Arslan Chiến ký
Tanaka Yoshiki
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Những trích đoạn yêu thích ở phần 2

Tập 9 chương 4 : Thung lũng sấm sét (trích một phần)

0 Bình luận - Độ dài: 7,245 từ - Cập nhật:

Những đám mây đen dần tiến về thành Ketkamla. Bầu không khí nóng ẩm, theo cơn gió khó chịu ùa vào mặt.

Quân Sindhura đã chiếm lại được khu vực này, nhưng giờ bọn họ dựng trại, đào hào, xây công sự như thể đang chuẩn bị cho một cuộc vây thành.

"Hình như sắp có giông."

"Tốt. Mong là mưa xong sẽ mát hơn."

Những người lính Sindhura vừa lau mồ hôi vừa nói chuyện. Tuy rằng sinh sống ở phương nam nhưng họ cũng không thích mùa hè nóng bức, mồ hôi đầm đìa. Thời tiết mát mẻ vẫn là tốt nhất.

"Đội quân mặt nạ sẽ đến chứ?"

"Không biết. Nếu bọn chúng thật sự là người Turan thì chắc sẽ đánh tới cùng."

"Nhưng ngươi không biết à? Người Turan sợ sấm sét lắm đấy."

Họ nhìn lên bầu trời, lau mồ hôi trên tay. Cơn giông đen xì kéo đến từ đằng tây, phủ che gần kín bầu trời. Những tia sáng trắng nhảy múa giữa biển mây cuồn cuộn.

Quân Sindhura do vua Rajendra đệ nhị đích thân chỉ huy. Hai tướng Brah và Alafadi đi theo phò trợ. Lúc này, bọn họ đang bàn chiến lược trong lều. Rajendra không giấu được vẻ mệt mỏi vì nóng, tay cầm cây quạt lụa hình tròn, không ngừng phe phẩy.

"Nghe đây, ngay sau khi đội quân mặt nạ xông vào thành, chúng ta sẽ giả vờ luống cuống để cho chúng qua. Quân Pars trấn giữ trong thành sẽ chờ cơ hội mở cổng. Khi ấy cứ giao cho họ là được." Brah và Alafadi thống nhất quan điểm chung là "quân Pars gánh tất."

"Pars đã bỏ ra nhiều công sức chi viện và vạch kế hoạch tác chiến cho ta, không cho họ cơ hội thể hiện thì thật thiếu tinh tế." Rajendra cố tình ra vẻ. Brah và Alafadi đều biết rõ tính cách nhà vua nên chỉ có thể gật đầu "Vâng, bệ hạ nói phải." Là những chiến binh, họ đương nhiên muốn đích thân tiêu diệt lũ thổ phỉ tự nhận là đội quân mặt nạ kia. Tuy nhiên, quân Sindhura đã thất bại không biết bao nhiêu lần nên biết điều đó là vô vọng.

"Giá mà có thể thắng một cách vinh quang hơn."

Tiếc rằng phương châm sống của Rajendra là chỉ cần đẩy hết phần vất vả cho kẻ khác thì thể diện vứt đi luôn cũng được.

Lúc này, sấm sét bắt đầu rền rĩ. Một đội kỵ binh tiến về thành Ketkampla. Những chỉ huy đeo mặt nạ bạc, các binh sĩ thì quấn khăn vải đen. Họ sống với triết lý trái ngược Rajendra hoàn toàn. Hilmes, vị hoàng tử duy nhất còn sống sót của hoàng tộc Pars cũ muốn giữ vững danh dự bằng mọi giá. Không chỉ bản thân hắn nghĩ vậy mà hắn đòi hỏi điều đó từ tất cả các thuộc hạ.

"Phải mau quay về Turk."

Kế hoạch của Hilmes ban đầu là như thế nhưng một vài sự cố xảy ra khiến nó buộc phải thay đổi.

Quân Turk xông vào lãnh thổ Sindhura từ biên giới và chiếm thành Ketkampla, đó là yếu tố đầu tiên phá tan kế hoạch. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là Hilmes không ngờ rằng 2 vạn quân Pars đã đến Sindhura chi viện.

Lúc đầu, tướng Turk là Singh, người chiếm giữ và trấn thủ thành Ketkampla phái sứ giả tìm đến đội quân mặt nạ, yêu cầu họ tới hội quân với mình, nhưng sứ giả chỉ truyền đạt yêu cầu của tướng Singh cứ không nói rằng họ đã thảm bại trước quân Pars. Thực tế, quân Turk phải chạy sang tận Sindhura là vì họ không cầm chân nổi Pars. Quân Turk không biết đội quân mặt nạ biết tình cảnh khốn đốn của mình. Dù hiện giờ họ đang là đồng minh của nhau nhưng trong mắt quân Turk, đối phương chỉ là một đám thổ phỉ Turan nghèo đói, không coi họ là những chiến binh thực sự.

Mặt khác, Hilmes và đội quân mặt nạ không bằng lòng đến hội quân với Singh ở thành Ketkampla. Với họ, tướng Singh không có quyền hành gì với lực lượng này, nên người duy nhất có tư cách ra lệnh cho Hilmes là vua Kalhana, chứ không phải bất cứ tướng lĩnh nào khác.

Ban đầu, Hilmes dự định dẫn quân quay về Turk, nhưng khi mâu thuẫn giữa các chiến binh Turan với các quan giám sát người Turk ngày càng sâu sắc, hắn đã ra lệnh giết hết quan giám sát. Đến nước này rồi, hắn không thể quay về Turk được nữa. Lựa chọn cuối cùng của hắn là giải cứu quân Turk ở thành Ketkampla và khiến họ mắc nợ mình. Trước tiên, họ sẽ xông vào thành Ketkampla, sau đó mới tính bước tiếp theo.

Ngay từ đầu, việc vua Kalhana của Turk quyêt định không đích thân chỉ huy cuộc xâm lược Sindhura đã là một sai lầm. Kalhana độc đoán nhưng lại quá hẹp hòi. Ông ta chỉ phái một vị lãnh chúa là Kadefisis đi thay mình cầm quân, mục đích thực sự là trục xuất hắn ta.

