Sau khi cúp máy, Eleven trả lại chiếc điện thoại cho Theo. “Tiến sĩ cũng cảm nhận được sự nguy cấp của tình hình,” cô nói. “Tôi có thể vào phòng thí nghiệm cùng một người khác. Thời gian không được nêu cụ thể nên chúng ta có thể ưu tiên việc điều tra.”
“Tuyệt. Đó là một tin tốt. Emma dường như cũng đã khám phá ra được gì đó, vậy nên chúng ta sẽ đến văn phòng trước tiên.” Theo đặt chén đĩa vào bồn rửa và nhanh chóng rời khỏi nhà.
Khi thang máy xuống đến tầng của anh thì đã có sẵn người ở bên trong. Đó là một người đàn ông tầm tuổi sinh viên, anh ta cười tươi ngay khi vừa thấy Eleven.”
“Chào buổi sáng, Eve.”
“Chào buổi sáng. Tên tôi là Eleven.”
Theo nhăn mặt khi bị người đàn ông kia hoàn toàn phớt lờ, rồi sau đó đứng chen vào giữa anh ta và Eleven. Đây chắc chắn là “Jamie” mà Eleven đã kể với anh.
Jamie vẫn không để tâm đến Theo. “Có phải do ‘Eve’ đơn giản quá không?” anh ta hỏi Eleven. “Tôi không thể nghĩ được một biệt danh cho Eleven… Ellie hay Elena hoặc Levvie nghe sẽ bắt tai hơn nhiều. Cô cảm thấy hợp với cái tên nào không?”
“Tôi không có sở thích liên quan đến biệt danh,” cô trả lời. “Cứ gọi tôi bằng bất cứ cái tên nào anh muốn.”
“Ồ! Được thôi! Vậy tôi sẽ gọi cô là Eve nhé?”
Câu trả lời của Eleven hoàn toàn không thân thiện, thế nhưng Jamie vẫn vui vẻ đáp lại mà không chút chùn bước. Anh ta vẫy tay và đi ra bãi đỗ xe, nhưng Eleven thậm chí còn chẳng liếc về phía đó.
“…Anh ta có vẻ khá là say mê cô nhỉ,” Theo nhận xét. “Có thật sự là cả hai người mới chỉ gặp nhau lần đầu vào tối qua không?”
“Có. Tôi không thể phỏng đoán được lý do anh ta lại tỏ ra như vậy.”
Theo quả thực cũng tò mò, nhưng nếu cô đã nói là mình không biết rồi thì có lẽ không nên hỏi gì thêm.
“Anh ta phải lòng một cô gái vô cùng phiền toái rồi.” Theo lắc đầu thở dài, đi lên xe và hướng tới chi nhánh Delverro của Cục Điều tra Tội phạm.
Chuyện ở cục vẫn như mọi khi. Nhưng sắc mặt Theo trở nên u ám ngay khi vừa bước vào trong văn phòng. Emma và Tobias đang nhìn vào những tệp hồ sơ với nét mặt nghiêm trọng.
“Dường như mọi người đã khám phá ra gì đó,” anh nói. “Và không có vẻ đó là tin tốt.”
“Ừm. Chào buổi sáng, Theo. Chuyện này thực ra có lẽ không có gì quan trọng đâu, nhưng cứ nghĩ tới là tôi lại thấy bứt rứt.” Emma đang cầm hồ sơ về những vụ việc nhỏ lẻ được tổng hợp lại bởi bộ phận an ninh công cộng của cảnh sát thành phố Delverro. Chúng bao gồm các báo cáo thất lạc đồ vật, yêu cầu điều tra mất tích và báo cáo thiệt hại. Tất cả đều chưa được giải quyết.
Báo cáo thiệt hại bao gồm các vụ hành hung mà nạn nhân có cả nam lẫn nữ. Có lẽ do vụ việc xảy ra vào ban đêm nên không một ai thấy hung thủ. Ngoài ra còn có báo cáo về một con chó cưng bị thương.
Vật phẩm thất lạc bao gồm những thứ như tấm thảm đặt ngoài sân để chuẩn bị chuyển nhà, hay một món đồ trang trí đính ngọc xanh lam. Xét về mặt tình huống thì có thể cho rằng một ai đó đã lấy chúng đi, nhưng đến giờ “ai đó” hay vật thất lạc vẫn chưa được tìm thấy. Khi so sánh các yêu cầu điều tra mất tích và ảnh chụp được gia đình cung cấp, điểm tương đồng duy nhất có thể thấy được là các nạn nhân đều mang thân hình nhỏ con với độ tuổi xấp xỉ nhau; những đặc điểm ngoại hình còn lại như màu tóc, màu da, màu mắt đều khác nhau.
Thời điểm các báo cáo thiệt hại được gửi tới nằm trong khoảng từ một năm trước cho tới chỉ một tuần trước, địa điểm xảy ra tập trung rải rác tại ba khu vực.
“…Đây có lẽ thực sự là vấn đề,” Theo nói. “Còn đây thì sao?”
“Chỗ đó vẫn đang được sắp xếp. Tôi có thứ này muốn cậu kiểm tra qua,” Emma trả lời. Cô đính những tờ giấy với nét vẽ thô hình người lên trên bảng, sau đó là những báo cáo thiệt hại. Theo nhăn mặt quan sát từng tờ giấy một được đính lên.
Tập trung ở phía trên cùng là các bức ảnh chụp những chó và vài người phụ nữ bị thương với bộ lông và mái, một người mất tích với những dải tóc xoăn màu hạt dẻ nổi bật và tấm thảm dài. Ở phía dưới là viên ngọc màu xanh lam, một người mất tích với đôi mắt xanh nổi bật, tiếp đó là những người mất tích với vị trí nốt ruồi gần giống nhau trên tay và chân.
Cuối cùng là sự xuất hiện của một người đàn ông với mái tóc xoăn màu hạt dẻ và mắt xanh trong bản báo cáo từ phía cảnh sát.
Tobias nhìn sang phía Theo. “Emma để ý thấy điều này nên chúng tôi đã nói chuyện với các nạn nhân thêm lần nữa,” anh nói với sắc mặt nghiêm túc. “Về người phụ nữ tóc xoăn—ai đó là bất ngờ nắm lấy tóc và giật mạnh khiến cô ấy ngã xuống đất, sau đó hung thủ bỏ chạy với tóc và một mảng da đầu của cô ấy. Về những con chó lông dài: Chúng mang những vết sẹo giống như bị một con thú lớn cắn vào. Và rồi… đây.”
Tobias đính thêm một tấm hình nữa lên trên bảng—ảnh chụp những nạn nhân được tìm thấy bên trong một cửa hàng đồ ngọt. Thi thể của họ đã bị ăn mất một nửa.
“Theo như tài liệu từ những vụ này, hình dạng vết thương hoàn toàn trùng khớp với manh mối của chúng ta. Ngoài ra cũng không phát hiện dấu vết của nước bọt. Đây không thể là tình cờ được.”
“…Vậy các Amalgam này đã lộng hành trong suốt một năm qua?” Theo hỏi.
“Khá chắc là vậy,” Emma nói. “Cô có nghĩ họ là những con mồi bị Amalgam săn không, Eleven?”
“Amalgam thông thường không có miệng. Mẫu Hound chúng tôi đơn thuần tái tạo hình dạng của miệng để mô phỏng cơ thể con người. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi không thể ăn gì. Chúng tôi hấp thụ vật chất và chuyển hóa chúng vào cơ thể. Chúng tôi nuốt chửng toàn bộ một vật.”
“Toàn bộ,” Theo và Emma đồng thanh nói. Họ không thể tưởng tượng ra khung cảnh ấy trông như thế nào.
“Ví dụ nhé.” Tobias nhấc một cái cốc rỗng lên. “Nếu cô muốn hấp thụ thứ này thì sẽ ra sao, Eleven?”
“Tôi sẽ áp nó vào vùng bụng, nơi bề mặt tiếp xúc là lớn nhất, và hấp thụ, chuyển hóa nó thành một phần cơ thể tôi.”
“…Nghĩa là bình thường cô không cắn nuốt các loại vật chất,” Theo nói. “Cô nuốt chửng toàn bộ một vật mà không cần tiêu hóa à?”
“Những mẫu Amalgam đầu tiên có nhai và tiêu hóa vật chất như động vật,” cô trả lời. “Tuy nhiên, trong quá khứ chưa từng xuất hiện những mục tiêu được nhắm đến để tiêu thụ có thể an toàn trốn thoát.”
Lời khẳng định của Eleven dường như là một thông tin vô cùng quan trong. Theo đứng dậy khỏi bàn và đi về phía tấm bảng.
“Nói cách khác, chúng ta có thể giả thuyết rằng toàn bộ những vụ án này đều do Amalgam gây ra. Chúng không hề muốn ăn, thay vào đó… Có phải chúng chỉ muốn một bộ phận? Mái tóc, những thứ màu xanh, chỉ các bộ phận đó thôi.”
“Có lẽ nào…” Emma nheo mắt lại. “Chúng chỉ thu thập những bộ phận cần thiết. Mục đích của chúng không phải săn mồi hay tấn công người khác, mà chỉ là xây dựng cơ thể cho người này?”
“Nếu vậy thì dòng sự kiện có thể trở nên hợp lí.” Tobias dùng ngón tay gõ lên một tờ báo cáo. “Sau những vụ hành hung nhắm tới con người và thú nuôi, chúng ta đụng phải một loạt các vụ mất tích. Có thể chúng đã nhận ra rằng bắt lấy một người với các đặc điểm tương đồng thì sẽ nhanh hơn là chỉ thu thập những bộ phận giống với thứ cần thiết.”
“Như thế thì tất cả những người và vật thất lạc hẳn sẽ được tập trung tại một nơi nào đó,” Theo nói. “Việc các nạn nhân đều có đặc điểm ngoại hình giống nhau có thể mang ý nghĩa là những bộ phận thu thập được bị phân hủy và không thể duy trì lâu, do đó nên cần thay thế bộ phận mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa rõ mục tiêu của chúng là gì.”
Eleven chợt quay sang nhìn Theo. “Động lực có thể thúc đẩy chúng tạo nên một con người là gì?”
“…Phải rồi.” Theo nói. “Để bù cho sự mất mát chăng? Chúng muốn tạo ra một bản sao thay thế cho người nào đó đã qua đời?”
Tobias nhăn mày, nhưng Emma lên tiếng trả lời trước.
“Có thể. Điều tương tự cũng xuất hiện ở những tên sát nhân hàng loạt, khi họ không thể đặt tay lên mục tiêu mà mình thực sự muốn nên họ trút giận lên những người khác. Tình yêu, thù hận—nguyên do tùy người mà cũng khác nhau.”
“Tình yêu và thù hận là những cảm xúc mãnh liệt, mục tiêu của những kẻ đó cũng khó có thể nào thay thế được,” Theo nói. “Ngay cả vậy, bọn họ vẫn tìm kiếm một người thay thế ư?”
“Có đấy.” Emma gật đầu. “Trong một số trường hợp, dù đối tượng đã chết rồi nhưng tên sát nhân vẫn sẽ luyện tập với những người nhìn giống với mục tiêu thật sự để xây dựng sự tự tin trước khi tiếp cận. Tình yêu dẫn đến giết chóc. Không phải một chủ đề quá dễ chịu gì.”
“Đã hiểu.” Eleven khẽ gật đầu và nhìn sang người đàn ông trên tấm bảng. “Vậy chúng ta cần truy tìm người đang muốn thay thế cho người đàn ông này.”
“Các Amalgam sẽ không tự vận hành để tìm bộ phận thay thế à?” Tobias hỏi.
“Không thể. Amalgam không thể ‘tự chủ’.” Eleven thẳng thừng bác bỏ ý kiến ấy. “Amalgam không tồn tại cảm xúc. Mặc dù hành động của chúng có thể giống như có sở hữu, điều đó cũng chỉ dừng lại ở mức độ mô phỏng. Tình yêu và thù hận được sinh ra bên trong những sinh vật có thể đối diện với cái chết. Chúng không thể tồn tại bên trong chúng tôi.”
Tobias lộ vẻ buồn rầu khi nghe vậy, Emma đặt một tay lên vai anh ấy.
“Chúng là vũ khí,” cô ấy nói. “Dù trông giống như chúng đang tự ý hành động nhưng chắc chắn có một ai đó đang đứng đằng sau để chi phối. Nếu có thể tìm được người đó là ai thì chúng ta sẽ có manh mối để tiếp tục điều tra.”
“…Phải. Có lẽ vậy.” Tobias thở dài, thay đổi chủ đề và cầm một đơn yêu cầu điều tra mất tích lên. “Được rồi. Tôi và Emma sẽ đọc qua một lượt danh sách những người mất tích và tìm kiếm một kỹ sư tạo tác. Người đứng sau bất kể có là ai đi nữa thì cũng phải biết khá nhiều về tạo tác và Amalgam.”
“Đồng ý.” Emma gật đầu. “Còn hai người thì sao, Theo? Liệu cả hai có thể đến phòng thí nghiệm của R&D trong ngày hôm nay không?”
“Eleven đã đặt lịch hẹn trước rồi. Giờ chúng tôi sẽ lập tức đến đó.” Theo tách ra khỏi Tobias và Emma rồi nhanh chóng rời khỏi văn phòng.
Tobias đã nhờ cậy Eleven khá nhiều trong công việc điều tra lần này, nhưng anh ấy không hề coi cô ấy như một vũ khí, vậy nên cơn sốc đối với anh ấy hẳn là rất lớn. Theo cũng đôi phần cảm thấy lo lắng về điều đó.
“Này, Eleven. Cô sẽ làm gì nếu tôi chết?” anh hỏi trong khi hai người họ đang đứng chờ thang máy.
“Tôi sẽ không để anh chết.”
Giọng nói tràn đầy quyết tâm của cô khiến anh kinh ngạc. Anh quay sang nhìn cô trong bất ngờ, nhưng trên khuôn mặt cô vẫn giữ một nét vô cảm ấy.
“Tôi sẽ không để anh chết,” cô ấy lặp lại một cách quả quyết. “Không bao giờ.”
“…Vậy à? Nghe… thật an tâm.” Anh kinh ngạc đến mức chỉ có thể trả lời bằng một câu đơn giản như vậy. Không phải những lời cô vừa nói chính là một sự tự chủ ư? Lời khẳng định ấy vững chắc đến nỗi khó mà nghĩ rằng nó đến từ một Amalgam vô cảm.
