kỳ quái gì mới được phát hiện ra như vậy chứ.
“Cậu không biết à? Ngày Lễ, Ngày Lễ ấy.”
“Tớ chẳng biết ngày lễ cậu nói là cái nào cả.”
“Sinh nhật của Thánh Ermine ấy? Ngày mà cả thị trấn đang chuẩn bị còn gì?”
Dù vậy, tôi vẫn nhìn lại cô thắc mắc.
“Họ đang chuẩn bị ư?”
“Chứ còn gì nữa! Người ta đã chăng dây khắp nơi, nhiều xe bán đồ ăn hơn ngày thường và có cả đống người đến từ bên ngoài thị trấn.”
Tất cả những ví dụ ấy, không cái nào thực sự có ý nghĩa gì với tôi.
“Xin lỗi, tớ không ra ngoài nhiều cho lắm.”
“... Ehhh.”
Đừng nhìn tớ như thể cái gì mắc kẹt dưới đế giày cậu như vậy chứ.
“Cậu không ra ngoài á? Không rời quán luôn ư?”
“Không. Ít khi thôi.”
“Thế còn nguyên liệu thì sao?”
“Tớ thường cho chuyển đến.”
“Cậu không đi mua sắm à?”
“Chỉ khi nào tớ cần cái gì thôi.”
“Ôi trời…”
Linaria lúc này nhìn tôi đầy thương hại, như thể cô không hiểu nổi tôi đã sống ra sao vậy. Cô co tay lại thành nắm đấm và thọi một cú lên đầu mình, chắc cô đang cố quay lại chủ đề cũ, tôi đoán vậy.
“Thế còn Thánh Ermine thì sao? Cậu biết không?”
“Có, tớ nghĩ là một người nổi tiếng nào đấy.”
“Ừ thì, về cơ bản là người nổi tiếng nhất thế giới luôn.”
“Ahaha,” tôi cố cười trừ, nhưng không có kết quả.
Dù sao, tôi cũng đâu có được sinh ra và lớn lên ở thế giới này, thế nên có rất nhiều thứ mà tôi không biết, dù cho đó có là những kiến thức hoàn toàn phổ thông ở đây.
“Thôi, sao cũng được. Tuần sau là lễ mừng ngày sinh của thánh, bản chất là một lễ hội. Ngày này được tổ chức toàn quốc đấy.”
“Ra vậy,” tôi nói và gật đầu.
“Và học viện cũng có một lễ hội.”
“Nghe vui nhỉ.”
Có lẽ nó giống với lễ hội trường?
“Tiết mục chính là giải đấu võ thuật và triển lãm phép thuật.”
Tôi đã nhầm, nó gần với ngày hội thao hơn.
“Nhưng mà vào buổi tối, họ sẽ mở vũ hội.”
“Hội lông vũ á?”
“Chắc chắn là không phải cái cậu đang nghĩ đâu,” cô lạnh lùng nói, không thèm đếm xỉa đến trò đùa cố ý của tôi.
“Tớ biết mà, mọi người sẽ khiêu vũ với nhau chứ gì?”
“Ừ, họ khiêu vũ, đứng, ăn, và nói chuyện.”
Nghe như kiểu một bữa tiệc buffet vậy. Ít nhất thì nghe có vẻ vui, nhưng chỉ nhìn biểu cảm của Linaria thì sẽ không nghĩ vậy.
“Cậu không mong vụ đó à?” tôi hỏi.
“Tớ có, nhưng khách khứa toàn là quý tộc và mấy người quan trọng thôi.”
“Quý tộc ư? Tại sao?”
“Trong lễ hội bọn tớ có thể mời bạn bè và gia đình đến, và phần lớn học sinh đều là quý tộc hoặc sống trong nhung lụa.”
Tôi đã tương đối hiểu ý của Linaria, bèn nhẹ nhàng gật đầu.
Tôi khá chắc đó sẽ là một sự kiện hoành tráng, kiểu mà ta chỉ thấy trên phim, và quý tộc chắc sẽ chiếm nhiều sự chú ý hơn là các học sinh.
“Cậu sẽ mặc váy dạ hội chứ?” tôi hỏi chỉ vì tò mò, bởi vì chuyện này chẳng có liên quan gì đến tôi hết.
“... Tớ nghĩ vậy,” cô lưỡng lự.
Váy dạ hội! Nghe thật tuyệt làm sao. Ở Nhật Bản hẳn sẽ có rất nhiều cơ hội để được xem những cô gái dễ thương trong bộ váy.
“Cậu có khiêu vũ không?”
“... Có thể.”
Khiêu vũ! Nghe thật lạ làm sao. Liệu ở Nhật tôi có cơ hội làm thế không nhỉ? Tôi chưa bao giờ thử hết, chắc một điệu khiêu vũ giao tiếp là được nhỉ.