Lúc đầu, mọi chuyện tưởng như suôn sẻ. Đội quân mặt nạ tràn qua phía tây bắc Sindhura như một cơn bão. Nếu Pars dám vượt qua sông Kaveri để cứu viện, 5 vạn quân tinh nhuệ do tướng Singh chỉ huy đang túc trực sẽ tràn qua biên giới, xâm chiếm ngược trở lại Pars. Nếu thuận lợi, bọn họ có thể trở thành bá chủ khu vực phía nam lục địa.

Nhưng tham vọng của vua Kalhana lại bị đánh sập hoàn toàn bởi một người đàn ông tài ba xuất chúng, có khả năng thay đổi lịch sử.

Người này không ai khác chính là Narsus, phó tể tướng kiêm họa sĩ cung đình Pars, hiện đang ở trong thành Ketkampla. Ketkampla là một thành trì được dùng trong chiến tranh nên kiến trúc đều xây bằng đá tối giản, ít chi tiết trang hoàng, chỉ có một khoảng sân hình tròn của hội trường được lát gạch sáng màu, làm tăng thêm vẻ nghiêm cẩn.

"Loại gạch này thật đẹp. Nếu lát ở toàn bộ sân trong, trông sẽ vô cùng trang nhã." Narsus ung dung thưởng thức. Trong khi đó, hiệp sĩ áo đen đứng cạnh lại nhìn ra những tia chớp bên ngoài.

"Thời tiết hôm nay cứ như toàn điềm gở. Narsus, ngươi nghĩ đội quân đeo mặt nạ đó có tìm đến thành này, hành động theo kế hoạch của ngươi không?"

Narsus bề ngoài tỏ ra ung dung nhưng thực ra cũng đang sốt ruột. Anh lên kế hoạch đối phó với tên hoàng tử Hilmes luôn bị ám ảnh bởi quá khứ kia tại tòa thành biên giới Sindhura này, nhưng nếu hắn không đến mà quay về Turk thì làm sao đây?

"Lúc đó ta chỉ cần phong tỏa biên giới Turk, chuyện gì xảy ra bên đó cũng không liên quan đến chúng ta." Narsus cũng đã có một chiến lược khác giành cho vua Kalhana của Turk, bằng cách viết thư giả nét chữ của lãnh chúa Kadefisis.

Về Hilmes, có một điều Dariun và Narsus chưa từng nói ra, mà kỳ thực nói ra hay không cũng vậy, đó là tuyệt đối không thể trao ngai vàng của Pars cho hắn. Sự thông cảm sẽ chỉ khiến Hilmes tổn thương hơn. Cách tốt nhất để đối đãi hắn chính là chấp nhận thách thức, rồi giết chết hắn trong danh dự. Đó là nhiệm vụ của Dariun. Hilmes sẽ không chết dưới tay bất cứ ai khác ngoài chiến binh mạnh nhất xứ Pars. Trước khi vào thành Ketkampla, Dairun và Narsus đã thảo luận xong cách thức đối phó rồi.

"Hoàng tử Hilmes là kẻ giết chú của ta. Ta phải trả thù cho ông ấy. Nhưng thực ra trong lòng ta cũng có chút băn khoăn. Hilmes là một kiếm sĩ xuất chúng. Nếu ta không thể giết được hắn mà ngược lại, chết dưới tay hắn thì sao?"

"Thì bệ hạ sẽ rất đau buồn."

Người bạn vô tình nói ra câu ấy khiến Dariun nhói lòng. Chắc chắn, người đau khổ nhất không phải Dairun mà là Arslan. "Trên cao vầng dương chỉ có một, dưới đất không thể có hai vua." Dariun chợt nhớ đến câu thơ nổi tiếng này.

Trên sân thượng hình tròn lát gạch vang lên những tiếng tang tình du dương. Đó là khúc nhạc mà chàng hát rong Gieve chơi trước khi ra trận. Chẳng phải tiếng than khóc các chiến binh đã ngã xuống, hay lời cầu chúc cho hòa bình, mà là bản tình ca ngọt ngào dành riêng cho một người con gái tuyệt đẹp với mái tóc đen tuyền và đôi mắt xanh bên ô cửa sổ.

"Tiểu thư Farangis xinh đẹp, qua bàn tay của những kẻ thèm khát máu tanh hơn tình yêu, thung lũng này sắp trở thành nghĩa địa lớn nhất Sindhura rồi. Đáng buồn làm sao."

"Sẽ không thiếu chỗ cho anh đâu."

"Chôn cùng một cùng một đám đàn ông thì thật nhàm chán, nhưng nếu được thấy nụ cười của tiểu thư Farangis một lần, tôi chết cũng nhắm mắt."

"Anh tốt nhất là đi tìm mục tiêu khác để hy sinh đi."

Giọng nói lạnh lùng của người đẹp không dập tắt nổi trái tim rực lửa của chàng nhạc sĩ. Gieve tiếp tục chơi đàn, lời tán tỉnh càng lúc càng táo tợn.

"Tôi quả là một người đàn ông vô dụng, cứ hễ gặp được người tình trong mơ thì chẳng còn tâm trí đâu để ý đến các cô gái khác nữa. Tiểu thư Farangis tựa như vầng dương che khuất các vì sao."

"Chắc là những tình nhân ở Turk và Sindhura của anh sẽ nói khác đấy."

"Ôi tiểu thư Farangis yêu mến, oan cho tôi lắm. Cũng vì muốn thu hút sự chú ý của nàng nên tôi mới tung ra những lời đồn thất thiệt như vậy thôi. Nàng cứ người nhạo kẻ si tình ngốc nghếc này đi."

"Tôi không việc gì phải cười nhạo anh, nhưng tôi không ngại công nhận sự ngu ngốc của anh."

Một cơn gió mang theo sức nóng và hơi ẩm lùa qua mái tóc đen óng như lụa của Farangis. Gieve vẫn tiếp tục gảy đàn.

"Cơn gió vụng về quá. Nếu có thổi thì sao không cuốn làn áo mỏng dập dềnh chứ?"

"Giờ còn hỏi những câu ngớ ngẩn thế này. Nhưng tôi tự hỏi, với anh thế nào là nghệ thuật."