■
Sau hai giờ đồng hồ lái xe từ thành phố Delverro, họ đã đến được một tòa kiến trúc nằm trên sườn núi, ẩn mình trong những hàng cây. Nhờ lớp ngụy trang quân sự tân tiến và dãy tường phòng thủ, nơi này chưa một lần bị tấn công bởi các thế lực thù địch: Pháo đài Ray, thành trì của tri thức đồng thời cũng là cơ sở R&D hàng đầu của quân đội. Nơi đây được cho là cơ sở nghiên cứu lớn nhất trên cả đất nước Adastrah, nơi phép thuật và khoa học được cùng nhau phát triển.
Theo dừng xe lại trước cổng theo chỉ dẫn của Eleven. Những người lính cầm súng bước đến khám xét họ và trao thẻ nhận dạng. Sau khi Eleven hoàn tất các thủ tục, những người lính đứng nghiêm chào cô mà mở cổng. Cánh cửa kim loại nặng nề mở ra, Theo cẩn thận lái chiếc xe về phía trước. Bầu không khí tại đây vô cùng căng thẳng.
“…Đúng là một phòng thí nghiệm quân sự,” anh nhận xét. “An ninh nghiêm ngặt thật.”
“Sắp tới sẽ có ba đợt khám xét nữa,” Eleven nói. “Anh có tự tin vào tiền đình của mình không?”
“Bài khám xét kiểm tra tiền đình của tôi ư? Rốt cuộc họ muốn tìm cái gì vậy?”
Theo dừng xe tại vị trí được chỉ định và sớm hiểu được ý nghĩa đằng sau lời của Eleven.
Trong khi họ vẫn còn đang ở trên xe, một mái vòm đóng lại xung quanh họ. Ngay sau đó, lực đẩy mạnh mẽ khiến cả người anh bị ép chặt vào ghế lái trong khi di chuyển về phía trước cùng chiếc xe. Sau khi chuyển động đã dừng lại và họ xuống khỏi xe, họ được yêu cầu ngồi lên những chiếc ghế nằm ở khu vực sảnh, phía trước thang máy. Cả anh và ghế ngồi được bao bọc bởi một khối cầu, và sau đó anh được trải nghiệm cảm giác của một tấm vải trong lồng máy giặt. Sau khi gắng gượng vào được trong thang máy, anh lại phải đối mặt với lực G mạnh mẽ trong khi đi xuống những tầng thấp hơn.
Theo sắp sửa nôn thốc nôn tháo đến nơi rồi, vậy những Eleven vẫn không nói lấy một lời phàn nàn sau khi trải qua những việc đó.
“…Những bài kiểm tra này có cần thiết không?” anh hỏi. “Thôi nào. Chúng có thực sự cần thiết không? Họ không phải chỉ muốn hành hạ chúng ta thôi à?”
“Để đảm bảo an ninh, chúng tôi khám xét những người ra vào từ mọi góc độ,” Eleven giải thích. “Vui lòng hiểu cho.”
Cảm giác đầu mình không còn tỉnh táo sau khi liên tục phải trải qua sự thay đổi trong áp suất, Theo bước ra khỏi thang máy. Tầng mà họ đặt chân đến là một nơi đơn điệu chỉ có một chiếc bàn tiếp tân và khu vực chờ. Tin tức được hiển thị trên chiếc màn hình nằm trên tường, âm thanh xì xầm của chiếc tivi thế chỗ cho những bản nhạc du dương thư giãn.
Theo thấy Eleven bước về phía trước nên liền đi theo sau. Người đứng ở bàn tiếp tân nhanh chóng chào đón họ với một nụ cười.
“Đăng ký ủy quyền và khách mời,” Eleven nói.
“Được. Cả hai cần được quét. Vui lòng tiếp tục đi về phía trước.”
Làm theo chỉ đạo và được dẫn đường bởi Eleven, Theo bước lên trên một cái bục hình tròn. Một luồng gió nhẹ nhàng cuốn quanh họ, và rồi họ được đặt trong một cái lồng kính. Cơ thể anh phát ra ánh sáng xanh lục. Anh cảm nhận được một thứ cảm giác lạ kỳ như đang được vuốt ve bởi một thứ gì đó ấm áp; rồi sau đó anh cảm thấy buồn nôn và ấn một tay lên ngực. Da thịt, nội tạng, mạch máu, thần kinh—ánh sáng đó nắn bóp tất thảy mọi thứ cho đến khi chạm đến đỉnh đầu, và cuối cùng anh được tự do.
Thông tin sau khi quét được lưu vào trong một bản thu âm và một dòng tên, sau đó Theo được trao một vé khách mời cho phép đi vào trong cơ sở.
“Xin lưu ý rằng vé khách mời này chỉ có hiệu lực trong ngày hôm nay. Vui lòng đi tiếp. Và một lần nữa, chào mừng đến với Pháo đài Ray.” Người tiếp tân mỉm cười với họ và dùng một tay để dẫn đường.
Sau khi bước qua cánh cửa tự động, khu vực sảnh sau lưng họ được thay thế bởi một bức tường đơn điệu phát ra ánh sáng xanh lam. Căn phòng hình trụ này có cửa vào tròn, bên trong không có cửa sổ; thay vào đó, căn phòng được chiếu tỏ bởi những tia sáng mảnh khảnh phát ra từ phía trên đầu họ.
“…Cái gì đây?” Theo nhìn quanh và hỏi.
“Bài khám xét quang học để kiểm soát chức năng của vũ khí ma pháp. Đây là lần kiểm tra an ninh cuối cùng. Vui lòng hợp tác.” Là một vũ khí ma pháp, dù ánh sáng này sẽ gây ảnh hưởng lên cô nhưng Eleven vẫn giữ bình tĩnh, vậy nên Theo cũng đứng đó kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi ánh sáng dừng lại. Cuối cùng, có lẽ bài kiểm tra đã xong; ánh sáng lắng xuống và cánh cửa mở ra.
Khi Theo bước qua đó theo sau Eleven, anh choáng ngợp và không nói lên lời trước khung cảnh đang đón chờ trước mắt.
Một cái giếng trời hình tròn khổng lồ. Nó kéo dài cả lên trên và xuống dưới, tường chừng như không có điểm kết thúc. Tại khu vực ở trung tâm, những con sứa xanh lam lơ lửng xung quanh. Những con sứa ấy tự do trôi nổi với những người ngồi trên chiếc thuyền nhỏ đặt trên lưng nó.
“Eleven, chúng… là gì?” Theo kinh ngạc hỏi. “Chúng không phải sứa thật đâu đúng không?”
“Chúng là những phương tiện chuyên dụng trong việc di chuyển theo chiều thẳng đứng,” cô giải thích. “Tôi được biết rằng người thiết kế có sở thích đặc biệt đối với loài sứa.”
Sau khi được cô thúc giục, Theo bước lên một con thuyền. Con sứa phát ra ánh sáng mờ nhạt phản ứng lại với trong lượng của cơ thể anh. Khi Eleven nhập vào số phòng thí nghiệm, con sửa mở phần nón của nó ra và bắt đầu bay lên trên.
Nếu Theo phán đoán chính xác qua quá trình di chuyển đầy rung lắc, xô đẩy và quay mòng mòng mà mình vừa trải qua, họ hẳn đang ở rất sâu dưới lòng đất. Nhưng trong khi đi qua từng tầng một, anh có thể thấy ánh sáng của mặt trời, bóng đen của màn đêm, hoa hướng dương trái mùa đung đưa trong gió, một cơn bão với tuyết và cánh hoa; tất cả đều chỉ cách nhau một dãy hành lang. Một khung cảnh vừa hỗn loạn vừa tuyệt đẹp.
“…Nơi này khá kỳ lạ nhỉ?” anh nói. “Mỗi tầng đều có thời tiết, khí hậu và múi giờ khác nhau.”
“Nơi đây được thiết kế để cho phép nghiên cứu trong một trường lý tưởng,” Eleven trả lời. “Trong trường hợp thời tiết và khí hậu trùng với bên ngoài, các nghiên cứu được thực hiện tại khu dân cư. Ngoài ra cũng có cơ sở giáo dục và không gian thương mại. Pháo đài này được thiết kế để đáp ứng tất cả mọi nhu cầu.”
Ánh sáng của con sứa mờ nhạt đi khi họ đến được tầng đích. Thôi thúc bởi sự tò mò, Theo đặt một tay lên xúc tu của nó và cảm nhận được sự mềm thạch trong tay mình, giống như những gì mà anh nghĩ. Anh cảm thấy rất ấn tượng. (Không ngờ rằng đây là một vật nhân tạo…)
Eleven dẫn Theo qua dãy hành lang trắng đơn điệu. Tại tấm bảng khắc trên cửa là dòng chữ Phòng thí nghiệm Amalgam Cận chiến. Khi Eleven đặt lòng bàn tay lên màn hình ủy quyền và Theo trình xuất vé khách mời, cánh cửa trắng tự động mở ra.
Tại phía bên kia là một nhà kính tràn ngập sức sống, trái ngược với sự đơn điệu của dãy hành lang. Những khung cửa sổ trắng được trang trí lộng lẫy, ở bên kia những phiến kính là những chú chim hót ca dưới ánh mặt trời.
Tại trung tâm là một ông lão nhỏ bé ngồi xe lăn đang nhìn vào những tờ tài liệu qua đôi mắt kính. Khi thấy Theo và Eleven bước vào, ông ấy cất kính đi, ngả người vào ghế và quay sang đối diện với họ.
“Chào mừng, Điều tra viên Starling. Tôi là Tokinos, người điều hành cơ sở này. Xin lỗi vì đã mất nhiều thời gian để đi đến kết luận. Tôi rất cảm kích khi cậu quyết định chia sẻ thông tin với tôi.”
“Cảm ơn vì sự hợp tác, Tiến sĩ,” Theo nói. “Về vụ án này…”
“Không nhầm lẫn gì đâu, các cậu đang đối mặt với Amalgam. Tới đây. Tôi sẽ nói cho cậu biết một vài bí mật.” Tokinos quay xe lăn và di chuyển về phía một hành lang dẫn sâu hơn vào trong nhà kính. Theo và Eleven đi theo sau ông ấy.
Ở bên kia cánh cửa tự động là một thế giới hoàn toàn khác, một văn phòng. Các bàn làm việc đều trống không không một bóng người. Tokinos thở dài và dừng lại ở chiếc bàn nằm ở xa nhất. Theo sự thúc giục của Eleven, Theo ngồi xuống đối diện với chiếc bàn, và rồi Tokinos bắt đầu mở lời.
“Tôi đã giấu kín mọi vấn đề liên quan đến sự việc này khỏi tất cả những người khác ở cơ sở. Tôi nói vậy để cho cậu biết rằng tôi quyết tâm truy vết đến tận cùng của vụ rò rỉ thông tin này. Đồng thời tôi cũng hợp tác theo bất kỳ hình thức nào cậu cần để chứng minh mình trong sạch.”
Theo gật đầu. “Cảm ơn rất nhiều. Đi thẳng vào vấn đề, ý kiến chuyên sâu của ông về những Amalgam chúng tôi đang phải đối mặt là gì?”
“Thô sơ. Nhưng chính bởi lý do đó mà chúng có thể được sản xuất hàng loạt. Có thể chắc chắn được một điều: Cậu đang gặp phải một vụ án khá khó khăn đấy,” Tokinos nói và nhấn vào một thiết bị ở gần đó. Một số bức ảnh của Amalgam ở nhiều giai đoạn khác nhau hiển thị lên màn hình trên tường.
“Trước tiên, về điều kiện tiên quyết: Bất kể phục vụ cho chức năng gì, một Amalgam phải có lõi để hoạt động. Đó là nguồn sức chủ chốt của nó. Nếu lõi bị phá hủy, Amalgam sẽ không thể hoạt động trở lại.”
“Vậy lý do Amalgam kí sinh chết theo vật chủ là bởi nó mất đi nguồn sức mạnh?” Theo hỏi. “Bởi nó được tạo ra qua hỗn hợp từ máu và vật liệu bên trong vỏ thuốc con nhộng?”
“Đúng vậy. Đó cũng là một đặc tính được thiết lập để ngăn chặn Amalgam rơi vào tay lực lượng thù địch,” Tokinos giải thích ngắn gọn, sắc mặt ông trở nên cứng đanh. “Ngay cả vậy, ai đó đang sản xuất Amalgam bằng cách sử dụng cơ thể của con người làm kén. Đã lâu rồi tôi mới thấy lại loại này.”
Những tấm ảnh trên màn hình đều đã cũ với độ phân giải thấp. Các mẫu vật trên đó giống như ấu trùng bò ra khỏi kén mà không phát triển thành bướm.
“Đây là một mẫu Amalgam được phát triển từ rất sớm. Dù cần ít năng lượng để vận hành nhưng nó cần phải ăn. Vết thương trên người những nạn nhân của vụ án này rất giống với những cái kén sau khi chúng lột xác.”
Trang chiếu thứ hai hiển thị hai tấm ảnh—một Amalgam phát triển từ một khối cầu thành kén và khi thoát ra khỏi kén.
“Mục đích sử dụng tạo tác ban đầu là để kích thích sự phát triển cho Amalgam,” Tokinos nói tiếp. “Do nguồn năng lượng phát ra của tạo tác nội tạng tương đối lớn, phía đối phương hẳn đã sử dụng chúng để làm nguồn năng lượng đẩy nhanh sự phát triển của Amalgam.”
“Hiểu rồi…” Theo nhìn vào những tấm ảnh. “Chúng tôi mới chỉ giả thuyết rằng chúng tiêu thụ năng lượng của tạo tác. Không ngờ rằng trước đây nó từng được sử dụng để kích thích phát triển cho Amalgam. Người dân và kỹ sư tạo tác có biết về điều đó không?”
“Khá chắc là không.” Tokinos lắc đầu. “Đó là một kết quả phụ phẩm của quá trình nghiên cứu Amalgam. Nếu nguồn gốc của nguồn năng lượng này được công khai, có nguy cơ người ngoài sẽ khám phá ra phương pháp chế tạo Amalgam. Quân đội đã giữ bí mật về nó trong một khoảng thời gian dài.”
Tokinos khẽ hắng giọng với vẻ mệt mỏi.
“Rắc rối ở đây là việc bất kì ai cũng có thể sản xuất loại Amalgam này miễn sao có đủ vật liệu. Một điểm nữa là chúng không tuân theo chỉ thị trừ khi chúng có một mối liên kết mạnh mẽ với người chế tạo, giống như cha mẹ và con cái. Chúng khá khó để đối phó.”
“Chúng là vũ khí nhưng lại được sinh ra từ trong kén và sở hữu quan hệ mẹ con ư?” Theo tò mò hỏi.