Tôi nghĩ về váy vóc, về khiêu vũ và đồ ăn trong khi ngó lên trần nhà. Thật khó để mà tưởng tượng ra một nơi tôi chưa từng đến, và những việc tôi chưa từng làm.
“Tớ bảo này, nếu cậu thích, sao cậu không đến chơi nhỉ?” tôi nghe thấy vậy.
Tôi bèn nhìn xuống và thấy Linaria đang săm soi cái cốc.
“Đến vũ hội ư?”
“... Ừ.”
“Nhưng mà tớ là người ngoài?”
“Tớ nói rồi mà, vào Ngày Lễ, bọn tớ có thể mời gia đình và bạn bè, vũ hội cũng vậy, nên là tớ, ừ thì, nghĩ là cậu có thể muốn đi cùng tớ.”
Tôi gật đầu tỏ ý đã hiểu.
“Đúng là nghe vui thật đấy.”
Đó là một vũ hội, ở học viện dạy ma thuật và chiến đấu, nơi tụ họp của những quý tộc, nơi khiêu vũ, chuyện trò, ăn uống.
Tôi không thể tưởng tượng ra nó. Tôi biết mình không thể nào quen được với một chỗ như vậy.
“Tớ đành từ chối lần này thôi,” tôi nói, “nhưng mà vẫn cảm ơn cậu đã có lời mời.”
Tôi cười, hy vọng rằng chuyện sẽ qua.
Linaria mở miệng vài lần, nhưng không nói gì và cụp mắt xuống.
“... Tớ hiểu, ừm, được thôi.”
“Thật sự nghe rất vui, nhưng mà tớ không biết khiêu vũ, cũng chẳng có đồ để mặc,” tôi nỏi, cố gắng cải thiện bầu không khí bằng việc rặn ra cười, nhưng tất cả đều chỉ là viện cớ.
“Không, không sao đâu mà, xin lỗi đã đột ngột hỏi cậu chuyện này.”
Cô ấy đứng đó cười với tôi, một nụ cười kém tươi hơn mọi lần.
“Cậu ngủ ngon nhé,” cuối cùng cô nói vậy và rời đi.
Bảo cô ấy dừng lại thì dễ thôi, nhưng tôi đã không thể làm vậy.
Tiếng chuông vang lên, cô ấy đã đi mất. Tôi đứng bất động mất một lúc, chỉ đứng đó nhìn tách cà phê của Linaria.
Thế rồi tôi bắt đầu đóng cửa quán, đổi tấm biển hiệu trên cửa thành ‘Đóng cửa’ và khóa cửa sổ lại. Tôi quét rác trên sàn và lau băng ghế cùng quầy tiếp khách với một tấm vải ướt.
Sau đó, tôi quét sạch sàn bếp rồi chuẩn bị nguyên liệu cho ngày hôm sau.
Giờ thì, ừmm...
Đột nhiên tôi cảm thấy mọi thứ vượt quá sức chịu đựng và dừng việc lau dọn, cởi bỏ tạp dề và thả mình lên ghế. Tôi ngồi xuống, cảm thấy thân thể mình trĩu nặng.
Tôi cảm thấy thật tệ khi đã từ chối cô ấy. Tại sao mình lại làm vậy? Chẳng phải vũ hội sẽ rất vui sao?
Quý tộc, đồ dạ hội, Ngày Lễ. Những từ ấy cứ xoay vần trong đầu tôi.
Quý tộc, đồ dạ hội, Ngày Lễ, cái thế giới này là sao vậy, nó có thật không?
Tôi chẳng thể hiểu nổi dù chỉ một chút. Đây là đâu? Vì sao tôi lại ở đây? Vì sao tôi không thể quay lại? Tôi nhớ gia đình mình, nhớ ông tôi, bố tôi, mẹ tôi. Tôi còn không thể nhớ nổi rõ ràng khuôn mặt họ, và điều đó khiến tôi buồn.
Tôi nhìn quanh quán cà phê.
Nó là của tôi, quán cà phê của tôi. Nó gợi nhớ tôi về gia đình mình, thứ duy nhất để làm như vậy.
Ở đây mọi thứ đều ổn, tôi có thể là chính mình. Nhưng, bên ngoài thì sao?
Cái thế giới không thể hiểu nổi này quá rộng lớn, và điều đó làm tôi sợ.
Thế giới của tôi chỉ là quán cà phê nhỏ này thôi, đó là tất cả những gì tôi có thể chịu được.
Bất cứ gì nhiều hơn thế là bất khả thi.
19 Bình luận
Thanks~
Ẹc , dài vl mà t thích :v