Gieve đáp, "Nghệ thuật cũng như tôn giáo vậy, nếu không thể xoa dịu tâm hồn của người đẹp thì tồn tại làm chi." Câu nói nghe rất phù phiếm của Gieve lại chứa những cảm xúc chân thành. Dù Farangis cảm nhận được nhưng cô chỉ nói:

"Nghệ sĩ cũng như nhà truyền giáo ư? Vậy thì anh không phải nghệ sĩ thực sự rồi." Dứt lời, Farangis quay gót về phía hành lang, bỏ Gieve lại một mình.

Alfarid chạy tới. Tuy đã 20 tuổi nhưng cô vẫn chẳng đằm thắm hơn chút nào, mà thậm chí còn năng động hơn xưa.

"Alfarid, sao em không ở chỗ ngài Narsus?"

"Giờ anh ấy đang bận bàn việc quân với ngài Dairun, em không muốn làm phiền."

"Sao em có thể hết lòng vì ngài Narsus vậy?"

Câu hỏi này thật không giống tính cách thường ngày của Farangis. Alfarid nhìn nữ tư tế xinh đẹp với vẻ hoài nghi, nhưng cuối cùng cô vẫn thẳng thắn đáp.

"Nếu em trau dồi giá trị của bản thân, một ngày nào đó trái tim ngài Narsus sẽ hướng về em, cho nên giờ chưa thể vội vàng. Đến cả ông lão bà lão cũng có thể yêu nhau mà."

Farangis mỉm cười, nhìn cô với ánh mắt của một người chị gái.

"Alfarid, chắc tâm hồn em sẽ chẳng bao giờ già đi đâu."

"Chị khen em đấy à?'

"Đúng thế. Em không nghĩ vậy sao?"

Farangis vỗ vai Alfarid rồi bước đi như làn gió, chỉ để lại mùi hương thoang thoảng nơi cô bước chân qua.

Alfarid đi tiếp chưa được 10 bước thì gặp Elam ở góc hành lang, tay cầm bộ đĩa chén đã trống không, chắc hẳn là vừa mang đồ ăn cho Kadefisis trong ngục. Thấy Alfarid, Elam liền mỉa mai theo thói quen.

"Tâm trạng tốt ghê nhỉ, Alfarid. Lại nghĩ ra trò gì để quấy phá ngài Narsus à?"

Hai người cãi cọ đôi câu, chuẩn bị bắt đầu cuộc khẩu chiến gay gắt thì....

Nửa khuôn mặt họ bị ánh chớp chiếu lên trắng lóa, sau đó là một âm thanh đinh tai nhức óc. Alfarid giật mình bịt tai lại, trong khi Elam vẫn đứng yên. Ngoài của sổ, mưa như trút nước, tựa một tấm rèm xám xịt.

------------------

"Mưa to rồi."

Gieve lẩm bẩm. Trái với thói quen thường ngày, anh ta rụt vai lại, dường như thấy lạnh. Anh đặt cây đèn xuống góc tường, đeo kiếm lên bên hông.

Lúc này, bên ngoài thành, vũ điệu của bùn và máu đã bắt đầu. Một lính canh ở góc trại quân Sindhura hét lên :

"Quân mặt nạ...."

Lời còn chưa nói hết đã tan vào tiếng mưa xối xả. Hai ngọn giáo đồng loạt xuyên qua thân thể người lính, hất tung hắn ta lên không trung. Nước mưa hòa cùng máu, giọt đỏ xen giọt xám, thi nhau bắn tứ tung.

"Chúng đến rồi! Chúng đến rồi!"

Tiếng thông báo biến thành tiếng hét. Đội quân mặt nạ xông vào doanh trại quân Sindhura như một tia sét giữa trời xanh. Dưới trận mưa như trút nước, mặt đất hóa thành bùn, bắn tung dưới vó ngựa. Trường kiếm quét ngang qua, lấy đầu một lính bộ binh Sindhura. Đội kỵ binh mặt nạ hung hãn phi qua rãnh hào ngâp nước mưa, cắt dây lều, buộc lên hàng rào, dùng nhiều ngựa kéo đổ. Họ dùng sức mạnh và tốc độ danh bất hư truyền của mình để đánh tan đội hình quân Sindhura.

Như một dòng chảy thép, đội quân mặt nạ đã lập tức xuất hiện trước cổng thành Ketkampla, đồng thời hô to, "Mở cổng!" Dù âm thanh bị che lấp trong tiếng mưa và sấm sét, cổng thành lập tức mở ra. Đội quân mặt nạ ùn ùn xông vào, số quân tên tới 2000 tên, khiến ai nấy đều tin rằng đến đây mọi chuyện đã êm xuôi.

Nhưng không, tình thế chuyển biến xấu ngay tức thì. Dưới trận mưa ầm ầm như thác nước, hàng nghìn mũi tên từ thành cao bắn xuống. Không thể né tránh, người và ngựa của đội quân mặt nạ đều phải hứng chịu cơn mưa cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Ngay khi rơi vào bẫy, Hilmes lập tức hiểu ra kẻ nào đã bày mưu tính kế lừa mình. Còn ai ngoài kẻ thù lâu năm Narsus. Hóa ra quân Pars đã thành công tiêu diệt quân Turk trong thành Ketkampla, chiếm lấy tòa thành, ẩn náu ở đó chờ địch xông vào. Sindhura phối hợp với họ bằng cách đóng quân bên ngoài, vờ như đang vây thành.

"Ngài Mặt nạ bạc, chúng ta có rút lui không?"

Bruhan hét lên trong khi dùng kiếm gạt những mũi tên. Hilmes lắc đầu.

"Tiếp tục tấn công. Theo ta!"

Rút lui sẽ chỉ khiến lòng quân hỗn loạn và tăng thêm thương vong. Không còn lựa chọn nào khác ngoài thẳng tiến về phía trước, tiêu diệt kẻ thù. Tay giơ cao kiếm, Hilmes thúc ngựa xông lên mà không ngoái nhìn lại.

Như đã nói lúc còn ở Turk, "Ai không theo ta sẽ phải chết", Hilmes là một vị chỉ huy tàn nhẫn. Việc bất tuân mệnh lệnh của hắn chỉ dẫn đến một kết cục duy nhất là xử tử. Hôm nay, hắn cũng đưa ra một mệnh lệnh táo bạo khác : chiến đấu trong cảnh thời tiết bất thường, đặc biệt là khi người Turan rất sợ sấm sét. Vài chiến binh trong đội quân mặt nạ theo sau hắn đã trúng tên và ngã ngựa, nhưng ngựa vẫn không ngừng phi.