Tokinos bật cười. “Không giống như cha mẹ của sinh vật sống đâu. Một mẫu vật ổn định sẽ được sử dụng làm mẫu cha mẹ để tạo ra các Amalgam khác, nhằm tăng lượng sản xuất. Mẫu cha mẹ tách lõi của mình ra và nuôi dưỡng những mảnh đó, từ đó sản sinh ra các Amalgam khác. Trong trường hợp này, ưu tiên kiểm soát của mẫu cha mẹ đứng trên sĩ quan chỉ huy.”
“Nếu vậy…,” Theo nói. “Chúng tôi cần tìm mẫu vật cha mẹ và người đang đưa ra chỉ thị.”
“Chính xác.” Tokinos gật đầu. “Hound được lắp thiết bị cảm biến có thể bắt được tín hiệu từ lõi Amalgam. Nhưng bởi Amalgam trong vụ này đã tách lõi ra và chia sẻ chúng cho mẫu con cái, tín hiệu đó sẽ vô cùng yếu. Eleven cũng sẽ gặp khó khăn trong việc truy tìm trừ khi vị trí của mẫu đó được thu hẹp lại một khu vực nhất định.”
“Tệ đến vậy sao?” Theo nhăn mặt. “Vậy mẫu cha mẹ này có thể có năng lực gì?”
“Cơ bản chỉ có năng lực tách lõi của bản thân. Cậu có thể yên tâm rằng tầm chức năng của nó tương đối thấp.”
“Vậy khả năng mô phỏng con người và ẩn mình trong số các cư dân…”
“Tôi có thể khẳng định rằng điều đó sẽ không xảy ra.” Tokinos lắc đầu. “Hound là mẫu duy nhất có thể liên tục vận hành trong hình dạng con người. Ngay cả các Amalgam thông thường cũng không thể làm vậy. Vấn đề là nó đang ở đâu và ai đang nắm quyền chỉ huy.”
Tokinos nhăn mày và lấy ra một xấp giấy tờ.
“Cái lõi cậu thu hồi được từ những tên cướp ngân hàng quả thực được làm từ fortunite. Tôi tin rằng quân đội, ban quản lý cấp cao và tất cả những người trong phòng thí nghiệm đều là đối tượng tình nghi. Đây là toàn bộ dữ liệu của tất cả nghiên cứu viên, kỹ sư và nhân viên điều hành hiện làm việc tại cơ sở này. Hy vọng rằng cậu sẽ sử dụng nó thật tốt.”
“Cảm ơn,” Theo nói. “Tôi sẽ kiểm tra nội dung bên trong đó.” Theo lật qua từng trang chân dung nhưng không thấy bất kỳ ai với mái tóc xoăn màu hạt dẻ và mắt xanh. Một dòng suy nghĩ chợt hiện ra trong đầu làm anh ngẩng mặt lên. “Tiến sĩ Tokinos, trong tài liệu này có bao gồm những người đã nghỉ việc hay đã qua đời không?”
“Không. Khi ai đó nghỉ việc hoặc qua đời, dữ liệu cá nhân của họ bị xóa… Khoan. Hình như tôi vẫn còn giữ ảnh.” Tokinos đeo kính lên và lấy ra một cuốn sách dày. Một cuốn album ảnh. Ông ấy lật qua vài trang rồi dừng lại và giơ cuốn album ra trước mặt Theo. Đó là một tấm ảnh nhóm chụp một vài kĩ sư.
“Daniel Penley.” Tokinos chỉ vào một kỹ sư. “Cậu ấy qua đời trong một tai nạn ở dây chuyền sản xuất. Trường hợp tử vong do tai nạn duy nhất của chúng tôi. Cậu ấy vẫn còn trẻ trung với tương lai triển vọng nên tôi vẫn còn nhớ.”
“…Ai là người xác định danh tính cho thi thể?” Theo hỏi.
“Một người đồng nghiệp làm việc tại cùng đường dây đó.” Tokinos chỉ tay vào người đàn ông đeo kính với mái tóc xoăn màu hạt dẻo. “Khuôn mặt đã bị bỏng không thể nhận diện được nữa, nhưng thi thể được xác định là Daniel dựa vào đôi bông tai và cặp kính cậu ấy thường xuyên đeo, do vậy nên một báo cáo tử vong được gửi lên ban trên.”
“Liệu thi thể đó có khả năng bị làm giả bởi một Amalgam không?” Theo nhìn thẳng vào ông tiến sĩ.
Tokinos nhăn mặt như nuốt phải một viên thuốc đắng. “Khó có thể nói là không thể xảy ra. Nhất là dựa trên tình hình hiện tại.” Ông ấy mệt mỏi ngả người lên lưng ghế xe lăn.
■
Tobias xuống khỏi xe với một cảm giác déjà vu. Có vẻ dạo gần đây may mắn không mỉm cười với anh.
Địa chỉ anh nhận được từ quản lý của cửa hàng tạo tác dẫn anh đến với một ngôi nhà kèm với khoảng vườn nằm tại một khu dân cư bình lặng. Khung cửa sổ và mái nhà mang một nét thu hút đặc biệt, cho phép anh thoáng thấy được gu thẩm mỹ của chủ nhà. Tuy nhiên, khu vườn tràn ngập cỏ dại, hàng rào bị bỏ ngỏ, những đóa hoa trong giậu đều khô héo, phong bì trào ra khỏi hòm thư. Có thể dễ thấy rằng người chủ đã không về nhà trong một khoảng thời gian dài.
Theo như người quản lý, kỹ sư đã chế tạo tạo tác của Bob Derry là một người đàn ông tên Penley. Người quản lý đã mua hàng từ người này trong khoảng hai năm, nhưng kể từ năm ngoái, một người phụ nữ đội mũ kéo kín và mặc váy dài bắt đầu vận chuyển hàng hóa tới. Anh ấy nói rằng lần giao dịch cuối cùng là vào hai tuần trước.
“Dù bị bỏ hoang nhưng đây vẫn là một căn nhà bình thường nhỉ?” Emma nhìn chằm chằm vào ngôi nhà và nói. “Trông không có vẻ giống như một xưởng tạo tác.”
“…Nếu ở đây chúng ta cũng không thu thập được gì thì chắc tôi khóc mất,” Tobias trả lời và đi về phía cửa trước cùng với Emma. Họ nhấn vào nút trên hệ thống intercom, nhưng không có ai ra trả lời và cũng không hề có âm thanh nào phát ra từ bên trong. Anh chầm chậm rút súng ra.
“Anh Penley? Chúng tôi đến từ Cục Điều tra Tội phạm. Anh có ở trong đó không?” Emma gọi lớn, nhưng vẫn không có hồi đáp.
Tobias định đạp cửa xông vào, nhưng vẫn nắm lấy tay nắm cửa trước. Cảm giác của anh về nguy hiểm rình rập càng trở nên nghiêm trọng hơn khi phát hiện ra rằng cửa không khóa. Anh thả tay ra và cẩn trọng quan sát Emma nắm lấy tay nắm và mở cửa. Anh bước vào trong nhà, sẵn sàng khai hỏa bất cứ lúc nào.
Bên trong không có người. Nền nhà và nội thất đều bám bụi. Dường như nơi đây đã bị bỏ hoang trong một khoảng thời gian dài. Không có dấu hiệu của các hoạt động phi pháp. Mọi thứ trong phòng đều mang lại cảm giác rất đỗi bình thường, bao gồm cả những tấm ảnh lứa đôi treo trên tường. Cặp đôi này đã ở bên nhau từ nhỏ đến tận khi tốt nghiệp đại học, kết hôn với nhau, chuyển đến chung sống tại căn nhà này, và hiện giờ họ đang ở một nơi nào đó khác.
Từ những gì anh có thể thấy từ xấp hóa đơn, các khoản thanh toán cho mọi dịch vụ đều đã quá hạn. Chủ nhà cũng không hề đột ngột chuyển đi. Bên trong bồn rửa không có bát đĩa hay thức ăn thừa, và dù phủ đầy bụi bặm nhưng trong nhà vẫn còn khá gọn gàng. Bên trong hòm thư không hề có thư từ, những bức ảnh chụp cũng chỉ bao gồm cặp vợ chồng này; anh không thấy sự xuất hiện của bất kì người bạn nào. Qua việc những hóa đơn đều được gửi đến Joe Penley hoặc Nina Penley, có thể thấy rằng họ là những người duy nhất sống trong ngôi nhà này.
Trong khi Tobias đang kiểm tra phòng khách và nhà bếp, Emma cất tiếng gọi anh từ bên ngoài hành lang.
“Tôi đã kiểm tra phòng ngủ và nhà vệ sinh nhưng không có gì cả.” Cô cất khẩu súng của mình vào bao súng giắt bên hông. “Có lẽ họ đã dọn dẹp mọi thứ trước khi rời đi? Nhưng trong tủ có những thiết bị y tế dùng tại gia. Dường như người chồng hoặc người vợ đã mắc bệnh.”
“Hiểu rồi… Còn căn phòng đó thì sao?”
“Đó là phòng duy nhất bị khóa. Anh có thể mở nó ra được không?”
“Để tôi thử. Nếu không phải loại khóa chuyên dụng thì tôi có thể dễ dàng mở được nó ra.” Tobias xắn tay áo lên và đi về phía căn phòng ở cuối hành lang. Anh mở nắp trên tạo tác của mình và lấy ra một dụng cụ phá khóa. Chỉ trong vài giây, chiếc ổ khóa đơn giản đã bị anh cạy.
Họ cảnh giác mở cửa ra và thấy một căn phòng làm việc đầy bụi bặm với mùi mốc meo của sách cũ. Nhưng một bức tường bên trong bị phủ kín bởi những mẩu giấy dán được viết lên nhiều đến nỗi gần như đen kịt.
“Cái gì đây…?” Tobias há hốc miệng kinh ngạc.
Những mẩu ghi chú đều đã bị nắng làm cho phai nhòa đến mức anh không thể nào biết chúng đã được viết lên từ khi nào. Tất cả đều được viết tay bằng nét chữ nguệch ngoạc, và—như thể đang phản ánh trạng thái tinh thần của người viết—ngữ pháp đều lộn xộn với nội dung vô nghĩa. Tobias vẫn có thể đọc được một số từ, nhưng anh không thể nào hiểu được đây là thư tình, bài luận hay thậm chí là lời trách móc.
Những ngay cả anh cũng có thể thấy được sự cố chấp ẩn chứa trong những ghi chú này.
Tất cả những mẩu giấy đều không ăn khớp với nhau. Một số là ghi chép cá nhân, một số khác lại là bản vẽ tạo tác. Những từ khóa nổi bật là bất tử và tái sinh. Tất cả chỗ này dường như là một kế hoạch để thay thế toàn bộ cơ thể bằng tạo tác. Những dòng ghi chú được viết chồng lên nhau, khiến chữ vô cùng dày đặc và khó đọc. Tuy nhiên, có một khu vực bị bỏ trống tưởng như hoàn toàn trắng tinh.
Tại trung tâm của bức tường chữ là tấm chân dung của một cô gái. Đó chắc chắn là người phụ nữ mà Tobias đã thấy trong toàn bộ các bức hình: cô Penley. Tại một góc của bức họa là cái tên Nina được viết nắn nót, phía dưới đó dường như là chữ ký của họa sĩ. Nền của bức tranh được hiện lên một cách không rõ ràng, một sự pha trộn của những gam màu dịu, nhưng trong đó có một tia nắng chói lòa chiếu xuống người vợ xinh đẹp trong khi cô nhìn về phía người họa sĩ với một nụ cười. Anh ta đã nghĩ gì? Anh ta đã viết những gì khi nhìn vào bức chân dung này?
Những từ ngữ xung quanh bức chân dung đều mang nhiệt huyết: mong ước được ở bên cô ấy đến vĩnh hằng, sự nuối tiếc khi điều đó không thể xảy ra do căn bệnh của cô ấy, nỗi căm hận đối với thế giới, quyết tâm để được sống cùng cô ấy trọn đời bất kể có phải hy sinh cái gì đi chăng nữa. Khắc ghi lên bức tường này là toàn bộ tình yêu mà anh ta dành cho người vợ Nina của mình.
Emma nghiêng đầu sang một bên trong khi quan sát bức tranh cùng Tobias. “Quản lý cửa hàng nói rằng trước đây người giao tạo tác đến là đàn ông, nhưng bắt đầu từ năm ngoái thì người giao là phụ nữ. Dù vậy, qua những ghi chú trên đây, người phụ nữ đó là cô gái mắc bệnh nan y trong bức tranh, Nina. Các Amalgam đang thu thập bộ phận cho một người đàn ông tóc màu hạt dẻ và mắt xanh lam; Nina có tóc vàng và mắt xanh lục. Không ăn khớp chút nào.”
“…Nét chữ đều giống nhau,” Tobias nhận xét. “Toàn bộ chỗ này đều do một người viết. Nét chữ trên tiêu đề tranh và chữ ký cũng trùng khớp. Joe hoặc Nina, cùng với kiến thức về tạo tác… Nếu tìm được sổ kỷ yếu của họ, chúng ta có thể tìm ra ngôi trường mà họ theo học. Chúng ta hãy thử đi tìm xem.”
Họ tách nhau ra và lục soát căn nhà, nhưng họ vẫn không thể tìm được bất cứ thứ gì cho họ manh mối về quá khứ của vợ chồng nhà Penley. Tuy nhiên, Tobias nhận thấy rằng có một số bức thư được gửi tới Joe từ một người tên Tom MacKenzie, dường như là cha xứ tại lễ cưới của cặp vợ chồng này. Ông ấy viết một lá thư chúc mừng lễ thành hôn, đồng thời cũng nói rằng nếu có chuyện gì thì cứ nhờ vả ông ấy. Bức thư cuối cùng do người này gửi là từ một năm trước.
Tobias đang thắc mắc MacKenzie là ai thì nhận thấy Emma đã quay lại. Anh quay sang đối diện với cô ấy.
“Dường như họ có một xưởng sản xuất tên là Công nghiệp Gỗ Penley,” cô nói. “Chủ sở hữu là Joanna Penley. Nếu nơi đó vẫn còn hoạt động, có thể chúng ta sẽ tìm được người để hợp tác điều tra.”
“Vậy thì đi thôi. Có lẽ chúng ta nên hẹn gặp Theo và Eleven ở đó.” Anh ghi địa chỉ của xưởng đó vào trong sổ tay rồi rời khỏi căn nhà của gia đình Penley. Anh cảm thấy hơi rùng mình trước sự xung đột giữa ngôi nhà của một cặp vợ chồng hạnh phúc và sự ám ảnh lấp kín căn phòng làm việc bị khóa.
“…Biệt danh của Joanna là Joe,” Tobias nói. “Cô có nghĩ rằng Joanna và Nina là hai người sống cùng nhau không?”
