Chương 1
Có những kẻ được gọi là loài bất tử.
Chúng sống qua hàng ngàn năm thời gian, chứng kiến được sinh lão bệnh tử, trải qua thương hải tang điền, thân ở cõi người mà lại chưa từng trở thành một phần của cõi người.
Chúng sống mà như đã chết, và tôn thờ những thứ vốn đã qua đi, nhưng lại còn hiện diện trong tâm thức.
Chúng gọi sự hiện hữu đó là ‘thần linh’.
Trong thời đại mạt thần, chúng sinh không còn biết về thần linh nữa.
Những tập sử dày công ghi chép từ lâu đã bị đốt bỏ. Những câu chuyện lưu truyền không một ai kể lại. Tín ngưỡng cứ vậy mà mai một, chôn vùi thần linh trong đống hỗn độn của thời đại.
Chúng sinh quên mất kẻ mà họ đã từng cung phụng.
Nhưng loài bất tử luôn luôn đứng ở nơi mà chúng sinh không thể hiểu. Chúng là những kẻ đi ngược lại với thời đại, chúng canh giữ mộ địa của chư thần, thủ lấy tòa thành mang danh quá khứ, kế thừa hàng ngàn năm ý chí từ cha ông, trung thành chờ đợi ngày thần linh mở mắt, cứu rỗi họ khỏi bi ai khổ sở mà một kiếp người nên có.
Trong loài bất tử, Hàn gia luôn là đầu tàu.
Có lẽ bản chất họ tin vào vị thần của sự vĩnh hằng, nên sự thay đổi đối với họ là không thể chấp nhận. Trong khi những kẻ cùng chung chí hướng đều đã rời bỏ hoặc sụp đổ thì Hàn gia, suốt hơn hai mươi ngàn năm vẫn cố chấp bám víu vào đôi ba câu ngắn ngủi, ở trong đêm đen cô độc, chờ đợi khoảnh khắc mây tan trăng tỏ.
Chẳng qua vạn vật luôn phải đến thời thay chuyển, mà loài bất tử vốn cũng chỉ là một trong chúng sinh, nhận được chúc phúc từ thần linh, có được tuổi thọ siêu việt, lại chẳng cách nào thay đổi được sự thật chúng là con người, chúng cũng cần tuân vào sinh trụ dị diệt khi thời khắc đến.
Theo thời gian ngày một trôi, những đứa trẻ sinh ra trong dinh thự cũng dần trở thành một phần của thời đại. Bọn họ không tin vào thần linh, không hiểu được sự cố chấp của tổ tiên, cũng không có khả năng để kế thừa bốn vạn năm ý chí cha ông. Họ sống một cuộc đời đã không có sự tồn tại của thần, họ có càng nhiều lý tưởng, càng nhiều khát vọng, những thứ mà thời đại đã ban tặng cho chúng sinh.
Loài bất tử đã sống quá lâu để hiểu được có những chuyện không cách nào thay đổi. Chúng không khóa cánh cửa lồng, để thứ nên bay thì sẽ bay, người nên đi thì sẽ đi.
Hàn Nan tựa như chú chim mỏi cổ trông về phương xa, nhưng thân mang chì, nặng trĩu không cất cánh. Hắn rũ mi mắt, che giấu tâm tư bên dưới lớp da người, đôi khi nở một nụ cười, lại chỉ thấy đầy là đau khổ.
Đó là kẻ mà Nhược Kính gọi là phụ thân.
Cậu ở bên cạnh hắn đủ lâu, suốt bảy năm kể từ khi mở mắt chào đời, cho phép cậu cảm nhận được thứ bùn lầy bên dưới sự trầm lặng của mặt hồ.
Hắn muốn vùng vẫy.
Kể từ lúc cậu có nhận thức, sự hiểu biết của cậu về Hàn Nan chưa bao giờ thay đổi.
Hắn muốn giương cánh, cao chạy xa bay.
Cậu ngồi bên cạnh hắn, nương theo ánh mắt của thanh niên, vọng về thế giới nơi đằng sau cánh cổng. Dưới hiên nhà mưa rơi rả rích, lộp bộp, lộp bộp, tựa như tâm sự nặng trĩu thành nước, tưới dưỡng mặt đất dưới chân bằng nỗi bi thương đã qua hàng trăm năm ấp ủ.
Hắn nghiêng đầu nhìn Nhược Kính, thấy đứa trẻ mà hắn vẫn luôn chăm sóc đã trở thành dáng vẻ mà hắn không còn quen thuộc. Hắn tự hỏi, bắt đầu từ khi nào?
Từ khi nào mà Nhược Kính có thể hiểu được những gì hắn nghĩ? Từ khi nào, đứa trẻ đã không còn dựa dẫm vào hắn nữa rồi?