"Đúng là một đội quân hung hãn."

Arslan đứng trên thành cao, lẩm bẩm. Tuy mới 18 tuổi nhưng chàng đã trải qua cả trăm trận chiến. Vị vua trẻ biết rõ đối với một đội quân coi cái chết như sự trở về, thì rút lui là điều hèn nhát.

"Bệ hạ, xin người cứ yên tâm chờ ở đây."

Farangis đứng bên cạnh nhắc nhở. Cô sợ nếu Arslan hành động nóng vội thì sẽ phá hỏng chiến lược của Narsus.

"Ta biết."

Arslan gật đầu, nước mưa chảy xuống bộ giáp vàng của chàng, thành những dòng loang lổ. Chàng ở đây không phải để chỉ huy trận chiến mà để gánh chịu hậu quả của nó. Chàng hiểu rõ cả những điều Dariun và Narsus đã không nói ra.

Đội quân mặt nạ đang lao lên thì chợt bối rối khi nghe thấy tiếng hét, cùng máu bắn tung lên. Những con ngựa không chủ bỏ chạy như điên. Các kỵ binh xuất hiện ở cả hai hướng, lao vào bắt đầu một trận xáp lá cà. Giữa những âm thanh đinh tai của sấm sét và đao kiếm, Hilmes thấy một kỵ sĩ mặc áo giáp đen cưỡi ngựa ô xông về phía mình. Hắn mỉm cười cay đắng.

"Cháu trai vủa Vahriz, ngươi dám phục tùng tên hôn quân, thật ô danh tổ tiên ngươi."

Nghe những lời này, Dariun nhướn mày, nhìn chằm chằm Mặt nạ bạc.

"Ta hiểu ngài Hilmes chỉ mãi sống trong quá khứ. Nhưng việc ai là con ai, cháu ai, hậu duệ của ai, có thật sự quan trọng đến thế không?"

Hilmes cười khẩy và vung kiếm. Dưới ánh sét trắng lóa, máu và mưa cùng nhau tỏa sáng như ngọc quý. Trong thoáng chốc, âm thanh ấy làm rung chuyển cả đất trời.

Lần đầu tiên kể từ khi thành Ketkampla được xây dựng, nơi này mới diễn ra trận đấu giữa những chiến binh xuất chúng nhường ấy. Hilmes ngăn thuộc hạ cầm giáo định ném vào Dariun. Thay vào đó, hắn tự mình đối đầu, bằng thanh kiếm trong tay và ánh mắt tóe lửa, còn đáng sợ hơn nhiều so với sấm sét.

"Ngươi và tên họa sĩ bất tài kia ở đây, nghĩa là Arslan cũng đang chui rúc đâu đó trong thành này phải không. Ta sẽ lấy đầu của ngươi trước rồi đem hai tên còn lại làm mồi cho chó rừng."

Dariun tay nắm thanh trường kiếm, không nói một lời. Cùng lúc đó, Hilmes cũng đá vào bụng ngựa, lao đến tấn công.

Hai bên cùng hét lên những tiếng hô vang dội. Hai thanh kiếm chạm nhau, bắn ra muôn ngàn tia lửa. Ngay cả chiến mã cũng hý lên đầy thù địch trong lúc hai vị dũng sĩ đối đầu dưới cơn mưa.

Một tiếng sét lại nổ vang rất gần.

Khi dư âm còn ong ong bên tai, Dariun và Hilmes lại đá vào bụng ngựa, lao về phía trước trong trận mưa như thác trút.

Hai chiến mã giơ cao vó trước, hý vang trong khi hai kỵ sĩ giao đấu không mệt mỏi.

Hilmes bổ một nhát kiếm vào đầu Dariun, Dariun chặn ngay trước trán, rồi tung một đòn khác nhanh như chớp vào cổ Hilmes. Những tia lửa cũng như những tia sét nhỏ bay khắp nơi, âm thanh của cuộc đọ sức khốc liệt ấy còn dữ dội hơn thời tiết.

Những cú chém trái, quét phải, đâm thẳng, xoáy ngang, hay những lần xoay thân trên mình ngựa để tránh lưỡi kiếm của kẻ thù, hết đòn này đến đòn khác được tung ra. Nếu là binh lính bình thường, hẳn bọn họ đã chết từ lâu, nhưng hai chiến binh xuất chúng vẫn chưa ai rơi xuống thế hạ phong.

Ngay cả chiến mã cũng hăng máu xông vào nhau. Bùn bắn tung tóe, vấy bẩn bộ giáp của cả hai, nhưng rồi lại bị mưa gột sạch.

"Xuống gặp Vahriz đi!"

Hilmes quát lên, thanh gươm của hắn va chạm dữ dội với lưỡi kiếm của Dairun. Mũ giáp của chàng kỵ sĩ đen vỡ đôi, bay vào làn mưa, nhưng Dariun không chút sợ hãi, lập tức phản công. Hilmes chưa kịp đỡ đòn, tấm giáp trước ngực đã nứt toác. Hắn mất thăng bằng trong giây lát nhưng nhanh chóng lái ngựa, tránh đòn tiếp theo. Sau một khắc hồi sức ngắn ngủi, cả hai tiếp tục lao vào quyết chiến.

---------------

Trong cơn giông bão, cuộc đấu sinh tử này dường như bất tận. Đôi bên liên tục tấn công đến tận khi trận chiến giữa quân Pars và đội quân mặt nạ kết thúc. Tổng cộng đã 100 lần so chiêu. Tia lửa và tiếng kim loại, tấn công rồi phòng thủ, sấm sét và mây đen, cứ đến rồi đi, lặp đi lặp lại.

Chỉ một sự chênh lệch rất nhỏ thôi, như thể từ 99 đến 100, nhưng rõ ràng Dariun có phần nhỉnh hơn Hilmes, và chính Hilmes là người nhận ra điều này. Hắn cảm nhận được, vì bản thân hắn cũng là một kiếm sĩ xuất chúng. Đó cũng là nỗi nhục hắn không thể nào chịu đựng.