“Trong những bức ảnh chỉ có một người đàn ông và một người phụ nữ,” Emma trả lời. “Từ ngoại hình của căn nhà và nội thất, tôi không nghĩ trong nhà còn một gia đình nào khác. Nếu người vợ đang bán tạo tác bất hợp pháp để kiếm sống, cô ấy có thể lấy ‘Joe’ làm tên giả.”
Họ bước lên trên cỗ xe hơi và lái đi.
■
Khi nhận được cú điện thoại từ Emma, Theo nói chuyện ngắn gọn với cô ấy rồi nhanh chóng quay sang phía Tokinos. “Tiến sĩ, Daniel Penley đã kết hôn chưa?”
“Rồi.” Tokinos gật đầu. “Nhưng cô ấy qua đời không lâu trước cậu ấy. Cô ấy bệnh nặng đến nỗi không thể chuyển giao tới Pháo đài Ray. Theo như tôi nhớ, cô ấy được đưa tới một bệnh viện địa phương.”
“Ông có nhớ anh ấy như thế nào vào thời điểm vợ mình qua đời không?” Theo hỏi.
Đôi chân mày của Tokinos nhăn lại. “Cậu ấy buồn khổ lắm. Giống như cậu ấy đang cố vùi mình vào công việc để quên đi tất cả vậy. Khi nghe tin rằng bệnh tình cô ấy trở nặng, cậu ấy đã vội vã đến bệnh viện. Nhưng khi đến nơi thì cô ấy đã được chuyển vào phòng vô trùng, vậy nên cậu ấy chỉ có thể chăm sóc vợ mình qua ô kính. Không khó để tưởng tượng cậu ấy đã phải trải qua cảm giác mất mát lớn đến nhường nào.”
“Vậy họ có gần gũi với nhau như một cặp đôi không?”
“Gần gũi lắm… Giá mà chúng tôi có thể điều trị cho cô ấy tại Pháo đài Ray.”
“…Thông tin vừa rồi rất hữu ích,” Theo nói. “Cảm ơn rất nhiều.”
“Không có gì,” Tokinos trả lời. “Nếu cần gì nữa thì hãy gọi điện cho tôi.”
Theo bắt tay với vị tiến sĩ và định rời khỏi phòng thí nghiệm thì anh chợt nhận thấy Tokinos đang cố nhìn sâu vào trong mắt mình. Theo đứng khựng lại. Tokinos đặt bàn tay gầy gò của mình lại vào lòng, quay cái xe lăn của mình đi và gọi Eleven.
Cô lặng lẽ đi đến, ông ấy nắm lấy bàn tay cô.
“Ta biết con không bao giờ sai lầm trong thứ mình cần bảo vệ,” ông ấy dịu dàng nói với cô như đang nói với một đứa con nhỏ. “Nhưng hãy cho gã khờ này được cầu cho sự an toàn của con. Con là mẫu Hound tiên tiến nhất, là niềm vui và niềm kiêu hãnh của chúng ta.”
“…Cảm ơn rất nhiều, tiến sĩ,” Eleven trả lời. “Tôi sẽ ghi nhớ điều đó.”
Lời chia tay của họ rất ngắn. Tokinos tạm biệt Theo và Eleven bằng lời “Chúc sức khỏe tốt” và đóng cánh cửa lại.
Rời khỏi Pháo đài Ray, Theo hỏi Eleven trong khi đi lên xe, “Có chuyện gì xảy ra với Tiến sĩ Tokinos à? Ông ấy có vẻ lo âu.”
“…Tôi từng được đưa về phòng thí nghiệm sau khi mất đi toàn bộ cơ thể, vậy nên ông ấy cảm thấy ‘lo lắng’,” Eleven trả lời.
“Toàn bộ cơ thể?” Theo nhìn chằm chằm vào cô. “Ngay cả khi cô là một Hound?”
“Vâng. Một lần, trên chiến trường. Lõi của tôi còn nguyên vẹn nên việc hồi phục diễn ra trong khoảng thời gian dự tính, nhưng tiến sĩ…” Cô dừng lại. “Có lẽ biểu cảm chính xác là ‘Điều đó làm ông ấy đau đớn’.”
“Khá chắc là sẽ như vậy thôi. Đối với một người cha thì họ không thể nào có thể chịu được khi điều đó xảy ra với con mình.” Theo tặc lưỡi. Kỳ lạ thay, anh có thể thấu hiểu được, đặc biệt khi Eleven mang hình hài một cô gái nhỏ nhắn. Tokinos đã từng chứng kiến một người giống như một đứa con gái của mình trở về với những vết thương nghiêm trọng; việc ông ấy tỏ ra lo lắng cũng hợp lý thôi.
“Tiến sĩ là dạng người ưu tiên ký ức về những thất bại thay vì thành công,” Eleven nói.
“…Chà, có lẽ đó là điểm chung giữa tôi và ông ấy. Tôi thường quên những nhiệm vụ mà mình thành công.” Theo chỉ nhớ về niềm vui khi hoàn thành nhiệm vụ và sự mệt mỏi trên đường về nhà. Anh quên đi những món đồ uống mình đã thưởng thức cùng đồng đội nhưng vẫn nhớ rằng họ đã cùng nhau tươi cười. Họ có lẽ đã bỏ mạng tại một nơi nào đó rồi. Anh cảm thấy đau nhói trong lồng ngực và hắng giọng. “Dù gì đi nữa, thứ duy nhất mà tôi còn nhớ rõ là chiến dịch Alkabel.”
“Nếu anh đang nói về cuộc chiến quy mô lớn ở thành phố Alkabel, không phải nhiệm vụ đó được đánh giá là thành công sao?” Eleven hỏi.
“Nếu nhận xét một cách tổng quan thì đúng. Nhưng quá nhiều người đã phải hy sinh.”
“…Trách nhiệm không thuộc về anh đúng không, Theo?” Eleven bình thản nói. “Tôi nghe nói rằng những đơn vị tiếp viện đã bị trì hoãn.”
“Không.” Anh mỉm cười cay đắng. “Nhiệm vụ nghi binh của chúng tôi đã thành công, và chúng tôi đã hạ thấp cảnh giác. Dù rằng trong tình huống ấy, lường trước một cuộc tấn công là điều hiển nhiên. Toàn bộ chuyện đó thật tồi tệ. Đứa trẻ giải cứu tôi đã bị nổ tung trong khi cố bảo vệ tôi.”
Họ đi đến một đoạn cua trên đoạn đường núi, anh cẩn thận giảm tốc độ lại, nắm chặt vô lăng với nét mặt chua chát.
“Ngay cả nếu anh ‘hối hận’ vì đồng đội mình đã hy sinh,” Eleven nói, “không phải người lính giải cứu anh sẽ ‘tự hào’ vì đã cứu sống được anh sao?”
Không ngờ rằng cô sẽ nói vậy với mình, Theo hướng ánh mắt của mình sang ghế hành khách. Eleven quay mặt về phía kính chắn gió, khiến anh không thể nào nhìn được sắc mặt của cô.
“Nếu đó là cô thì liệu cô cũng sẽ nói vậy?” anh cuối cùng lên tiếng hỏi.
“Đây chỉ là một sự mô phỏng. Quan trọng là nếu anh cảm thấy hài lòng.”
Có phải việc giọng nói của cô nghe máy móc hơn bình thường là cách mà cô che giấu sự ngại ngùng của mình không? Theo cảm nhận được một cảm giác kì lạ—gần như ấn tượng nhưng đồng thời cảm thấy như mọi thứ đang lệch pha một cách lạ kỳ. Anh nhấn chân ga và tiếp tục đi về phía trước.
Địa chỉ của xưởng làm việc Tobias gửi tới nằm ở chân núi phía tây của Pháo đài Ray. Khu vực này từng là một tập hợp những nhà máy từ trước chiến tranh, giờ đang được lên kế hoạch để tái phát triển. Trên đường lái xe, họ bắt gặp một số xe tải lớn và một số công trường chất đống vật liệu hoặc các tòa nhà đang bị dỡ bỏ.
Tobias và Emma đang chờ đợi họ ở lối vào của một nhà máy cũ nằm giữa khu công nghiệp. Do số lượng nhiều những lối đi một chiều và đường hẹp, họ cần phải đi bộ để đến đó.
“Công nghiệp Gỗ Penley nằm ở đâu đó quanh đây,” Tobias nói. “Dù vậy, địa chỉ này đã quá cũ nên chúng ta không biết vị trí cụ thể.”
“Cũng không quá bất ngờ. Khu vực này đã trải qua rất nhiều cuộc thi công tái phát triển,” Theo trả lời. “Eleven, cô có thể cảm nhận được lõi Amalgam không?”
“Vui lòng đợi một chút.” Cô nhảy từ một cột nước cứu hỏa lên đèn đường và chạy lên trên một cái ống khói. Cô quay một vòng như một cái chong chóng gió, áo khoác phanh ra, rồi đáp xuống mặt đất. “Tín hiệu vẫn rất yếu, nhưng tôi đã xác định được một phương hướng. Nếu tiếp cận tòa nhà, tôi có thể sẽ định vị được.”
“Tốt.” Theo gật đầu. “Vậy tôi và cô sẽ đi trước. Tobias, Emma, hai người để mắt phía sau.”
Số lượng nhà máy ngừng hoạt động từ lâu lớn đến bất ngờ. Cả đội di chuyển ra xa khỏi khu nhà, hướng về phía ngọn núi, khu vực xung quanh càng lúc càng vắng vẻ hơn. Âm thanh của tiếng bước chân trên đá sỏi cảm giác thật ồn ào.
Cuối cùng, Eleven dừng lại trước một nhà máy cũ. Ai mà biết nó đã đứng đó được bao lâu rồi chứ? Cửa sổ đều đã vỡ nát, những tấm kim loại bị rỉ sét trước gió mua, cầu thang đổ sập trên mặt đất. Biển hiệu cũng đã rụng xuống và chôn vùi dưới đất. Đây dường như từng là một tòa nhà vững chắc, nhưng cái ống khói giờ đã phủ dây leo, cành cây trồi qua cửa sổ vào bên trong nhà máy.
“Đây là vị trí nơi phát ra tín hiệu lõi. Không hề có nhầm lẫn,” Eleven nói, còn Theo ngoái lại nhìn đằng sau. Tobias quan sát tòa nhà và nhăn mày.
“…Chắc chắn không có vẻ là có người sống trong đây.”
“Hãy thử đi xung quanh xe,” Theo gợi ý. “Eleven, cô đứng canh chừng ở đây. Nếu có gì xảy ra thì ngay lập tức gọi cho tôi.”
Họ tách ra để xem xét khu vực xung quanh nhà máy. Những tòa nhà lân cận đều không được sử dụng, phần nhiều trong số đó nằm trên những ô đất đem bán. Phía sau nhà máy là một con đường mòn, Theo có thể thấy dấu hiệu của một chiếc xe hơi đã di chuyển ra vào khỏi ga-ra. Cỗ xe đó dính đầy bùn đất, chìa khóa vẫn đang nằm trên ổ khóa khởi động. Theo thử bật máy nhưng có vẻ xe đã hết xăng. Thậm chí còn có cả bùn trên ghế lái.
“Phải làm gì thì xe mới bẩn như thế này được chứ…?” Theo thắc mắc. Anh vặn chìa khóa tắt máy và đi xa ra khỏi xe. Cửa sau của nhà máy dường như đã được sử dụng làm lối vào chính; trên một chiếc cột là tấm biển đề tên Penley. Không có camera an ninh, tất cả cửa đều bị khóa. Anh nhìn vào bên trong qua những ô cửa sổ vỡ, nhưng trong đó không có gì ngoài đồng hồ đo và những thiết bị đã dừng hoạt động và bị thời gian mài mòn. Anh không thấy bất cứ dấu hiệu nào cho thấy đã có người ở bên trong trong một khoảng thời gian dài.
Nghe được tiếng bước chân, anh quay lại và thấy Emma và Tobias đang đi về phía mình.
“Đường đã bị cây đổ và bùn lầy cản lại,” Emma nói. “Có lẽ do vụ lở đất từ cơn bão tuần trước.”
“Ở đây tôi cũng không tìm kiếm được gì,” Theo trả lời. “Không thể nào có người đang sống ở đây được, nhất là khi nhìn vào tình trạng nơi này. Chiếc xe hơi và ghế lái bị dính đầy vết bùn.”
Họ quay lại cửa trước, Eleven quan sát họ từ nơi mình đang ngoan ngoãn canh gác.
“Eleven, cô có thể xác định vị trí của cái lõi nằm ở đâu trong tòa nhà này không?” Theo hỏi.
“Từ khoảng cách này, tôi có thể phỏng đoán rằng nó đang ở dưới tầng hầm.”
“…Được rồi.” Theo gật đầu. “Emma và Eleven, hai người kiểm tra bên trong tòa nhà đi. Tobias, anh xuống tầng hầm cùng với tôi.
Emma và Eleven nhanh chóng đồng tình, nhưng Tobias thì lộ vẻ hoài nghi.
“Tầng hầm?” anh ấy hỏi. “Cậu tính đi xuống đó như thế nào?”
“Đằng kia có lối vào của khu vực bảo trì đường cống thải,” Theo trả lời. “Chúng ta có thể dùng lối đó.”
“Gớm!” Tobias nhăn mặt lại. “Cậu điên rồi à? Đường cống ở một nơi như thế này chắc chắn sẽ rất kinh khủng!”
“Thôi cằn nhằn đi,” Theo nạt lại. “Lũ Amalgam đó được cho là đã trốn thoát qua đường cống. Chúng ta nên kiểm tra xem sao.”
Mặt mày Tobias trở nên nhăn nhó hơn, anh ấy bắt đầu gửi lời cầu nguyện đến Chúa. Trong khi đó, Emma quay sang Eleven và mỉm cười.
“Được rồi, chúng ta bắt đầu từ tầng một trước nhé?” cô ấy nói với Eleven. “Có thể chúng ta sẽ vào trong qua cửa sổ được.”
“Không. Qua những khu vực mà tôi đã xác nhận được, tôi phán đoán không gian sinh sống nằm ở trên tầng hai. Chúng ta nên bắt đầu điều tra từ trên đó.”
“Trên tầng hai…? Nhưng cầu thang bên ngoài đã hỏng rồi. Nhìn kiểu gì cũng thấy chúng ta phải vào qua tầng một trước.”
“Thiệt hại của ban công nằm ở mức không đáng kể. Tôi khẳng định rằng đi vào bằng đường đó là khả thi. Đi thôi, Emma.”
Emma há hốc miệng, nhưng trước khi kịp thét lên thì Eleven đã bế cô ấy và nhảy lên. Cô đạp vào thân của một cái cây lớn và đáp xuống trên ban công của tầng hai.