Có lẽ từ khoảnh khắc chào đời, vạn sự đã định, ý mệnh luôn khó cãi.
Hắn lại thở dài, nỉ non: “Nhược Kính sẽ không trách ta, đúng không.”
Đứa trẻ ngẩng đầu, trong đôi mắt màu tím than ấy không dung nạp bất kỳ vui sướng hay đau khổ. Nó bình thản, tựa như cái cách mà Hàn Nan đã tồn tại suốt cả cuộc đời.
Cậu hiểu Hàn Nan đang nói về điều gì, và thú thật, hắn nói không sai.
“Ta sẽ không trách người.” Cậu hiểu rõ kể cả bản thân có trách hay ghét, người nên đi thì vẫn sẽ đi, sẽ không vì một câu nói mà chần chừ do dự.
“Ngươi yên tâm đi đi thôi.”
Cũng không phải nói là Hàn Nan có thể bay nhẹ nhàng như chim tước. Thân là thành viên mấu chốt trong gia tộc, Hàn Nan chú định không thể dứt áo ra đi như không có vướng bận gì, chẳng qua đây là thứ mà Nhược Kính không thể khống chế. Cậu chỉ có thể ở trong khả năng của mình, tha thứ hắn, khiến đôi vai hắn nhẹ đi một phần.
Cậu nắm lấy tay hắn, một lần nữa than thở: “Nguyện cho gió đưa cánh chim người rong ruổi.”
Là một câu văn không hoàn chỉnh, nhưng với hắn có lẽ cũng đã đủ.
Hàn Nan lại cười khổ. Hắn rút tay lại, xoa đầu Nhược Kính.
“Con còn bé, hiểu cái gì cơ chứ.”
Nói thì nói vậy, nhưng trong lòng đã tỏ tường.
Hàn Nan sau đó trở nên rất bận rộn, gần như cả ngày không thấy mặt.
Có đêm trăng treo giữa trời, Nhược Kính bất chợt tỉnh dậy. Cậu nhìn qua song cửa sổ, thấy bóng lưng của Hàn Nan.
“Ta đánh thức con sao?”
Giọng nói của Hàn Nan trầm, thoáng có chút uất nghẹn.
Đứa trẻ đi đến bên cửa sổ, cảm nhận có làn gió lạnh lẽo thổi qua gò má, không nói gì.
“Con thật ra vẫn trách ta đúng không?”
Hàn Nan không quay lưng lại, hắn sợ một khi nhìn thấy đứa trẻ, nước mắt của hắn sẽ tiếp tục rơi xuống.
Nhưng đứa trẻ của hắn ấy à, trước nay vẫn luôn thông minh như vậy, sao có thể không nhận ra sự đau khổ như muốn hóa thành thực chất cơ chứ?
Cậu gọi tên hắn, “Hàn Nan.”
“Ta đương nhiên sẽ đau khổ khi mất đi người, nhưng nếu người hạnh phúc, ta cũng sẽ hạnh phúc.”
Bởi vì đây là yêu, và yêu không phải là muốn có được, mà là muốn bao dung.
Cậu yêu hắn, hiểu hắn, nên bao dung hắn. Kể cả có không nhìn thấy được hắn, điều này vẫn không thay đổi.
Hàn Nan im lặng rất lâu, lâu đến nỗi Nhược Kính gần như bị cơn mê ngủ kéo vào giấc mộng, cậu mơ hồ nghe thấy hắn cười.
“Ta hiểu.”
Trăm câu vạn chữ, cuối cùng chỉ hóa thành hai từ đơn giản.
“Ngủ ngon, Nhược Kính.”
Hắn nhìn Nhược Kính một lần cuối cùng, sau đó, không bao giờ quay trở lại.
Hàn Nan dứt thân sạch sẽ, khi ra đi nhẹ nhàng như chim tước, không hổ thẹn, không oán giận.
Dù sao hắn vẫn luôn như thế. Hắn là kẻ dù cho có phải chết, cũng phải chết với không một chút gì hối hận.
Ngày đầu tiên sau khi Hàn Nan ra đi, Nhược Kính đến nơi họ đã từng ngồi, nhìn về phía cánh cổng vẫn luôn khép chặt.
Nó chỉ mở ra khi có kẻ muốn từ giã. Sau khi bước chân người đi khỏi, mọi chuyện quy về tĩnh lặng, như thể người vốn không tồn tại nơi Hàn gia.
Nhược Kính thở dài, thoáng cảm thấy sự cô độc nhen nhóm nơi tâm khảm.
Cậu nghĩ thầm, có phải Hàn Nan cũng cảm thấy như thế này không? Rõ ràng thân ở nơi vàng son, nỗi lòng lại không cách nào bày tỏ, tựa chú chim trong lồng vàng, tuyệt nhiên không hưởng thụ được thứ xa hoa tù cấm mà người khác ban tặng.