Chẳng lẽ ta lại thua cháu trai của Vahriz ư?

Trước kia, Hilmes đã thua trong cuộc đấu tay đôi với Arslan, bởi khi đó Arslan cầm trên tay thanh gươm báu Rukhnabad, khiến cho sức mạnh của chàng có thể sánh với Dariun. Nhưng hiện nay, Hilmes thấy rõ sự chênh lệch. Ba năm qua, kiếm thuật của Dariun không ngừng tiến bộ, nhưng Hilmes thì không.

Lúc này, có một người cảm thấy không thể để cuộc đọ sức tiếp tục kéo dài thêm nữa. Kutmish, một chiến binh Turan kì cựu, người từng trải qua vô số trận chiến lớn nhỏ, quyết định cưỡi ngựa xen vào giữa hai đấu sĩ.

"Ngài Mặt nạ bạc, chuyện ở đây cứ giao cho tôi."

Kutmish tháo mặt nạ xuống, để lộ dung mạo bởi lúc này đã không cần phải đánh lừa kẻ thù nữa.

Ông ta xen vào cuộc đấu tay đôi này vì mong Hilmes có thể thoát khỏi đây, chỉ huy quân đội rút lui an toàn. Thế nhưng ông ta đã vô tình chọc giận Hilmes thay vì Dariun. Hành động của ông ta chẳng khác nào làm tổn thương lòng tự trong ngút trời của Hilmes.

"Tránh đường!"

Với một tiếng quát lớn, trường kiếm của Hilmes vung lên.

Lưỡi kiếm trắng lóa xuyên qua quai hàm của Kutmish, cắt đứt xương động mạch cảnh của ông ta ngay tại chỗ. Người chiến binh Turan dày dặn kinh nghiệm ấy không có thời gian tránh nhát kiếm bất ngờ này. Đến khi toàn thân đầy máu và ngã khỏi yên ngựa, ông ta vẫn thều thào nói "Tại sao?" nhưng đôi mắt thì đã chết. Máu ngấm vào đất, bị mưa cuốn đi, không để lại dấu vết.

Cảnh tượng thảm khốc này khiến Dariun kinh hãi, mà bản thân thủ phạm là Hilmes cũng bàng hoàng.

Thi thể dính đầy máu và bùn của Kutmish in sâu vào mắt Hilmes. Sự căm thù và phấn khích tột độ ban nãy liền tắt ngấm, một cơn ớn lạnh bao trùm. Hilmes hét lên để xua đi, trút hết nỗi lòng vào thanh kiếm, xông đến chém Dariun. Nếu như Dariun, nhân chứng duy nhất của thảm kịch này không biến mất khỏi thế giới, Hilmes vĩnh viễn không thể tha thứ cho bản thân.

Dariun đỡ được nhát chém trực diện này. Anh xoay cổ tay với một sức mạnh kinh hồn, đẩy bật kiếm của Hilmes rồi tung đòn phản công, nhắm vào ngực hắn, tiếp tục tàn phá bộ áo giáp. Ngay sau đó, chiêu thứ hai đã nhắm vào cánh tay. Hilmes đỡ lấy nhưng rồi một âm thanh kỳ lạ vang lên. Lưỡi kiếm của Hilmes gãy làm đôi. Mảnh thép màu bạc xoay tít khi nó bắn văng lên cao, cuối cùng cắm xuống mặt đất.

"Ta sẽ không chết. Ta không thể chết như thế này được."

Khi ý nghĩ ấy nảy ra trong đầu, Hilmes quyết định thực hiện một hành động không thể nào tưởng tượng nổi. Hắn tung hư chiêu, tấn công Dairun bằng cây kiếm gãy, buộc chàng kỵ sĩ đen phải lui lại, sau đó lập tức quay ngựa bỏ trốn.

Hilmes chạy trốn, hành động ấy khiến Dariun còn kinh ngạc hơn bất cứ cú phản công nào. Vì né đòn của Hilmes, anh hơi mất thăng bằng trên yên ngựa. Đến khi điều chỉnh vững lại tư thế, Hilmes đã chạy xa hơn ba mươi bước, đạp lên bùn và nước mưa rồi trốn thoát.

Khói lửa của trận chiến bên ngoài ngăn cản Dariun đuổi theo. Anh đứng yên đó với chú ngựa ô, vẻ mặt có chút bối rối.

Lúc này, cuộc chiến ngoài trành cũng dần đi vào hồi kết. Của cải cùng lương thực mà đội quân mặt nạ cướp về đều chất trên xe nhưng không thể vận chuyển vào thành. Quân Sindhura vẫn đang vây chặt bọn họ từ ba hướng.

"Đây là tài sản của Sindhura chúng ta. Hãy giành lấy từ tay lũ trộm cướp." Rajendra hét trên lưng ngựa. Chú bạch mã đầy kiêu hãnh của hắn giờ đã dính đầy bùn, chẳng khác gì loài ngựa vằn xứ Nabataean.

Rajendra chỉ huy quân rất thiện nghệ. Hắn ra lệnh cho mỗi nhóm ba binh sĩ vây chặt một kỵ binh Turan, nhắm vào chân chiến mã của họ. Khi ngựa bị thương và ngã xuống, lính Turan không thể phát huy hết sức mạnh của mình. Lúc ấy thì chỉ cần dùng giáo bao vây, uy hiếp, buộc họ đầu hàng. Miễn họ buông vũ khí thì không cần phải giết. Nhóm này giải quyết xong thì sang hỗ trợ nhóm khác. Bằng cách đó, quân Sindhura đánh bại quân Turan mạnh hơn mình mà không có sự hỗn loạn nào.

"Chúng ta không bao giờ nên chống lại vị quân sư người Pars này."

Tướng Alafadi thở dài, bởi chiến thuật ấy do Narsus bày cho quân Sindhura.

Jimsa, một vị tướng người Turan dưới trướng Arslan thực sự không có ý định tham gia vào trận chiến trong này nên chỉ im lặng cưỡi ngựa đứng bên cổnh.

"Anh!"

Sau tiếng hét, một ánh kiếm lóe lên. Vừa quay người lại, tay áo quân phục của Jimsa đã bị chém đứt. Hai con ngựa đổi tư thế, nước bùn bắn văng dưới vó sắt.