Theo và Tobias đứng sững ở đó quan sát.
“…Muốn đi cùng với họ không, Tobias?”
“Thôi…” Anh ấy thở dài và bắt đầu đi cùng với Theo. “Tử vi của tôi hôm nay nói rằng không nên để chân rời khỏi mặt đất.”
■
Ngay cả sau khi đã an toàn đáp lên ban công, tim của Emma vẫn không ngừng đập mạnh. “Vừa rồi… bất ngờ thật… Eleven, cô thực sự… tuyệt vời…”
“Cửa ban công đang mở. Không có dấu hiệu của bất kỳ ai ở bên trong.” Eleven hoàn toàn không để tâm tới trạng thái tinh thần của Emma.
(Được rồi. Không sao. Cô là như vậy mà.) Emma bình tâm lại và đi vào trong cùng với Eleven.
Ban công dẫn vào trong phòng khách với một chiếc ghế sofa và một chiếc bàn thấp. Trên tủ có vài cuốn sách và những món đồ trang trí, nhưng chúng đều đã mục nát cùng với nội thất trong nhà. Căn bếp phía sau quầy cũng mọc đầy nấm mốc, đồ ăn thì đã thối rữa hết. Lớp bụi dày phủ trên sàn nhà không có một dấu chân.
“…Đã lâu rồi không có người ra vào nhỉ?” Emma nói rồi nhìn vào những bức ảnh trên tường. “Họ dường như là một gia đình hòa thuận. Không biết chuyện gì đã xảy ra nữa.”
Trên tường là tấm ảnh cũ của đôi vợ chồng Penley nằm trong những bức hình của Daniel hồi nhỏ, Daniel khi tốt nghiệp, và lễ cưới của Daniel và Nina; giữa những tấm hình của cặp cha mẹ già là bức ảnh của anh và cô Penley. Trong đó, mọi người đều mỉm cười và đứng sát bên nhau, dễ thấy rằng họ rất thân thiết với nhau.
“…Có phải có ba người sống ở đây?” Eleven hỏi.
“Không, trong bồn rửa chỉ có một bộ chén đĩa,” Emma trả lời. “Con rể và con dâu sống ở nơi khác. Dường như người sống ở đây đã đột ngột qua đời vì bệnh hoặc nguyên nhân gì đó. Tất cả mọi thứ đều được giữ nguyên trạng, không có vẻ đã trải qua dọn dẹp gì.”
Họ đi kiểm tra những căn phòng khác, nhưng đúng như những gì Eleven nói, không có dấu hiệu của bất cứ người nào khác. Đúng hơn, có vẻ lần cuối có người ở đây đã là rất lâu về trước rồi. Nhưng khi nhìn về cuối hành lang, Emma liền rút súng ra. Có dấu bùn dẫn ra và vào căn phòng ở ngay kế bên cầu thang.
Cô ấy cảnh giác mở cửa rồi lập tức ho sù sụ trước mùi tanh hôi nồng nặc ùa ra. “Mùi kinh quá…”
“Một thi thể,” Eleven điềm tĩnh nói. “Dựa vào những tấm ảnh, đây là xác của người mẹ.”
Emma lấy cổ tay áo bịt miệng lại và nhìn vào trong.
Căn phòng ngủ kiêm phòng làm việc được trang trí với nhiều họa tiết hình hoa khác nhau. Trên chiếc giường đôi là một cái xác mục rữa. Nhìn vào kiểu tóc và những chiếc nhẫn, Emma đồng ý rằng đó chính là người mẹ già trong những tấm ảnh.
“…Không thể tin là cô chịu được mùi này đấy, Eleven,” cô ấy nói.
“Tôi có thể phát hiện được những nguyên tố trong không khí, nhưng tôi không có tiêu chuẩn để đánh giá một mùi là tốt hay tệ.”
Trên kệ bàn kế bên giường là một cái bình nước trống và một gói thuốc đang được mở, khiến Emma giả thuyết rằng người mẹ mắc phải một căn bệnh mạn tính. Trong tầm với của bà ấy là một cuốn tiểu thuyết đọc dở và tấm ảnh gia đình. Đó chắc chắn là nguồn động lực tinh thần cho bà ấy chống chọi bệnh tật, nhưng rốt cuộc thì căn bệnh đã giành chiến thắng. Trên thi thể không có dấu hiệu của thương tích.
Vết bùn trên sàn kéo dài từ kệ bàn đến cầu thang thu hút sự chú ý của Emma. Cô ấy cúi xuống và chăm chú quan sát. Những sợi cỏ lẫn vào trong đó vẫn còn xanh. Ai đó đã đi lên cầu thang và đến chỗ chiếc giường trong khoảng thời gian tương đối gần đây với bùn đất dính vào giày. Nhưng vẫn không hề có dấu chân; dấu vết này giống như một vật gì đó bị kéo lê hơn.
“…Theo nói rằng chiếc xe hơi phủ kín bùn đất,” cô ấy ngẫm nghĩ. “Tuần trước đã xảy ra một vụ lở đất. Dường như có gì đó đã xảy ra.”
Emma và Eleven chia ra để điều tra hộc bàn. Dù nhỏ nhưng bên trong có một xấp thư ở trong; có lẽ viết thư là sở thích của bà ấy. Trong những lá thư trao đổi với bạn bè, chỉ có hai bức thư được gửi tới từ Daniel Penley. Bức thứ nhất là thư mời cưới. Bức thứ hai là để nói rằng anh ta chuẩn bị về nhà cũ cùng với vợ. Emma nghiêng đầu sang một bên. Vào thời điểm bức thư này được viết thì người vợ Nina đã qua đời.
“…Daniel thậm chí còn làm giả cái chết của mình và rời khỏi Pháo đài Ray,” Emma lầm bầm. “Chúng ta biết rằng sau đó anh ta đã trở về nhà. Nhưng lúc đó thì Nina đã chết. Người duy nhất sống ở đây là người mẹ Joanna. Không có dấu hiệu cho thấy cặp vợ chồng đó ở đây… Vậy là thế nào?”
“Sau khi mất Nina, Daniel sẽ là một đối tượng tình nghi nếu hung thủ đang muốn tạo nên một con người với động cơ là nỗi ám ảnh do tình yêu,” Eleven nói. “Nhưng những bộ phận mà các Amalgam đang tìm kiếm thuộc về Daniel.”
“Anh ta là một kĩ sư tài năng mới có thể được tuyển dụng ở Pháo đài Ray,” Emma tự ngẫm. “Nếu anh ta biết về Amalgam và công nghệ đằng sau khi ở phòng thí nghiệm… Có khi nào anh ta thực sự mang Nina—”
Choang! Cô ấy nghe được âm thanh của kim loại rơi xuống đất. Không phải từ dưới tầng một—nó phát ra từ đâu đó còn ở thấp hơn. Cô thoáng nhớ lại nơi mà Theo và Tobias đến điều tra.
Ngay sau đó, Eleven chạy vọt đi. Cô phi như bay ra khỏi căn phòng, chỉ để lại tàn ảnh của mái tóc màu trắng.
“Eleven! Đợi đã! Eleven!” Emma nắm chặt lấy khẩu súng và đuổi theo, nhưng rồi cô chợt để mắt tới cái bếp dầu trong phòng.
■
Với Tobias đi theo sau, Theo hướng đến tầng hầm qua lối vào của khu vực bảo trì đường cống thải. Có lẽ do đã rất lâu rồi không sử dụng nên trong cống hoàn toàn khô cạn, cỏ dại mọc lởm chởm trên lớp đất dưới đáy. Một vài phần của đường cống đã bị đổ sập, một số chỗ còn có ánh nắng chiếu vào.
“…Thật an tâm,” Tobias nói và thở dài. “Không hôi hám, không nhầy nhụa.”
“Anh vẫn còn để tâm đến mấy cái đó à?” Theo đảo mắt. “Thiệt tình.”
“Quan trọng lắm đấy,” Tobias phản bác. “Đó là yếu tố đi liền với hiệu suất điều tra.”
Theo tặc lưỡi, bật đèn pin và đi về phía trước. Mặc cho việc cây cỏ xung quanh xanh tốt, thế nhưng lại không có nấy một bóng dáng côn trùng. Và rồi anh ngửi được một mùi ô uế.
Máu. Mùi của máu và thịt thối.
Sau khi đã đi đến cuối của đường cống, anh chiếu đèn pin về phía trước và nhăn mặt khi nhìn thấy một núi thịt nằm ở đó, tơi tả đến nỗi không thể nào phân biệt được nó từng thuộc về con người hay động vật.
Trên lớp nhựa tráng, anh có thể thấy những vệt máu đặc, loãng pha trộn lẫn nhau nối giữa núi xác và rãnh nước. Thứ gì đó đã đến và đi khỏi nơi này khá nhiều lần. Và trong một khoảng thời gian dài.
Anh dùng mắt ra hiệu với Tobias và cẩn thận tiến vào tầng hầm của nhà máy qua cái khung cửa không cánh. Họ bước vào trong căn phòng điện, nơi mà tại đó có một dải đường cố định không dính chút bụi, như thể có thứ gì đó đã bị kéo lê.
Theo mở một cánh cửa và rón rén bước ra ngoài hành lang. Cuối cùng, anh đến được một góc của căn nhà máy.
Tất cả các trang bị xử lý gỗ đều đã bị chuyển đi, thay vào đó là những máy móc gia công cơ khí chính xác dành cho việc sản xuất tạo tác, một bàn phẫu thuật và các thiết bị chẩn đoán, cộng thêm vô số những linh kiện cơ khí khác. Một chiếc bàn làm việc dính đầy máu bị chôn vùi trong những mẫu tạo tác thử nghiệm.
“Với toàn bộ chỗ này thì việc mở một nhà máy tạo tác sẽ trở nên khá là dễ dàng nhỉ?” Tobias quan sát xung quanh và khẽ nói. “Cùng với việc phẫu thuật để lắp đặt chúng nữa.”
“…Ừm.” Theo gật đầu. “Và tại đây cũng sẽ không có ai làm phiền.”
Họ tiếp tục tiến sâu hơn vào trong nhà máy đầy cảnh giác. Kíttttt. Theo nghe được âm thanh ma sát của vật gì đó. Nhưng tại đây không còn ai khác. Vậy nghĩa là…
Theo và Tobias chĩa đèn pin và súng về phía nguồn âm thanh. Và rồi họ đứng sững lại.
Phía trước họ là một người phụ nữ xanh xao bệnh tật, trên đôi tay mảnh khảnh của cô ấy là một khối thịt gớm ghiếc. Nhận thấy ánh sáng chiếu vào mình, cô ấy chậm rãi quay sang. Toàn thần cô ấy dính đầy bùn đất, một nửa khuôn mặt bị mái tóc trắng như thể được phủ tro lên che khuất. Những kể cả vậy, Theo có thể nhận ra rằng đó là cùng khuôn mặt xuất hiện trên bức chân dung và những tấm ảnh, dù cho vẻ đẹp ban đầu giờ đây không còn nằm trên khuôn mặt hốc hác của cô ấy nữa. Cô ấy nhìn họ với vẻ bất ngờ và ôm chầm khối thịt bằng đôi tay chỉ có da bọc xương của mình.
Cách duy nhất để mô tả khối thịt ấy là không thể tả được. Nó lớn như một người trưởng thành, phần thịt nhô ra với những dải tóc có lẽ là cái đầu; tại đó được đính vài con mắt. Phần thân của nó không chia ra vai hay thân cụ thể. Thay vào đó, một số cánh tay mọc ra từ xác thịt mềm nhũn của nó. Những cái chân nhô ra từ khoang bụng và sau lưng, những cánh tay mọc ra từ eo và ngực, trông nó không hề giống với một con người. Tại một đoạn rìa của khối thịt là thứ gì đó trông giống như một mảnh vải, cùng với thứ có vẻ là cái miệng liên tục trôi nổi và lầm bầm gì đó. Bọc lấy khối thịt là một lớp tóc xoăn màu hạt dẻ không đều nhau.
“Cô có phải… Nina Penley?” Theo cố gắng giữ cho giọng mình nghe có vẻ bình tĩnh.
Nụ cười nở rộ trên khuôn mặt của người phụ nữ với xương gò má nhô lên. “Lâu lắm rồi chúng ta mới có khách. Nhỉ, Daniel? Ôi Danny yêu quý,” cô ấy—Nina—hạnh phúc nói với khối thịt.
Đây giống như một khung cảnh bước ra từ ác mộng. Có phải cô ấy đang nói rằng khối thịt trông giống như những bộ phận cơ thể người bị ép vào nhau như đất nặn kia là Daniel Penley? Một vài cánh tay của nó vung vẩy, rồi Nina cười tươi.
“Anh cũng hạnh phúc mà, đúng không? Các vị khách quý, mọi người có muốn dùng trà không? Mọi người muốn bao nhiêu đường?”
“…Xin lỗi, chúng tôi tới từ Cục Điều tra Tội phạm,” Theo nói. “Chúng tôi muốn hỏi cô về vụ bắt cóc của một người đàn ông mang cùng đặc điểm với Daniel Penley, bao gồm mái tóc xoăn màu hạt dẻ. Cô có thể giải thích toàn bộ chuyện này là gì không?”
Nụ cười vẫn gắn trên miệng, Nina nghiêng đầu, để lộ phần mặt bị mái tóc của mình che khuất. Theo rùng mình. Mắt trái của cô ấy và những phần xung quanh chỉ có một mảng tối đen như một chiếc bình sứ bị vỡ.
“Chuyện là, tôi cần anh ấy,” Nina nói, nụ cười vẫn không hề tắt đi. “Hôm nọ, tôi thức dậy vào một buổi sáng vô cùng tuyệt vời. Tôi đã rất là đau đơn, rồi bất chợt mọi thứ đều không còn bị sao nữa. Nhưng rồi Daniel trở nên yếu đi. Ôi Danny tội nghiệp, anh ấy đã cố gắng rất nhiều nhưng vẫn không thể đi đâu được. Rồi một ngày, anh ấy không còn cử động được nữa.”
Theo nhìn chằm chằm vào cô ấy. “Có phải anh ấy đã chết rồi không?”