Ngày thứ hai sau khi Hàn Nan ra đi, Nhược Kính đi đến bên cánh cửa.
Cậu không có ý định tẩu thoát, chỉ là muốn thử nhìn xem thế giới ngoài kia có chi là khác biệt, khiến Hàn Nan trăm năm không an.
Nhưng năm đó Hàn Nhược Kính vẫn còn non nhỏ. Cậu đứng trước cánh cổng tựa như con kiến đứng trước voi, không tài nào di dịch.
Ngày thứ ba sau khi Hàn Nan ra đi, Nhược Kính lại đến bên cánh cổng.
Nỗi nhớ hay buồn rầu thật ra đã dần nguôi ngoai. Chỉ là, có những thứ luôn phải làm bất kể ý nghĩa.
Ngày thứ tư sau khi Hàn Nan ra đi, Nhược Kính nhìn thấy Hàn Trụy nơi quen thuộc.
Hàn Trụy không cần giải thích quá nhiều. Trước khi Hàn Nan dứt áo, hắn đã an bài cả tuổi thơ của Nhược Kính rõ ràng, mà Hàn Trụy sẽ là kẻ dẫn dắt cậu đi trên con đường kế tiếp.
Ngày thứ tám sau khi Hàn Nan ra đi, Nhược Kính thật sự hiểu được có kẻ sẽ không quay trở về.
Có những chuyện biết mà chưa thể hiểu, như Nhược Kính biết Hàn Nan đã từ biệt, mà giờ khắc này mới tỏ tường cái kẻ tên gọi là Hàn Nan ấy, kể từ giờ không còn tồn tại trong tương lai của cậu nữa.
Quyển nhật ký năm ấy Hàn Nan cho cậu rốt cuộc cũng đã đến lúc vương mực, trang đầu tiên, đứa trẻ viết:
‘Ngày 46 tháng 13, Băng Tan năm 22.768
Hàn Nan đi rồi.’
Kể từ đó, đứa trẻ không còn đến nơi họ từng ngồi nữa.
Trưởng bối thường nói, Nhược Kính là kẻ thông minh, nhưng nếu Nhược Kính trẻ con hơn một chút sẽ tốt hơn.
Cậu lại cảm thấy điều đó là không cần thiết. Cậu không có lý do để trẻ con, cũng không muốn trở nên trẻ con.
Lúc này cậu lại nhớ về Hàn Nan, mơ hồ nhận ra dường như bản thân đang dần trở thành hắn. Cậu kế thừa một phần nhân tính của Hàn Nan.
Hàn Trụy thân là gia chủ, hắn không có quá nhiều thời gian để bầu bạn hay chăm sóc Nhược Kính, hắn cũng chưa từng tâm sự với cậu để hiểu được những gì đứa trẻ đang nghĩ.
Ngày hôm đó, hắn mang đến một chú chim tước cùng chiếc lồng vàng, hài lòng nhìn thấy ánh mắt của Nhược Kính rung động.
Nhược Kính rất quý tước. Cậu đi đâu, làm gì cũng mang theo nó bên mình, mà tước cũng luôn quấn quýt trên vai cậu, không chịu vỗ cánh rời đi.
Cậu nói với tước: “Chờ ngày tước trưởng thành rồi, ta sẽ thả tước đi. Hy vọng bầu trời sẽ che chở cho tước bình an vui vẻ.”
Nhược Kính nói được thì làm được. Ngày mà xuân đến, trời trong, chim tước sải cánh bay cao, không ngoái đầu nhìn lại.
Nhược Kính lại nhìn thấy bóng dáng Hàn Nan nơi tước.
Nhớ lại lúc ly biệt, hắn cũng lặng im rời khỏi, chờ đến lúc Nhược Kính tỉnh lại thì hắn đã không còn ở đây nữa rồi.
Cậu hiểu được hắn sợ bản thân tiếc nuối, nhưng cậu vẫn cảm nhận được chút gì đó len lỏi, như là bị phản bội, như là đột nhiên mất đi điều chi không rõ.
Cậu thở dài, vươn tay hướng về phía bầu trời.
Bay đi, rời đi đi, kẻ vốn thuộc về bầu trời.
…Ít nhất, lần này ta đã có thể tự tay trao trả tự do cho người.
Nguyện cho trời xanh bát ngát, bao dung sự tự do của người không hề hoang uổng.
Nguyện cho cơn gió dịu dàng, nâng đỡ cánh chim người rong ruổi phương xa.
Nguyện cho ánh trăng khoan từ, mỗi lần nhìn ngắm là mỗi lần ghi nhớ, minh chứng cả cuộc đời người lỗi lạc tài hoa.
0 Bình luận