"Bruhan đấy à?"

Jimsa thốt lên khi Bruhan tháo mặt nạ, để lộ gương mặt trẻ con của mình.

"Anh định nói : Em lớn thật rồi. Nhưng em làm gì thế này? Định rút kiếm chống lại anh trai mình đấy ư?"

"Hóa ra đó là sự thật! Loại người khốn kiếp như anh không xứng !!!"

Jimsa bình tĩnh hơn em trai, chỉ cầm kiếm trên tay một cách cảnh giác và thuyết phục.

"Từ ngày theo phò tá Arslan bệ hạ tới nay, anh đã đóng góp đủ công lao để xin bệ hạ tha tội cho em. Hãy bỏ vũ khí xuống và đi theo anh. Anh sẽ đưa em tới gặp bệ hạ."

"Anh gọi vua của một kẻ ngoại quốc là bệ hạ sao?!"

Bruhan gầm lên. Jimsa đáp.

"Tiếc rằng người anh coi là chủ nhân không ở Turan. Dù ở đâu đi nữa, anh cũng chỉ phục tùng người có phẩm chất xứng đáng."

"Không đời nào!"

Bruhan nghiến răng, không biết nước mắt hay mưa đang chảy dài trên gương mặt chàng trai trẻ.

"Mặt nạ bạc hiểu người Turan chúng tôi, cho phép chúng tôi chiến đấu vì thân nhân, nên chúng tôi mới trung thành với ngài ấy."

"Anh không biết hắn là ai. Nhưng nghĩ kỹ đi, em có phải đã trở thành công cụ hình người cho hắn rồi không?"

"Nếu anh còn dám vu khống ngài Mặt nạ bạc một câu, tôi sẽ không tha cho anh."

"Em vừa cầm kiếm chém anh, giờ còn nói có tha hay không làm gì."

"Tôi đã cố tình nương tay rồi, chỉ làm thế để thu hút sự chú ý của anh thôi." Khi hét lên như thế, trông cậu trai trẻ bơ vơ như ngọn cỏ không rễ, một người đã rời bỏ quê hương. Jimsa an ủi.

"Thôi nào, đồ mít ướt."

Lúc này, cuộc đấu đã quay về bản chất một cuộc cãi nhau thông thường của hai anh em. Giữa mưa to gió lớn, hai người mắng chửi nhau bằng tiếng Turan nhưng không cầm kiếm đánh nhau. Lúc này, tình thế xung quanh thay đổi đáng kể. Mưa giảm dần, sấm sét cũng thưa thớt, trận chiến sắp qua rồi. Quân Turan trong và ngoài thành Ketkampla hoặc bị đuổi hoặc bị giết, số lượng không còn bao nhiêu.

Một tia sáng bạc cắt chéo qua làn mưa mỏng. Mũi tên sắc bén bật ra khỏi áo giáp của Bruhan. Bruhan cũng nhân cơ hội ấy, tra kiếm vào vỏ rồi bỏ đi.

Lúc này, nếu Jimsa dùng phi tiêu thì Bruhan chắc chắn sẽ ngã xuống, nhưng anh chỉ lắc đầu nhìn em trai mình trốn mất.

"Vậy đã được chưa, bệ hạ?"

Trên tường thành, Elam hạ cung tên, hỏi chúa thượng của mình. Arslan im lặng gật đầu.

Ánh sáng chiếu xuống mặt đất bây giờ không còn là sấm sét nữa mà là tia nắng xuyên qua biển mây. Từng mảng trắng dịu dàng đẹp đẽ trải lên khung cảnh thê thảm khôn cùng. Thành Ketkampla thành vũng lầy đen đỏ với hơn 1 vạn xác người xác ngựa nằm rải rác.

Nhưng không có Hilmes trong số đó.

-----------------------

Arslan bước xuống tường thành cùng Farangis và Elam. Narsus đứng bên ngựa, kính cẩn chào và báo tin thắng trận.

"Hilmes trốn rồi à?"

"Đội kỵ binh của Isfan đã phục kích bên ngoài thành, hắn có cánh cũng khó mà thoát được." Narsus lạnh lùng nói. Nếu không giăng thiên la địa võng thì khó lòng bắt được hoàng tử Hilmes.

Arslan gật đầu, vẻ mặt đắng ngắt như uống thuốc đông y xứ Serica. Chàng sẽ không hỏi, "Không có cách nào tha mạng cho anh ta ư?" bởi câu nói ấy chẳng những khiến mọi nỗ lực của các thuộc hạ tan thành mây khói, mà còn phủ nhận những thành tựu trong 3 năm cai trị của chàng.

Cách đó 1 farsang về phía tây của thành Ketkampla, Hilmes đã tập hợp được những người lính thiện chiến nhất và rút lui. Dù họ bị thương và cạn kiệt sức lục cả thể chất lẫn tinh thần, nhưng vẫn có cả nghìn người chạy thoát khỏi vòng vây. Dù không thấy. Không thấy bóng dáng Dolge và Kutmish nhưng Bruhan còn sống. Hilmes dẫn bọn họ về hướng tây nam.

Lúc này, hai con sói nhỏ đang chơi đùa dưới chân Isfan. Isfan nhặt được chúng trên con đường núi phủ tuyết, lúc đi ngang lãnh thổ Turk. Chúng có lẽ đang lang thang sau khi mất cha mẹ. Isfan được người ta gọi là Faruhadin – đứa con của sói. Anh bị bỏ lại trên núi khi còn nhỏ nhưng may mắn được bầy sói hoang bảo vệ đến khi anh trai Shapur cứu về. Dù khi ấy anh còn quá bé và không có ký ức nào hết, nhưng anh vẫn vô thức cảm thấy thân thiết với loài sói.

Hai chú sói tuy nhỏ nhưng đã cai sữa, Isfan nuôi chúng bằng cháo lúa mì và thịt cừu. Lúc nào không có thời gian nấu cháo, anh nhai nát từng miếng thịt, đưa cho chúng ăn. Chiếc bao da nhỏ bên yên ngựa của Isfan là nơi ẩn náu của hai chú sói. Chúng đồng hành với anh từ chiến trường Turk cho tới Sindhura.