“Dĩ nhiên là không rồi!” cô ấy bác bỏ. “Anh ấy chỉ chìm trong một giấc ngủ sâu thôi. Anh ấy cần một cơ thể mới, giống như tôi vậy. tôi thực sự muốn tìm một cơ thể mới cho Danny, giống như cách mà anh ấy đã làm với tôi, nhưng tôi cần phải tự mình chế tạo những tạo tác… Những đứa con đã mang về rất nhiều bộ phận trong khi kiếm ăn. Những thứ có thể thay thế cho cơ thể của Danny. Nhờ chúng mà Danny— Nhìn nè! Quay lại như ban đầu!” cô ấy vui vẻ nói và nắm lấy một bàn tay nhô ra từ khối thịt. “Danny lúc nào cũng bận bịu. Anh ấy nói rằng mình cần thêm nhiều tay nhiều mắt, vậy nên tôi đã gắn thêm cho anh ấy thật nhiều mắt xanh và những bàn tay hơi rám. Anh ấy đi đứng không được tốt cho lắm nên tôi đã gắn thêm nhiều chân để có thể nâng đỡ cho anh ấy. Thấy miệng của anh ấy lúc nào cũng trôi nổi không? Đó là bởi anh ấy gặp khó khăn trong giao tiếp. Anh ấy rất là rụt rè.”
Cô ấy ve vuốt cặp môi trôi nổi trên khối thịt bầy nhầy bằng một ngón tay giơ ra giống như đang nâng một tách trà.
“Anh ấy trông hơi khác so với trước, nhưng điều đó vẫn không làm thay đổi rằng đây vẫn là Danny mà tôi yêu quý. Anh ấy là một đứa nhóc to xác, không thích ở một mình. Hì hì! Thật dễ thương! Anh ấy nói rằng mình muốn ở bên tôi mãi mãi!”
Nụ cười hạnh phúc của cô ấy trở nên lớn hơn, và cô ấy ôm chầm lấy khối thịt. Một vài cánh tay vươn về phía cô ấy và di chuyển theo một cách khó hiểu, như thể đang muốn ôm cô ấy gần lại hay đẩy cô ấy ra.
Tobias che miệng lại trước khung cảnh rùng rợn trước mắt và lùi một bước. Theo cũng cảm thấy buồn nôn và hắng giọng.
“…Cô có con à?” anh hỏi. “Sẽ thật thô lỗ nếu chúng tôi không chào hỏi chúng một câu. Có phải hiện tại ở đây chỉ có hai người thôi?”
“Anh khá lịch lãm đấy. Cảm ơn.” Cô ấy cười tươi. “Nhưng xin lỗi—bọn trẻ đều không có nhà. Cha xứ nói rằng khi đã lớn nên khỏe mạnh rồi thì con cái nên rời khỏi vòng tay cha mẹ. Ông ấy bảo chúng tôi hãy để chúng đi.”
“Vậy từ trước đến giờ ở đây chỉ có cô và Daniel Penley thôi đúng không?” Theo hỏi lại để xác nhận, nhưng Nina bối rối nghiêng đầu sang một phía.
“Không biết nữa. Khi có được cơ thể mới này thì tôi vẫn đang ở nhà cũ. Nhưng sau đó thì Danny bị ốm, vậy nên mẹ anh ấy gọi chúng tôi về sống ở đây. Suốt khoảng một năm qua chỉ có hai vợ chồng chúng tôi với nhau thôi. Tôi rất vui vì đã đến đây. Mẹ là một người rất tốt bụng, bà ấy giúp đỡ với công việc của Danny nữa nên mọi thứ trở nên dễ thở hơn nhiều.”
“…Và giờ mẹ anh ấy đang ở đâu?”
“Đang ngủ rồi. Tôi đã hứa sẽ pha cho bà ấy một phần trà ngon nhất sau khi bà ấy thức dậy. Do đó nên tôi đến thăm bà ấy mỗi ngày, nhưng mãi bà ấy vẫn chưa ngủ dậy.”
“Cô có nghĩ rằng bà ấy có thể đã chết rồi không?” Theo hỏi.
“Sao có thể được chứ? Mẹ đang ngủ với sắc mặt rất yên bình. Bà ấy đang có một giấc mơ đẹp.” Nina cười tươi và quay lại về phía anh. Cô ấy không hề nắm bắt được chút gì về tình hình hiện tại. Cô ấy không thể hiểu được tình trạng của Daniel và người “mẹ” kia, thế nhưng cô ấy vẫn bằng cách nào đó duy trì được thế giới biến dạng của mình.
“Nina,” Theo dè chừng hỏi. “Cô có thể kể cho tôi thêm về tình trạng của Daniel không…?”
“Daniel không tự mình cử động được. Vậy nên giờ tôi đang thay thế cho trái tim của anh ấy. Nhìn nè.” Cô ấy bỏ một bàn tay ra khỏi khối thịt và đặt lên ngực của mình. Da thịt của cô ấy tách ra tại vị trí mà ngón tay cô chạm vào, để lộ ra một trái tim bốc ra hơi nước nghi ngút đang co bóp liên hồi, bơm máu truyền đi xung quanh cơ thể. Trông nó giống như một trái tim thực thụ, khiến cho khối thịt kỳ dị trên tay cô ấy thực sự đang sống. Một viên pha lê đỏ bị sứt mẻ lấp lánh trong ngực cô ấy như một giọt máu trong suốt. Viên pha lê ấy tỏa ra ánh sáng của fortunite, lõi của Amalgam.
Nina đóng lồng ngực của mình lại và ôm chầm lấy khối thịt mà cô cho là Daniel bằng cả hai tay. “A, hạnh phúc quá. Khi nào Danny khỏe lại, tôi sẽ còn hạnh phúc hơn nữa. Nhưng anh ấy đến giờ vẫn chẳng chịu nói chuyện nên tôi rất cô đơn. Danny, em muốn nghe anh nói rằng anh yêu em.”
Khối thịt kia rùng mình. Không—đó là bộ tóc dài của Nina đang đung đưa. Cô ấy nhìn Theo với đôi mắt u ám và nhận thấy đôi mắt xanh của anh. Cô bật cười.
“Tôi vẫn chưa nghe anh ấy nói, ‘Anh yêu em’. Nghĩa là vẫn chưa đủ đúng không? Vậy nên có thể cho tôi đôi mắt của anh được không? Đôi mắt xanh hoàn hảo ấy!” Nina rít lên, máy tóc của cô dàn trải ra.
Ngay sau đó, một thứ gì đó đâm mạnh vào Theo. Loạng choạng một chút khi bị chấn động bất ngờ, Theo quay người lại theo phản xạ.
Mái tóc dài biến thành những con dao găm vào tay trái của Tobias. Những mũi dao đâm vào cánh tay tạo tác nhấc bổng Tobias lên không trung. Anh ấy bị quăng vào đống nguyên vật liệu và bị chúng đè xuống.
Theo lập tức khai hỏa khẩu súng của mình để bảo vệ cho anh ấy, nhưng trái với cơ thể mảnh mai như một con búp bê sứ, Nina không hề bị đầy lùi trước những viên đạn bắn vào mình.
“Tobias!” Theo hét lớn mà không rời mắt khỏi Nina. “Trả lời đi! Tobias!”
Anh chỉ nghe được tiếng lạch cạch của một cái ống đang lăn mà không nhận về lời hồi đáp. (Giờ thì sao?) Mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên trán anh. Mùi hăng của khói thuốc súng và thịt cháy thoang thoảng trong không khí. Nina xé tóc mình ra và biến nó thành một lưỡi dao khác. Nụ cười dịu dàng của cô ấy hoàn toàn trái ngược với hành động của mình.
“Đừng sợ,” cô ấy nói. “Không sao đâu. Tôi làm việc này giỏi lắm. Sẽ không đau đớ—”
Roạt.
Một thanh kiếm vung xuống và bổ đôi Nina. Hai nửa khuôn mặt sửng sốt của cô ấy đổ về hai bên, nhuộm đỏ khắp xung quanh.
Theo ngẩng đầu lên đầy bất ngờ và thấy Eleven đáp xuống và đứng trước mặt anh. Cánh tay trái của cô biến thành thanh kiếm và đâm sâu xuống nền bê tông. Giữ cho Theo ở phía sau mình, cô nói, “Tôi là người chỉ huy. Hãy lắng nghe, sợ hãi và quy phục tôi. Yêu cầu ngừng hoạt động ngay lập tức.”
“…Một giọng nói thật khó nghe.” Cả hai nửa của miệng Nina cùng chuyển động, thốt lên sự căm phẫn của mình. “Tôi ghét giọng nói ấy. Cô muốn ép tôi phải tuân theo và tước đi cả cuộc sống của tôi ư?”
Nina trợn trừng mắt nhìn Eleven với con mắt còn lại của mình—một con mắt màu xanh lá u tối với hận thù.
“Đây là lần đầu đấy,” Nina gầm gừ. “Cái gì đây? Thứ gì đang gọi tôi đây? Người duy nhất có thể chỉ đạo tôi là Danny và cha xứ. Đừng có nói chuyện với tôi. Đừng có điều khiển tôi!”
“Cô là một Amalgam. Cô không còn nơi nào khác để đi,” Eleven thẳng thừng nói. “Thưa cô, vui lòng giữ im lặng.”
“Không. Không, không, ki!” Nina thét lên. “Tôi muốn ở bên Danny. Chúng tôi sẽ đến một thiên đường nơi không ai phải đau khổ!”
“Có phải cha xứ đã nói vậy với cô không?” Theo hỏi. “Có phải ông ấy nói rằng cô có thể đến thiên đường nếu cô tạo ra một cơ thể cho Daniel?”
Nina nhăn mặt lại trong khi cô ấy cố gắng ôm lấy khối thịt. “Cha xứ đã nói vậy khi những đứa trẻ ra đời. Tôi đã làm một điều tuyệt vời—tôi đã làm việc vất vả để có thể ở bên Danny, và giờ chúng tôi sẽ được chào đón trên thiên đường như những vị thiên sứ!”
“Cô thực sự tin vào những lời đó à?” Theo hỏi tiếp. “Cô đã sát hại bao nhiêu người vì Daniel?”
“Tôi không biết. Tôi không biết, tôi không biết—tôi không quan tâm!” cô ấy hét lên. “Biến đi. Đi ra khỏi đây đi. Đừng tước anh ấy đi khỏi tôi!” Với chút sức lực còn lại, cô ấy chĩa mũi dao của mình vào Theo.
Không di chuyển lấy một bước, Eleven chém đứt con dao ấy và đạp lên nó.
Một thứ chất lỏng chợt đổ xuống đầu Nina. Cô ấy mở to mắt đầy bất ngờ. “Cái gì đây? Trà?”
Một mùi hương bốc lên thoang thoảng. Mùi dầu hỏa.
“Emma, xin hãy làm đi,” Eleven nói.
Theo liền hướng mắt lên trên và thấy Emma đang thở hồng hộc, trong tay cô ấy là cây katahr. Cô ấy giương nó lên và khai hỏa một viên đạn Magirus vào vũng dầu hỏa quanh Nina. Một tia sáng đỏ lóe lên và bắt đầu bốc cháy dữ dội. Lửa phép thuật. Nó không thể bị dập tắt trừ khi sử dụng nước phép.
“Aaaaa, aaaa, không, chuyện này—!”
Nina hét lên và cố gắng ôm đống thịt lại gần trong khi nó dần trở thành bùn đất và lọt qua kẽ tay cô ấy. Những vết nứt bắt đầu chạy dọc ra từ con mắt của cô. Chỉ trong chớp mắt, cô ấy đã bị nhấn chìm trong biển lửa, tiếng thét của cô ấy lớn đến mức tưởng chừng làm cả nhà máy rung chuyển.
Khói đen. Những tiếng kêu khô khốc. Nina vươn một bàn tay ra từ bên trong ngọn lửa. Những ngón tay trắng của cô ấy tan thành tro bụi và bốc lên không trung.
Theo nhìn thấy hình ảnh của em gái mình bên trong đó.
Mùi khét của thịt cháy lấp đầy căn phòng, anh loạng choạng lùi về sau, bàn tay ấn chặt lấy miệng.
Eleven nắm lấy tay anh để đỡ và nhìn thẳng vào anh bằng đôi mắt xám. “Anh có sao không?”
Thế giới như bị đảo lộn. Đôi mắt xám mở to đến mức tưởng chừng sắp rơi ra khỏi hốc mắt.
Âm thanh của những vụ nổ. Của gạch đá rơi. Tiếng thét của em gái. Những ảo giác thính giác cứ vang vọng trong đầu anh.
Với một bàn tay vươn ra nắm lấy không gì cả, tầm nhìn của anh đột ngột chuyển thành một màu tối đen.
■
Khi mở mắt ra, thứ đầu tiên mà anh thấy là trần nhà trắng. Anh bất ngờ ngồi dậy, khiến cho Eleven đang ngồi ở trên ghế kế bên anh chớp mắt. Cô nhanh chóng đứng dậy.
“Theo, vui lòng chuyển động từ từ thôi. Anh đã bất tỉnh.”
“…Chúng ta đang ở đâu? Tình hình hiện tại thế nào?” Anh nhắm mắt để chống lại một cơn chóng mặt.
Eleven chậm rãi đẩy vai anh. Khi anh chấp nhận ngả người về sau, một chiếc gối dường như đã được cô đặt ở đó đệm lưng cho anh.
“Đây là phòng y tế của cục. Amalgam Nina đã hoàn toàn bị thiêu hủy. Chúng tôi đã gửi tro và lõi về phòng thí nghiệm và viết báo cáo. Thi thể của Joanna đã được mang về khám nghiệm. Tobias đang được điều trị ở bệnh viện, Emma đang ở cùng anh ấy. Mạng sống của anh ấy không gặp nguy hiểm, nhưng thiệt hại trên tạo tác rất nghiêm trọng, và anh ấy cũng bị nhiều chấn thương nữa. Bác sĩ nói rằng anh ấy khó có thể quay lại điều tra trong hôm nay.”
“…Ừm. Vậy thì tốt rồi. Hãy để anh ấy nghỉ ngơi tại đó.” Anh lấy chiếc điện thoại của mình từ trong túi của chiếc áo khoác treo cạnh giường và gửi tin nhắn tới Emma. Chỉ hành động nhỏ ấy thôi cũng khiến anh cảm thấy mệt mỏi. Anh buông một tiếng thở dài rồi lấy chiếc áo khoác và bước ra khỏi giường. “Cha xứ và những đứa con mà Nina nói tới…”
“Lá thư được cho là được gửi từ người cha xứ đã được bàn giao để phân tích nét chữ,” Eleven nói. “Cảnh sát địa phương đã tìm kiếm đường cống, nhưng kết luận cho rằng việc lần theo dấu vết là không thể. Vị trí của ‘những đứa con’ chưa được xác định.”
“…Cảm ơn vì đã cập nhật thông tin.” Anh kéo chiếc rèm che ra trong khi Eleven gấp chăn lại và đặt lên ghế sofa. Anh không nhớ mình từng thấy một chiếc chăn như vậy ở trong phòng y tế, vậy nên anh thắc mắc nghiêng đầu sang một bên. “Chiếc chăn đó từ đâu ra vậy?”
“Nhân viên y tế nói, ‘Đây, nếu cô muốn đợi thì hãy lấy nó đi’, và cho tôi mượn.”
Anh nhìn xuống đồng hồ đeo tay của mình và nhận ra bây giờ đã là buổi tối. Dường như anh đã ngủ lâu hơn anh nghĩ. “Tobias thì không nói, nhưng tôi thậm chí còn không bị thương tích gì. Chúng ta đã lãng phí thời gian ở đây.”
“Phỏng đoán của tôi cho rằng anh đã bất tỉnh do một cơn sốc tâm lý. Có phải tôi không nên dùng lửa?” Eleven ngẩng mặt lên nhìn ông với sắc mặt như mọi khi.
Anh chợt nhớ lại đôi mắt cô đã mở to như thế nào khi anh đang trên bờ vực mất ý thức. Anh thở dài và lắc đầu. “Không sao. Đừng lo về chuyện đó. Thực ra tôi cũng không thể tin là cô đã kịp thời đến ứng cứu được đấy.”
“Anh có chắc không?” Eleven nói mà không gặng hỏi thêm gì nữa.
Âm thầm cảm ơn điều đó, Theo rời khỏi phòng y tế. Eleven đi theo sau anh nửa bước.
“…Daniel đã đánh cắp một Amalgam từ phòng thí nghiệm và bỏ trốn,” Theo nói. “Anh ta thành công chế tạo ra một bản sao và cho nó tiêu thụ xác của Nina, nhưng sau đó thì anh ta qua đời vì bệnh tật hoặc nguyên do gì đó khác. Amalgam mà anh ta để lại tiếp tục bắt chước Nina và thực hiện ước muốn của Daniel theo một cách biến dạng. Như vậy có đủ để tóm tắt lại sự việc không?”
“Với một con người thì có thể khác,” Eleven trả lời. “Nhưng khi hấp thụ một xác chết, Amalgam đó vẫn sẽ gặp giới hạn trong việc mô phỏng lại người đó khi còn sống. Nó không thể hành động như Nina. Có lẽ Daniel thấy rằng Nina mà mình đã hồi sinh chỉ là một cái vỏ, nhận ra rằng vợ mình không bao giờ có thể trở về, sau đó đổ bệnh trong cơn tuyệt vọng.”
“Hừm.” Theo nhìn vào cô. “Điều đó khó đến vậy sao?”
“Phải. Đối với những mẫu không phải Hound,” Eleven khẽ trả lời anh. “Với lõi chất lượng thấp cỡ vậy, chỉ việc nó có thể duy trì được hình dáng của Nina thôi đã là phép màu. Đây là một mẫu vật thành công đáng quý giá với phòng thí nghiệm.”
Theo nhớ lại ngày mà cô lần đầu về nhà cùng anh. Một Eleven đã phân tích trạng thái căn hộ của anh và mô phỏng lại hình dáng của người em gái mà cô chưa từng gặp qua.
“Nói mới nhớ, cô cũng đã từng thử sao chép em gái tôi,” anh nói. “Mặc dù cô không biết con bé trông như thế nào.”
Tiếng chân của cô ngừng lại. Anh ngoái lại phía sau và thấy cô đang đứng đó nhìn anh.
“…Khi đó tôi đã đi đến quyết định rằng điều đó là cần thiết.” Giọng nói của cô rất nhỏ. “Tôi phỏng đoán rằng đó là lý do mà năng lực mô phỏng của tôi được chọn.”
Thật khó mà nghĩ rằng cô là cùng một Eleven khi mới gia nhập đội điều tra được vài tiếng đã thách thức và kích động Theo đến mức anh cảm thấy buộc phải rút vũ khí ra. Ngay từ đầu, cô đã tự điều chỉnh bản thân theo mong muốn của anh, tin rằng cô là người có thể nhận ra chúng: những mong muốn mà Theo đã từ bỏ việc giãi bày bằng lời nói và chôn vùi sâu vào trong trái tim mình. Một cách cố chấp.
“…Có phải tôi đã khiến vết thương của anh sâu hơn?”
(Đúng là một thứ vũ khí phiền phức.) Theo thực lòng nghĩ. Một con quái vật tự nhận rằng mình không có cảm xúc, trong khi nó liên tục cố gắng đối xử tử tế với người khác. Ngay cả khi cô không hề chần chừ trong việc thiêu rụi Nina và không hề có chút lung lay bởi thương tích của Tobias, vì lí do nào đó, cô đôi khi có thể đứng đó với sắc mặt tựa như hoàn toàn lạc lõng, như một đứa trẻ bị bỏ lại phía sau.
“Không.” Anh lắc đầu. “Cô không hề.”
Cô không có ý định làm tổn thương anh. Đó có lẽ là lý do anh cảm thấy mình có thể thực sự mở lòng với cô. Bởi vì khi đối diện với Eleven, anh vẫn chưa đủ thành thật.
Bằng lúc hai người cùng nhau rời khỏi văn phòng Delverro thì mặt trời đã lặn, người người đang đi lại bên ngoài. Anh rủ cô đi dạo cùng mình và hướng đến công viên thành phố, một không gian xanh được bao quanh bởi những cơ sở công cộng và hàng quán cho phép mọi người từ già trẻ gái trai được tận hưởng một chỗ nghỉ ngơi, ngắm nhìn khung cảnh êm đềm trải rộng trước mắt. Phần nhiều trong số những tấm biển và bảng hiệu nhắc về ngày lễ kỷ niệm hòa bình, tạo nên một sự mong đợi trông thấy trong mọi người về một nền hòa bình.
Khi Theo đứng lại trước một xe bán kem, chủ quán nhìn thấy phù hiệu điều tra viên của anh và khẽ nhích mũ. “Cảm ơn vì sự phục vụ của anh.”
Theo mỉm cười và rút ví ra. “Eleven, chọn một vị kem mà mình thích đi. Tôi bao. Thay cho lời xin lỗi và cũng như một lời cảm ơn.”
“Chúng tôi không có tiêu chuẩn trong việc thích hay gh— Không, vị chanh.”
“Được rồi. Sherbet chanh và cà phê đá,” anh nói với chủ quán.
Gọi món là một chuyện, nhưng Hound không có thói quan trong việc ăn uống, vậy nên việc ăn vặt dường như là một thử thách. Eleven cầm lấy ly sherbet bằng cả hai tay và cẩn thận bước về phía trước, do đó mà khi Theo trả tiền xong thì cô vẫn chưa đến được chỗ băng ghế.
Trong khi những người ở xung quanh mỉm cười nồng ấm, cô lại báo cáo với anh một cách đầy nghiêm túc, “Theo, đá. Đá đang tan. Nó đang trở nên không còn là sherbet.”
“Đi bộ bình thường cũng không làm nó tràn ra ngoài được đâu,” anh nói. “Nhanh ngồi xuống và ăn đi.”
Sau khi họ ngồi xuống ghế, rắc rối lại xảy đến với Eleven. Ngay cả khi cô có thể thực hiện hành động múc bằng thìa gỗ, không có miếng sherbet nào được múc lên cả. Rốt cuộc, phải đến sau khi Theo làm mẫu thì Eleven mới có thể đặt được miếng sherbet mềm mại vào trọng miệng.
“Cuối cùng cô cũng ăn được…” Anh mỉm cười. “Thấy thế nào?”
“Tôi đã xác nhận được hơi lạnh, vị ngọt cùng với vị chua và đắng nhạt. Dù đều là chanh nhưng món này khác với viên kẹo.”
“Chà, so sánh kẹo với kem thì vậy cũng phải.” Anh nhún vai. “Tôi không nghĩ là cô cũng có sở đoản đấy.”
“Hành động múc những hạt đá mịn bằng phiến gỗ với hình dạng cố định không cần thiết trên chiến trường.”
Dù nói vậy nhưng cô vẫn nhanh chóng học được cách làm và điềm đạm thưởng thức sherbet từ miếng thứ hai trở đi. Theo nhấp một ngụm cà phê đá trong khi thoáng quan sát cô. Gió đêm mát lạnh cọ vào làn da của anh.
“…Quê nhà của tôi nằm ở vùng biên giới tiếp giáp với Cadelenza,” anh nói. “Một nơi hẻo lánh tên Klyvalle. Một thị trấn nhỏ trong thung lũng. Tôi là người đầu tiên ở đó được chấp nhận vào học viện của Cục Điều tra Tội phạm. Cả thị trấn đã rất vui mừng, nhưng cha mẹ tôi thì phản đối điều đó. Dù vậy, tôi vẫn chống đối và đi đến đó học. Tôi đã quyết tâm tham gia vào cục sau khi tốt nghiệp. Với những đứa trẻ ở quê tôi, điều tra viên là những người hùng thực thụ. Tôi đã luôn muốn trở thành một điều tra viên khi lớn lên.”
Những đứa trẻ xung quanh đang chạy nhảy nô đùa và chơi trốn tìm.
“Em gái tôi—con bé nhỏ hơn tôi bảy tuổi. Con bé luôn gọi tôi là người hùng của mình.”
“Có phải đó là bởi một điều gì đó mà anh đã làm không?” Eleven hỏi.
Anh lắc đầu. “Chẳng có gì to tát đâu. Tôi tìm đồ vật mà con bé đánh rơi và đuổi những con chó lớn hung dữ đi. Tôi không làm bất cứ thứ gì đặc biệt cả. Nhưng con bé vẫn gọi tôi là một người hùng. Ngay cả khi đang chơi đồ hàng, tôi cũng không bao giờ muốn con bé phải cảm thấy xấu hổ vì mình. Vậy nên tôi muốn trở thành một điều tra viên và bảo vệ mọi người.”
Gió càng lúc càng mạnh. Không biết từ lúc nào, cốc cà phê của anh đã cạn. Anh bóp nát chiếc cốc đó trong tay mình.
“Năm năm trước… em gái tôi tốt nghiệp trường trung học cơ sở ở quê nhà và lên Delverro học trường nghề. Con bé bảo tôi làm gì đó để ăn mừng việc nó được nhận vào trường mới, nhưng hồi đó tôi không có tiền, vậy nên tôi khao nó kem ở đây. Và trước khi tôi kịp hiểu chuyện gì thì con bé đã lập tức hành động. Ngay lúc con bé lên nhập học trường nghề, nó liền chuyển hết đồ của mình đến nơi ở của tôi. Khi hỏi thì con bé nói rằng sống cùng với tôi là điều kiện mà cha mẹ đặt ra để nó được học ở trường này.”
Eleven nhìn chằm chằm vào anh. “Vậy nên mới có căn phòng đó?”
“Ừm.” Anh gật đầu. “Nhưng không lâu sau đó, những cuộc không kích nhắm tới Delverro trở nên dồn dập hơn, vậy nên trường học đã đóng cửa. Khi đó tôi mới gia nhập vào cục nên bản thân tôi cũng rất bận rộn. Tôi nghĩ rằng con bé sẽ an toàn hơn khi ở Klyvalle, do đó mà tôi đã gửi con bé về quê. Che mẹ chúng tôi cũng rất lo lắng, Cadelenza cũng là một quốc gia đồng minh nữa. Tôi đã chắc chắn rằng con bé sẽ không bị sao nếu ở đó.”
Anh vẫn có thể nhớ rõ được khung cảnh ấy. Anh tiễn em gái mình đi trên sân ga tàu, hứa rằng mình cũng sẽ trở về khi nào được nghỉ. Heather mỉm cười và nói, “Cứ giao cha mẹ lại cho em.” Anh nhìn đoàn tàu rời đi rồi quay về tiếp tục theo đuổi vụ án của mình mà không hề hay biết rằng đó sẽ là lần gặp gỡ cuối cùng.
“Ngay sau khi vụ án đó khép lại, tôi đã xin cấp trên của mình vài ngày nghỉ phép. Tôi lên xe và rời thành phố từ lúc sáng sớm. Nhưng Klyvalle cách khá xa nơi này. Tôi cứ liên tục lái xe hăng say đến nỗi chẳng biết trời đã muộn từ bao giờ. Dù cách quê không còn xa nữa nhưng tôi vẫn dừng chân lại tại một trạm nghỉ. Sau đó, tôi thấy một ánh sáng đó từ phía bên kia của ngọn núi, và rồi… mọi thứ chìm trong biển lửa.”
“…Có phải đó là một quả bom từ quốc gia đối địch?” Eleven hỏi.
“Không.” Anh chậm rãi lắc đầu. “Cadelenza đã phản bội hiệp ước đồng minh và tung một đợt tấn công bất ngờ. Ở phía bên kia của Klyvalle là một căn cứ tiếp tế quân sự. Thị trấn cũng bị coi là một cơ sở quân sự nên bọn họ đã rải bom xuống toàn nơi đó. Nhưng những máy bay nhanh chóng bị bắn hạ bởi một con Amalgam phun lửa khổng lồ lớn như một ngọn núi.”
Eleven sững lại rồi gật đầu. “Không phải những đối tượng không trực tiếp tham gia chiến đấu phải được sơ tán trước khi triển khai một Amalgam sao?”
“Phải. Nhưng bọn họ không thể để ai sống sót trở ra. Nhằm khiến cho lũ khốn đó nghĩ rằng đợt tấn công bất ngờ của mình đã thành công. Vậy nên tại đó không những không có lệnh sơ tán mà còn không có cả còi báo động. Cuộc đột kích của Cadelenza đã bị chặn đứng bởi cuộc tấn công của Amalgam, và bởi vậy mà gia đình tôi, quê nhà tôi, tất cả đã bị thiêu thành tro bụi.”
Ngay cả bây giờ, Theo vẫn không thể quên được chuyện đó. Gạt bỏ tất cả những người cố gắng ngăn anh lại, anh lên xe và tức tốc lao về phía quê mình. Khi đến cây cầu đã cháy sập, anh lội qua dòng sông bằng chân và điên cuồng chạy trong luồng khí nóng tưởng chừng như muốn thiêu rụi lá phổi của anh. Chỉ để thấy ngôi nhà của mình biến thành đống đổ nát, chỉ để tuyệt vọng khi thấy cánh tay không còn chút sự sống nhô ra từ trong đó.
Bất chợt, một bàn tay lạnh lẽo chạm lên khuôn mặt anh. Eleven đang đặt bàn tay đẫm nước lên gò má anh. Bàn tay của một sinh vật bắt chước mang sự mềm mại của một con người lau đi những giọt nước chảy xuống trên má anh.
“Theo,” cô thì thầm.