"Nghe nói sói con sẽ biến thành mỹ nữ vào ban đêm đúng không?" Có người trêu chọc nhưng Isfan không để tâm. Anh gọi con sói nhỏ có bộ lông đỏ và đốm bên mắt phải là Sao Hỏa, con có lông sẫm màu hơn là Sao Thổ.

Lúc này, chúng đang đứng bên chân Isfan, gầm gừ cảnh cáo với bộ lông dựng đứng, mắt chằm chằm hướng về phía đông bắc, muốn bảo vệ ân nhân của mình.

"Sao Hỏa ! Sao Thổ ! Sẽ ổn thôi. Ở đây ngoan nhé."

Hai chiến binh tí hon được đặt tên theo các vì sao bị Isfan túm gáy, bỏ vào trong chiếc túi. Sau đó, Isfan lên ngựa, phất tay ra hiệu cho 1500 kỵ binh sẵn sàng đánh chặn.

Hilmes cùng các thuộc hạ tránh lối đi lầy lội, chọn nơi đất cao và khô ráo để phóng ngựa cho nhanh, bỏ lại đồng đội đã hy sinh và của cải đã cướp được, chỉ hòng giữ lại mạng mình. Nhưng một cuộc phục kích đã được dàn xếp. Nhưng mây giông kéo đến, quân Isfan băng qua sườn núi, lao vào hàng ngũ quân bại trận.

Quân số chỉ tương đương nhau nhưng tinh thần và thể chất lại khác xa. Địa thế hiện giờ thuận lợi cho quân Pars. Đợt bắn tên đầu tiên đã khiến hơn 50 chiến binh Turan tử trận, đợt tiếp theo là 30 tên. Không cần đến đợt thứ ba, họ lao vào kẻ địch bằng kiếm và giáo, khiến quân Turan chết như ngả rạ.

Hilmes liều mạng xuyên thủng một góc vòng vây, vung lưỡi kiếm gãy chống trả. Cuối cùng, hắn giật được cây giáo của một kẻ địch, dùng nó để chiến đấu. Sự dũng mãnh đáng kinh ngạc của hắn khiến những kỵ sĩ tài giỏi và quả cảm nhất của Pars cũng phải nao núng, trơ mắt nhìn hắn trốn đi.

Thứ ám ảnh Hilmes dai dẳng nhất không phải mạng sống mà là danh dự. Hắn đã rơi vào bẫy của Narsus, bị Dariun đánh bại, vô tình giết Kutmish trong cơn thịnh nộ. Ketkampla trở thành nỗi sỉ nhục đối với hắn. Hắn không thể chết trước khi khôi phục được lòng tự trọng.

Lúc này, chỉ còn 100 người đồng hành cùng Hilmes thoát khỏi chiến trường. Đội quân mặt nạ gần như bị tiêu diệt toàn bộ.

Cơn giông kéo dài đã ngưng lại, bầu không khí mát mẻ bao trùm thung lũng Ketkampla.

Vua Arslan của Pars và vua Rajendra của Sindhura cưỡi ngựa tuần tra trận địa, an ủi những binh lính bị thương. Chỉ riêng đội quân mặt nạ đã có hơn 8 ngàn người bỏ mạng dưới bùn. Những mũi tên, lưỡi kiếm xuyên qua cơ thể họ phản chiếu ánh sáng mờ mờ. Sindhura thiệt hại 2 ngàn rưỡi quân trong khi Pars mất 500 binh sĩ.

"Vậy thì vương quốc Turan có thể coi như diệt vong hoàn toàn rồi." Rajendra hiếm khi lộ ra vẻ đồng cảm. Chuyện đã thế rồi, nảy sinh chút lòng trắc ẩn cũng chẳng hại gì. Mà đó là thứ chỉ kẻ thắng mới có. Nhưng thực ra cũng có đôi khi Rajendra tử tế kể cả hắn không được lợi lộc gì.

Arslan bước đi với trái tim nặng trĩu. Một nửa số người chết đều là thiếu niên, bằng hoặc nhỏ tuổi hơn chàng. Nghĩ đến những đứa trẻ như vậy lại bỏ mạng trên chiến trường, lòng chàng như rỉ máu. Nhưng...

"Bọn họ không thể cướp bóc của cải nước khác, tàn sát người dân nước khác chỉ vì họ còn trẻ dại hay đang đói khổ. Xin bệ hạ đừng quá đau lòng." Lời nhận xét của Narsus tuy lạnh lùng nhưng đúng đắn. Arslan và Rajendra chỉ có thể im lặng gật đầu. Sau đó, Rajendra lấy lại tinh thần, đổi chủ đề, hỏi Arslan định xử lý tên tù nhân Kadefisis thế nào.

"Hy vọng ngài có thể giao quyền giám sát Kadefisis cho ta."

"Nhưng Rajendra bệ hạ..."

"Thật mà. Ngài đã đến tận Pars để cứu viện cho chúng ta rồi, giờ lại giúp chúng ta trông coi ngài Kadefisis nữa, thật phiền cho ngài quá. Ta sẽ chịu trách nhiệm mọi chi phí sinh hoạt cho ngài lãnh chúa Kadefisis." Rajendra nói. Giọng điệu sôi nổi như thường lệ của hắn khiến nét mặt Arslan dịu lại. Chàng không trả lời ngay mà liếc nhìn Narsus, người đang ung dung mỉm cười sau lưng. Thế là họ quyết định giao Kadefisis cho Rajendra.

Elam cưỡi ngựa đến gần, hỏi người thầy của mình.

"Ngài Narsus, vậy cũng được ư?"

"Chuyện gì?"

"Chuyện giao lãnh chúa Kadefisis cho vua Rajendra ấy. Sẽ không vấn đề gì chứ?"

Narsus vui vẻ nhìn đệ tử yêu quý của mình, hỏi cậu nghĩ thế nào. Elam đáp, "Kadefisis là quý tộc của Turk, có tư cách thừa kế ngai vàng. Một khi rơi vào tay vua nước khác, hắn sẽ bị lợi dụng như công cụ chính trị hoặc ngoại giao."

"Trong tương lai, vua Rajendra chắc chắn sẽ giúp Kadefisis lên ngôi ở Turk, rồi biến Turk thành nước chư hầu của Sindhura."

"Đúng là vua Rajendra có ý đồ đó."