Khi anh ngẩng mặt lên, cô nhìn đăm chiêu vào đôi mắt của anh với nét mặt vô cảm vẫn như thường ngày và sự lặng yên mang theo phần nào sự thương cảm. Đôi mắt xám tro tĩnh lặng. Nhìn vào đó, anh nhận ra rằng bàn tay cô vốn hoàn toàn khô ráo. Thứ ướt là chính má của anh. Anh khẽ rên rỉ.
“Có đau không?” cô hỏi. Một câu hỏi không cần đến lời trả lời.
“Luôn luôn. Kể từ ngày đó, đã luôn luôn…” Giọng nói trả lời của anh rất nhỏ.
Ngay cả sau khi lửa tắt và anh có thể thu hồi lại thi thể của gia đình mình, họ đã bị cháy đen đến nỗi việc nhận diện là vô cùng khó. Khi đứng trước họ, anh cảm thấy mình không thể chấp nhận hiện thực đó. Manh mối duy nhất xác thực cho danh tính của họ là những khối kim loại tan chảy trên tay em gái và trên ngực cha mẹ anh. Vòng tay, mặt dây chuyền, kẹp cà vạt—những món quà mà anh đã tặng cho họ. Anh chắc chắn không lựa chọn những món quà đò vì mục đích này. Chắc chắn không phải để dành cho một cuộc đoàn tụ như vậy.
Sau khi ngôi làng bị phá hủy, không một ai thắc mắc gì về sự dính dáng của quân đội hay trách nhiệm của họ. Cả thế giới có thể phẫn nộ trước sự phản bội của một quốc gia đồng mình, nhưng nó không than khóc cho cái chết của gia đình Theo. Bị bỏ lại một mình, anh đã gần như bị xé toạc bởi sự giận dữ và đau buồn. Thứ duy nhất anh có thể làm là cất đi tấm phù hiệu, bằng chứng của người hùng.
“…Sau đám tang, tôi đi thẳng đến văn phòng tuyển quân,” anh nói. “Tôi nghĩ rằng mình sẽ cảm thấy tốt hơn nếu có thể khiến Cadelenza phải trả giá cho sự phản bội của mình.”
“Thủ đô của Cadelenza sụp đổ trước cuộc phản công của Adastrah, sau đó họ đầu hàng,” Eleven nói.
“Đúng. Thế nhưng… tôi hoàn toàn không hề cảm thấy tốt hơn. Tất cả đều thật trống rỗng.”
Anh nghe tin tức về sự đầu hàng của Cadelenza khi đang ở trên một mặt trận khác. Trong khi mọi người xung quanh hò reo mừng rỡ, trái tim anh lại trở nên lạnh lẽo. Khi nghĩ về việc một quốc gia yếu đuối đến vậy nhưng vẫn lấy đi mạng sống của gia đình mình, anh nôn mửa.
“Kể từ đó, mỗi khi nhìn thấy lửa, tôi lại nhớ lại. Họ đã bị thiêu sống. Tôi không thể tưởng tượng nổi nỗi đau mà họ đã trải qua.” Anh lắc đầu. “Mỗi khi nghĩ lại, tôi lại càng không thể tha thứ cho bản thân vì đã còn sống. Nhưng bởi tôi vẫn còn sống, tôi muốn trở thành người mà em gái tôi luôn tự hào như một người hùng. Nhưng khi nhớ lại…”
Mỉm cười trong ánh nắng chiều tà, em gái anh đã nói:
“Theo, anh đã luôn là người hùng của em. Lâu trước khi anh trở thành một điều tra viên và thành người hùng của những người khác, anh là người hùng của em.”
Quệt. Vải ấn vào má anh. Eleven kéo ống tay áo lên và dùng nó để lau đi nước mắt của anh. Cẩn thận không chà quá mạnh lên da anh, cô nói, “Anh đã có thể ra lệnh cho tôi.”
Theo nhìn cô theo phản xạ. Trong đôi mắt tĩnh lặng của cô không có sự thù địch. Chúng bằng cách nào đó mang vẻ dịu dàng.
“Tôi chắc chắn rằng mình có thể chết đi sống lại cho đến khi anh hài lòng.”
“…Eleven, tôi…”
“Nhưng bởi anh không làm vậy nên anh là chính anh, phải không Theo?” Cô gạt đi những giọt nước mắt bằng đầu ngón tay trắng trẻo của mình. Phản chiếu lại ánh sáng mặt trời, đôi mắt xám của cô lấp lánh với sự ấm áp. “Anh dùng lý trí đề điều khiển bản thân. Thay vì dành hết tâm trí cho việc trả thù, anh tiếp tục làm một người hùng mà gia đình anh có thể tự hào. Tôi tôn trọng ý định của anh. Ngay cả nếu anh không thể tha thứ cho bản thân vì còn sống.”
“…Có phải cô nghĩ rằng đó là những lời tôi muốn nghe?” anh hỏi, như thể đang hờn dỗi. Một làn gió lướt qua làm khôi đôi má anh.
“Không, Theo,” cô khẽ trả lời. “Đây là tôi đang ‘trở nên gần gũi’.”
Eleven cầm lấy chiếc cốc cà phê trong tay anh. Cô đi ra chỗ thùng rác để vứt nó đi, và rồi chủ xe kem mỉm cười gọi cô. Phản ứng của cô hoàn toàn rất tự nhiên; khó mà nghĩ rằng cô là một thứ vũ khí đang giả dạng con người.
Sắc mặt và thái độ của cô luôn bất biến. Cô luôn im lặng và không bao giờ thể hiện sự ấm áp. Dù vậy, đó không phải vì cô ấy lạnh lùng. Sự chấp nhận dịu dàng của cô—không phải chối từ hay bác bỏ—là đủ để anh đứng dậy khỏi ghế, không cần biết cô có thể chỉ đang bắt chước một ai đó. Anh lấy mu bàn tay mình lau vào mắt, nhưng chúng không còn ướt nữa.
“…Anh đã hồi phục chưa, Theo?” Eleven hỏi.
“Rồi,” anh trả lời. “Xin lỗi vì đã làm gián đoạn cuộc điều tra một cách không cần thiết. Tôi chỉ muốn thực sự ngồi xuống và nói chuyện cùng cô thôi. Có lẽ việc này có hơi thảm hại… Ý tôi là, đã năm năm trôi qua rồi.”
“Nhận thức về thời gian đối với mỗi người có sự khác nhau. Đối với anh, năm năm đó đơn thuần chỉ mới trôi qua thôi.”
“…Cảm ơn vì đã nói vậy.” Anh bắt đầu bước đi, Eleven đi theo sau anh nửa bước. Nhưng rồi cô chợt cất tiếng.
“Dù tôi tôn trọng ý muốn của anh,” cô nói, “tôi không thể hiểu được chúng.”
“Tôi cũng nghĩ là cô sẽ không hiểu được,” anh đồng tình. “Một vũ khí thì không có cảm xúc, có đúng không?”
“Nhưng đồng thời, tôi nhận thức được rằng những con người mang cảm xúc ‘đau khổ’, ‘căm ghét’ và ‘buồn bã’ do ‘mất mát’ gây ra thường xuyên trở nên kích động khi bị gợi lại về trải nghiệm đó và thực hiện những hành vi phòng vệ nhằm che giấu điều đó.”
Theo dừng bước. Eleven đứng lại phía trước anh vài bước và quay người về sau. Mái tóc trắng của cô, nhuộm bởi ánh nắng chiều tà, mang một ánh đỏ rực và đung đưa trong gió.
“Anh đã bộc lộ vết thương của mình, anh chắc chắn không hề ‘thảm hại’. Anh là ‘người hùng’ mà em gái anh có thể tự hào.” Rồi, như thể đã nói xong hết những gì mình cần, cô nói thêm, “Quay lại điều tra thôi,” rồi quay gót.
Dáng hình nhỏ nhắn của tấm lưng cô hệt như của một cô gái trẻ. Anh nhìn thấy bóng hình của một người khác đè lên trên cô, mặc trên mình bộ váy ưa thích.
(Heather. Người em gái cách biệt bảy tuổi của mình. Người em mà mình không thể bảo vệ dù con bé nói mình là một người hùng.)
(Liệu em có còn gọi anh là một anh hùng không? Có phải anh là người điều tra viên mà em tự hào không?)
Như thể bị thúc đẩy bởi gió xuân, Theo đuổi theo Eleven và vò xù mái tóc trắng của cô. Bên dưới phần tóc mái rối bù, cô sững lại nhìn anh.
“Cảm ơn,” anh nói. “Vì tất cả.”
“…Câu trả lời là không có gì, đúng không?” cô nói, giọng điệu vẫn như mọi khi, dù lần này có pha thêm chút khó xử.
Vì lí do nào đó, Theo cảm thấy bồn chồn và xoa mạnh đầu cô. “Phải, đúng rồi đấy.”
Một mối quan hệ kỳ lạ. Nhưng anh lại cảm thấy khá thoải mái với bọn họ của hiện tại, theo một cách mà anh không thể diễn tả thành lời.
Khi họ quay về văn phòng, kết quả của việc phân tích chữ viết và báo cáo từ Phòng Kiểm soát Ma túy đã được gửi tới.
“…Vậy nét chữ của Cha xứ Tom MacKenzie trùng khớp với bài luận đại học của Jim Kent?” Theo nói. “Có lẽ MacKenzie tiếp cận Penley với mục tiêu là công nghệ tạo tác và những ‘đứa con’ của Nina.”
“Báo cáo từ Phòng Kiểm soát Ma túy nói gì?” Eleven hỏi.
“Họ đã và đang giám sát dòng giao dịch dược phẩm để lần theo các dấu hiệu của việc sử dụng bất hợp pháp. Tôi đã yêu cầu họ sử dụng mạng lưới thông tin đó để theo dõi những giao dịch liên quan đến loại thuốc được dùng cho việc phẫu thuật tạo tác. Có một loại thuốc kháng sinh mà các loại dược phẩm có thể bán không cần kê đơn không thể dùng để thay thế được, vậy nên tôi nghĩ rằng đối tượng hẳn phải tích trữ nó, nhưng…” Theo nhăn mặt.
Phòng Kiểm soát Ma túy đã thu hẹp phạm vi tìm kiếm xuống còn tổng cộng năm địa điểm. Tất cả đều là các hội nhóm hỗ trợ vấn đề riêng tư hoặc các tòa chung cư.
“…Địa điểm gần nhất cách đây hai giờ di chuyển bằng xe,” Eleven nói.
“Vậy sao chúng ta không đến đó thử xem? Chúng ta cũng không còn đầu mối nào khác.
Theo có hơi chút lưỡng lự trong việc đi điều tra tiếp, nhưng sau vài giờ ngủ, tình trạng cơ thể anh cũng không quá tệ. Họ nhanh chóng hướng về phía địa chỉ của tòa nhà.
■
Khi Theo dừng xe lại thì trời đã chập tối. Anh nhìn vào tòa nhà được đăng ký là điểm tập hợp cho một nhóm hỗ trợ vấn đề riêng tư và nhăn mặt. “Đèn bên trong không được bật à? Có phải nơi này chỉ được sử dụng trong khi phẫu thuật?”
“Xét đến thời gian hiện tại thì việc tắt đèn không có gì bất thường,” Eleven nói. “Bây giờ đang là ngoài giờ làm việc.”
Anh xuống xe và mau chóng di chuyển về phía căn nhà, trên tay là khẩu súng. Ba căn nhà dân ba tầng giống hệt xếp kề nhau, khu đất mà những tòa nhà này sở hữu cũng khá lớn. Dù vậy nhưng không có bảo vệ, không có chó cảnh, và anh cũng không thấy bất kì hệ thống an ninh nào.
“…Eleven, có phát hiện bất cứ dấu hiệu nào của Amalgam không?”
“Không có, nhưng bên trong quá im ắng,” cô trả lời. “Đây có thể là một cái bẫy.”
Theo hít thở sâu và đặt tay lên cánh cửa. Nó dễ dàng được mở ra. Bên trong tối tăm và im ắng. Mùi máu nồng nặc trôi nổi trong không khí.
Anh bật đèn pin lên, chuẩn bị súng vào tư thế sẵn sàng và tiến vào trong căn nhà, nhưng cuối cùng anh cất súng lại vào bao sau khi chỉ vừa đi được vài bước. Không có dấu hiệu của bất kỳ ai ở quanh. Không có dấu hiệu của bất kỳ ai còn sống.
“…Chuyện gì đã xảy ra ở đây vậy…?” anh lầm bầm trong kinh ngạc. Bước về trước thêm một bước, anh nghe được tiếng chân mình đạp vào vũng nước.
Khung cảnh ngày thường đã bị xé toạc ra một cách đường đột. Những con người đang nấu nướng, vui chơi, kể chuyện, cầu nguyện—thi thể của họ nằm la liệt với những cái lỗ lớn trên vùng bụng. Tất cả đều là những bé gái và người cao tuổi.
Nền nhà là một biển máu; không có chỗ nào để anh có thể bước tránh ra được. Khung cảnh yên bình sau bữa ăn đã bị phá nát, những người dùng bữa qua đời với vẻ ngạc nhiên, không thể hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Những đứa trẻ nằm xuống nắm chặt lấy đồ chơi và những cuốn sách tranh, hoặc không thì lấy hai tay ôm bụng.
Tất cả đều mặc chung một trang phục. Căn phòng được trang hoàng theo phong cách “dê và thiên sứ”, với bản đồ lục địa treo trên một bức tường, cùng với một bản giáo lý. Đây chắc chắn là một căn cứ của Roremclad, một ngôi nhà chung cho những tín đồ của hội nhóm tôn giáo này.
Những người ngồi trên băng ghế dài đều đã chết trong khi ngẩng đầu lên trên cao. Máu kéo dài thành vệt từ những cái lỗ trên bụng họ. Rõ ràng có một thứ gì đó đã chui ra khỏi đó.
Theo chiếu đèn quan sát xung quanh và thấy bức tranh của một nữ thần giương cao kiếm và dẫn dắt những người khác. Mái tóc dài giống như được dệt thành từ ánh sáng, bộ đầm trắng phất phơ. Anh kiểm tra bục truyền đạo ở gần đó và nín thở. Một tấm ảnh nằm trên bìa của cuốn sách dường như là kinh thánh của giáo hội này. Trên đó là hình ảnh của Eleven đang mặc quân phục. Ở mặt sau của nó là dòng chữ thiên sứ. Dựa vào nét chữ, anh có thể chắc chắn rằng đây là tác phẩm của Jim Kent.
“Theo, lại đây,” Eleven lên tiếng.
Anh cất tấm ảnh vào trong túi và đi về phía cô. Và rồi trở nên kinh ngạc khi họ đi ra phía sau của căn nhà.
Vệt máu dẫn tới một rãnh nước chảy kế bên hiện trường và dừng lại ở đó.
1 Bình luận