"Vậy phải làm sao, ngài Narsus?"

"Elam à, xem xét mọi chuyện từ nhiều góc độ một chút." Narsus xoa cằm.

"Ngài Kadefisis vừa là công cụ, vừa là mồi lửa. Biết hắn đang ở Sindhura, vua Kalhana nhất định sẽ rất bất an. Mọi mưu đồ tàn ác của Turk sẽ hướng vào Sindhura chứ không phải Pars."

"Vua Rajendra không nghĩ đến chuyện đó sao."

"Không. Hắn nghĩ đến rồi."

Narsus vui vẻ ngửa mặt nhìn trời.

"Nếu có chuyện gì xảy ra, vua Rajendra sẵn sàng gửi thủ cấp của Kadefisis về Turk để lấy lòng vua Kalhana. Hắn sẽ làm mọi thứ để không gặp rắc rối." Narsus nói.

Isfan quay về và báo cáo với nhà vua.

"Bệ hạ, thần đáng chết. Chiến dịch tiêu diệt tàn quân đã thất bại. Chủ tướng của chúng chạy thoát rồi."

"Đừng nói thế, Isfan. Đội quân mặt nạ đã thua tan tác, không thể vực dậy được nữa."

Arslan thầm thở phào nhẹ nhõm. Dù gánh trên vai trách nhiệm của một vị vua nhưng nếu nhìn thấy cái đầu của Hilmes, có lẽ chàng sẽ rất khó chịu. Đương nhiên, sự nhẹ nhõm lúc này của Arslan chỉ là tạm thời. Nỗi dày vò được gác lại cho những cơn đau lớn hơn về sau. Khi Arslan đang cố thuyết phục bản thân, chàng vô tình bắt gặp hai chú sói nhỏ vẫy đuôi dưới chân Isfan, liền bật cười.

Elam nói nhỏ với Narsus.

"Ngài Narsus, thành thật mà nói, tôi lấy làm ngạc nhiên. Tôi tưởng hoàng tử Hilmes sẽ bỏ qua thành Ketkampla và quay về Turk cơ." Nếu vậy, Narsus sẽ áp dụng chiến lược truy quét, tiêu diệt đến cùng. Anh sẽ đánh đuổi quân Turk ra khỏi Ketkampla và được quân Sindhura hộ tống đến tận biên giới. Narsus đề xuất với Rajendra rằng quân Sindhura nên đóng nguyên tại vị trí đó, lấy lý do là xây dựng công sự dã chiến, rồi tung tin đồn như sau:

"Quân đội Sindhura đã thiết lập các vị trí phòng thủ ở biên giới, ngăn đội quân mặt nạ quay về. Trong khi đối phương tấn công các nhóm nhỏ ấy, quân chủ lực sẽ đánh úp từ sau lưng, hai mặt công kích." Nghe vậy, bọn họ ắt sẽ hoang mang. Quân Turan không giỏi về chiến lược, cũng không thích bị bày mưu tính kế.

Giả sử Hilmes mặc kệ tin đồn này, chạy thẳng về Turk, tin đồn không còn là tin đồn nữa, mà sẽ thành sự thật. Còn nếu Hilmes thật sự có thể vượt biên về Turk an toàn, bức thư bắt chước nét chữ của Kadefisis sẽ phát huy tác dụng. Nội dung lá thư giả ấy như sau:

"Ta, Kadefisis, từ nay sẽ không vâng lệnh vua Kalhana nữa. Nhà vua trơ mắt nhìn hàng vạn binh lính bị bỏ lại trên đất khách mà không gửi quân cứu viện. Ông ta là tên hôn quân độc ác. Ta sẽ bắt tay với vua Hilmes của Pars để kiến tạo một vương quốc lý tưởng cho người dân Turk." Vua Kalhana sẽ phản ứng thế nào khi nhận được lá thư này. Chắc chắn ông ta sẽ nghi ngờ Hilmes. Narsus chỉ cần chờ ngọn lửa ấy bùng lên mà thôi.

Narsus đã giăng đến ba bốn tầng thiên la địa võng trên đầu Hilmes. Điều duy nhất khiến anh lo ngại là Hilmes sẽ tấn công một tòa thành khác. Nhưng bản thân Hilmes cũng hiểu rằng quân Turan không giỏi công thành hay thủ thành. Vậy nên để câu giờ, hắn chỉ còn cách hợp sức với quân Turk ở thành Ketkampla. Một khi hội quân với quân chủ lực của Turk, họ sẽ có một lực lượng lên tới 4 vạn quân. Điều này khiến vua Kalhana không thể ngồi yên, nhất định sẽ phái một đội quân lớn khác đến hỗ trợ.

Narsus hiểu rất rõ suy tính của Hilmes mau chóng đưa ra chiến lược lần này.

"Dù sao đi nữa, hoàng tử Hilmes cũng không có lựa chọn. Vốn dĩ ngay từ đầu, hắn đã không nên nhờ cậy vua Turk rồi. Còn sống ngày nào, hắn nhất định sẽ còn tìm đường quay lại, và ta sẽ tiếp tục nghiền nát giấc mơ hão huyền của hắn, vậy thôi."

"Ngài ấy có thể nói những điều tàn nhẫn với vẻ mặt điềm tĩnh như vậy." Elam lắc đầu. Narsus đúng là rất tàn nhẫn khi vạch ra các sách lược, nhưng anh không phải kẻ ích kỷ nên sự tàn nhẫn của anh không mang tính ác. Hơn nữa, Narsus ý thức được hành động của mình nên đã cố hết sức để mọi việc trôi chảy. Để bảo vệ đất nước, bắt buộc phải có những mưu kế xảo trá và sự hy sinh. Chỉ kẻ ngốc mới nghĩ có thể đạt mục đích mà không cần đánh đổi gì.

Tóm lại, quân Pars đã cứu vương quốc Sindhura thoát khỏi sự tàn phá của đội quân mặt nạ, chiến thắng khải hoàn vào 7 ngảy sau. Đó là cuối tháng 4 năm 325 lịch Pars. Như ngài họa sĩ cung đình Narsus nói, họ sẽ quay về trước khi mùa hè sang.

Cuộc viễn chinh dài ngày của Arslan đã kết thúc.

-----------------------

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận