Tập 02 - Tới lúc Diễn rồi (II)
Chương 1: Ngày 8/5, Tôi rung động vì Em
10 Bình luận - Độ dài: 18,299 từ - Cập nhật:
Translator : Bengin
Editor : Ngoe Nguẩy
Chương 01: Ngày 8/5, Tôi rung động vì Em
Tôi là một nam sinh trung học kiêm là một nhà văn nổi tiếng, lại đang bị bóp nghẹt cổ bởi cô em cùng lớp cũng là một seiyuu làm cùng.
Và đây là thế khó của tôi lúc này.
Cô ấy - Eri Nitadori đang bóp cổ tôi bằng đôi tay lạnh buốt.
Bàn tay cô ấy thật sự rất, rất lạnh. Tôi có thể cảm nhận hơi lạnh phủ quanh cổ mình.
Tôi nằm sấp dưới sàn nhà, và Nitadori thì đang cúi mình đè trên tôi. Ngoái lại nhìn thì chỉ còn thấy phần thân trên của cô ấy.
Có thể hiểu là cô ấy đang bóp cổ tôi, khuôn mặt, và mái tóc của cô thì xõa xuống tựa như những tấm rèm.
Ánh đèn phía sau làm mờ đi khuôn mặt ươn ướt đi vì khóc. Hình ảnh này thật thê lương làm sao.
Nitadori nức nở, nước mắt đọng lại ở mặt trong của cặp kính, chầm chậm rơi xuống gò má tôi. Dường như cô ấy đang muốn nói điều gì. Rồi cô hít một hơi thật dài, và thốt lên,
“T-”
Từng từ đi thực chậm, thực dài,
“ại-”
Thực tế thì, nó truyền tới khá nhanh--
“Sao-”
Nhưng tôi đoán có lẽ chính tôi mới đang cảm thấy lời nói của cô đi chậm lại.
Tại sao?
Tại sao nó lại kết thúc như thế này?
Những bóng ma ký ức cứ lập lờ trước mắt tôi.
Thứ Năm, ngày 8/5
Như mọi khi, tôi đang ngồi trên chỗ ngồi hằng ngày trên đoàn tàu tốc hành được bắt từ ga địa phương.
Một tuần sau Tuần Lễ Vàng, số lượng khách đi tàu đã giảm hẳn. Tôi có thể nói lượng khách đi tàu đã trở về mức bình thường.
Thời tiết thật trong trẻo, nhưng từ sáng sớm đã có những cơn gió lạnh thổi vi vút xung quanh.
Một cơn gió thổi ngang qua khi đang đợi tàu khiến tôi run lên bần bật. Ở Kanto nơi tôi sắp đến, gió thật mạnh, tôi mong là đoàn tàu sẽ không bị hoãn vì điều này.
Tôi nghe một bản thông báo trước khi tàu rời đi—
Tôi nhớ lại buổi After Record trong suốt tuần trước.
Thứ Sáu vừa rồi, trong buổi After Record của ‘Vice Versa’.
Nitadori đã diện một bộ đồ đơn giản tiện cho việc di chuyển, cô ấy đã tới điểm hẹn sớm hơn cả ban biên tập và tôi, gặp gỡ rất nhiều tiền bối.
Sau đấy, buổi thu âm bắt đầu.
Tập 5 của anime-
Trận chiến đầu tiên trong ‘Vice Versa’ đã nổ ra.
Một nửa của tập anime ‘phần A’ đã được lồng tiếng, Shin đã biết cuộc chiến của Sin.
Sin chỉ tỏ ra yếu lòng trước cô em gái Ema của mình. Nói thật ra, Sin ghét chiến tranh, nhưng đó lại là cách duy nhất để cứu đất nước của mình.
Và thế là Shin, vô tình biết được chuyện này nên đã quyết định thế chỗ Sin để vương quốc của Shin không phải ‘thua’ trong cuộc chiến.
Shin cải trang thành Sin, và để bản thân bị bắt giữ bởi quân của Pluto.
Ở thành phố cổ nơi mà doanh trại địch đóng quân, Shin đã bị điều tới chỗ Pluto – và dễ dàng bị phát hiện là kẻ giả mạo.
Chúng tôi đã bắt được Sin!
Những thuộc cấp báo cáo, nhưng Pluto lại quát lên,
“Lũ ngu! Nó chỉ là một thằng giả mạo! Nhìn mặt thằng này giống một đức quân vương không hả?”
Shin gật đầu,
“Giống mà.”
Và Pluto đứng trước mặt Shin, cười một cách thân thiện,
“Tốt lắm. Tao có lời khen cho mày khi dám lẻn vào đây một mình như thế.”
“Cả-cảm ơn ngài ! Vậy tôi đã được tha chưa?”
“Chắc chắn rồi, tao sẽ trả mày về con đường mày đã chọn.”
Ngay sau đó, Pluto rút ra một thanh kiếm, và chém Shin.
Xác của Shin lìa ra từng mảnh.
Thế là hết một phần của tập này, và quảng cáo chèn vào.
Với buổi After Record anime—
Trước khi thu âm các phân đoạn chính, các seiyuu phải tập duyệt, (Thường thường, nó sẽ là hai lần, nhưng nếu thời gian thu âm tại studio là không đủ, họ chỉ cần thu âm thử một lần), rồi thu âm thật, kiểm lỗi sai, và kiểm duyệt đoạn thu âm đấy.
Tôi chả có biết nó có diễn ra như thế với các anime khác hay không, nhưng với ‘Vice Versa’ thì là như vậy.
Thời gian nghỉ sau phân đoạn ‘Phần A’ sắp kết thúc.
Các seiyuu bắt đầu thu âm phân đoạn ‘Phần B’.
Ở phần đầu của phần B, giọng của Mitsuka cuối cùng đã cất lên.
Chả ai khác ngoài cô nàng mắt cận dễ thương thích sashimi thịt ngựa ngồi sau tôi ở trường và ngồi cạnh tôi trên tàu vào ngày trước đó cả.
Giữ bản thảo trên tay, đứng trước micro trong căn phòng cách âm.
Ngay bên cạnh cô nàng là anh diễn viên thu âm nổi tiếng vào vai Shin. Anh ta khá đẹp trai, kĩ năng diễn xuất của anh ấy quả thực tuyệt vời, và anh ấy hoàn tất việc thu âm phần A của mình với không một lần hỏng ăn nào.
Tôi—
Và đa phần mọi người ở đây đều nhận thấy.
Tờ kịch bản trên tay Nitadori đang rung lên.
Tất nhiên là giấy và chữ trên tờ giấy không thể tự nó rung lên rồi.
Mà là bàn tay trái Nitadori đang run nhè nhẹ.
Mặc dù bàn tay cô không run nhiều, nhưng trước cảnh cuối của kịch bản nó đã rung lên rất dữ dội.
Miệng Nitadori mở yếu ớt, và cô nàng tựa như đang lẩm bẩm điều gì.
Thậm chí ngay cả micro cũng không thể thu được giọng của cô, bởi thế tôi đoán cô nàng có thể đang lẩm bẩm trong đầu thôi. Mà việc này diễn ra một lúc lâu.
Cả hai tay cô nàng run lên, miệng cô ấy thì mấp máy liên tục như đang niệm chú.
Tôi nghĩ Nitadori đang thật sự rất lo lắng--
Tôi đang ở trong chỗ quan sát bị cách âm bởi hàng lớp thứ, nên hoàn toàn không hiểu gì.
Đây là lần đầu tiên cô ấy cất giọng cho một nhân vật được điểm mặt đặt tên.
Đây cũng là cảnh đầu tiên nhân vật mà cô nàng thủ vai có đất diễn.
Và ở trong studio, người duy nhất ‘muốn né tránh khoảnh khắc này’
Là tôi.
Nhưng bất kể suy nghĩ của tôi thế nào thì màn hình khắp nơi cũng đang phát lên những thước phim.
Sản phẩm ‘Vice Versa’ chiếu lên thật tuyệt, hầu hết cảnh phim đều sánh ngang với chất lượng của các chương trình thực tế (mặc dù không có phần âm thanh).
Tôi nghe từ biên tập viên rằng đó là sự nhận xét vô cùng hiếm thấy.
Trong suốt buổi After Record của đa phần các anime, hình ảnh được chiếu sẽ chỉ là những khoảnh khắc của các nhân vật, không có màu, hoặc là hình ảnh manga phân cảnh đó thôi. Ở trong các trường hợp ấy, họ sẽ làm dấu hiệu cho seiyuu biết khi nào tới lượt nhân vật nào nói.
Theo như một bài trên tạp chí tôi đọc, một khi anime được hoàn thành, sẽ là dễ dàng hơn cho các seiyuu hóa mình vào các nhân vật.
Phần B—
Cảnh của Mitsuka là phân đoạn mở đầu, khi cô đang đẩy chiếc xe thổ chứa xác của Shin.
Địa điểm là ở tầng hầm tối vắng người của lâu đài.
Mitsuka đang làm theo yêu cầu của chủ nhân, lặng lẽ đẩy xác chết của Shin đi đổ.
Cô ấy đổ xác chết của Shin cuốn theo ống thoát nước. Có vài âm thanh vọng lên.
Mitsuka thoạt rời đi sau khi hoàn thành lời dặn dò của chủ nhân, nhưng đột nhiên nghe thấy tiếng nước, cô ấy quay lại, và nhận ra Shin đã hồi sinh.
"KYYYYYYYYYYYYYYYAAAAAAAAAAAAA!!!"
Thoại đầu tiên của Mitsuka là hét lên một tiếng chói tai.
Ở trong bản gốc tiểu thuyết, tôi đã viết,
“Tiếng hét của cô nàng làm rung chuyển cả cái hầm”
Tôi thích nhìn các seiyuu diễn xuất và xem họ như những ngôi sao.
Bởi thế, trong suốt năm tuần liền tôi quan sát After Record, tôi đã vui đến mức quên béng mất rằng mình đang làm việc và cứ thế ngồi tận hưởng diễn xuất của các seiyuu.
Sự diễn xuất của những giọng seiyuu nổi tiếng thật là trên cả tuyệt vời, tôi cảm thấy mình đến đây mỗi tuần chỉ để làm khán giả cho buổi trình diễn của họ.
Và sau đó—
Tới lượt của giọng nàng seiyuu trẻ tuổi, cô nàng bé tuổi hơn tôi đang rất lo lắng, bàn tay cô lúc nào cũng run run.
"KYYYYYYYYYYYYYYYAAAAAAAAAAAAA!!!"
Dù tiếng hét ấy không làm rung chuyển những hòn đá dưới tầng hầm, nhưng nó lại khiến đáy tim tôi rung động.
Tôi chẳng nhớ chính xác khi nào tay Nitadori ngừng run.
Bởi nếu run thì việc ghi âm sẽ bị ảnh hưởng, vì vậy, có lẽ cô nàng nên lấy lại sự bình tĩnh trước khi phần ghi âm bắt đầu.
Phần lồng tiếng của cô nàng diễn ra trước mắt tôi khiến tôi hoàn toàn bị mê hoặc.
Shin, người mà tưởng như “đã lên bảng đếm số”, thân thể đã được nối liền lại và hồi sinh dưới lòng nước.
Tại sao anh ấy lại “đếm số” lâu tới vậy ? Người đọc thường đặt ra câu hỏi như thế mỗi khi tới phân đoạn này. Lúc đấy, tôi chỉ quan tâm việc miêu tả nên quên mất lí do tại sao anh ta lâu được hồi sinh.
Với cả, khi Shin bị phanh thây, quần áo anh ấy cũng đi đời, bởi vậy ở cảnh này, Shin hoàn toàn không mặc gì cả.
Anh ấy khỏa thân trước mặt nhân vật nữ của chúng ta.
"..."
Mitsuka đơ ra, và khuỵu xuống sàn nhà, á khẩu.
Thông thường, trong tiểu thuyết, phân đoạn này được thể hiện bằng một dấu chấm lửng--
Nhưng ở trong anime, seiyuu sẽ dùng nhịp thở của mình để người xem có thể hiểu tại sao nhân vật lại chìm vào im lặng. Trong trường hợp này, Mitsuka đang vô cùng sợ hãi.
Tôi nghe thấy hơi thở của Nitadori khi cô ấy run rẩy vì sợ hãi.
"Arghh! Lạnh quá! Thiệt là muốn đóng băng tới nơi!"
Và Shin cố tình nói một cách phóng đại để khiến cô gái này (dù cô là một homunculus[note47095]), dù đang rụt rè nhìn anh vẫn sẽ không cảm thấy sợ hãi.
"Erm, xin lỗi khiến em sợ--eh, woah!”
Shin đột nhiên nhận ra anh ấy đang khỏa thân, đen hơn là chẳng có gì xung quanh để anh ấy che thân cả.
"Lạnh chết mất!”
Shin quay lưng về phía Mitsuka, xoa xoa cả hai tay lên người cho ấm.
Tới đây, tôi thấy phần dưới của Shin được che mờ đầy tinh tế bởi cơ thể của Mitsuka hay cây đuốc trên tường--
Hơi “hòa hợp với thiên nhiên”, nhưng cũng được.
Sau đó, Mitsuka hỏi,
“A-anh... sẽ không giết em phải không?”
Thay vào đấy, Shin quay lại, hỏi một câu với ánh mắt ngu ngơ.
“Hm? Tại sao phải giết em?”
“Em là kẻ thù của anh... và đang cố giết anh.”
Mitsuka ngập ngừng đứng dậy và đáp lại.
“Ah... cũng đúng, nhưng anh đoán cũng ổn mà. Muốn giết anh thì giết đi. Dù sao thì, điều đó cũng chẳng có tác dụng gì cả, anh nghĩ em không nên làm như vậy...”
“...?”
“À thì, anh là bất tử... ở thế giới này... như em đã thấy, phải không?”
Mitsuka mở to mắt nhìn Shin một hồi lâu. Màu mắt của cô thật khác lạ, một mắt màu đỏ của tựa rượu vang, một mắt thì ánh lên sắc vàng, và chúng tô điểm cho nhau.
Sau đó, Mitsuka nói trong khi ngấn lệ.
“Nếu em cũng không thể chết... nếu có thể, em có thể chiến đấu và bảo vệ chủ nhân của mình rồi...”
“Số phận con người là được sinh ra và chết đi. Nó đúng với anh luôn, nhưng sự có mặt của anh ở đây là ngoại lệ... anh chỉ mới tới thế giới này một thời gian... nên anh không biết làm cách nào để trở về thế giới của mình.”
Nghe được những tâm sự buồn bã của Shin, Mitsuka chua chát nói.
“Nhưng em không phải là con người!”
"...?"
Shin nghiêng đầu.
Sau đấy, Mitsuka tuôn ra một hàng dài như một bài diễn văn.
Và cô ấy đang cười, không phải một nụ cười hạnh phúc, mà là một nụ cười cay đắng.
“Em là Homunculus, một sinh vật sống— chứ không phải là một con người!”
“...”
“Nhìn vào mắt em đi! Thấy không, hai mắt trái phải có màu sắc khác nhau! Nó là đặc điểm của một homunculus... anh có lẽ không biết đâu, đúng không? Nguyên liệu để tạo ra chúng em phải được lấy từ xác chết. Khi mới được tạo ra, chúng em chỉ có một mắt thôi. Nhưng sau đó, chủ nhân đã gắn vào tụi em... một viên đá quý. Đó chính là con mắt còn lại. Con mắt ấy là biểu tượng cho sự trung thành, và cũng là để nhắc nhở rằng chúng em không phải con người.”
Khi cô ấy hoàn tất câu nói ấy, bộ phim chiếu cảnh ‘lúc con mắt được gắn vào’.
Nó có lẽ rất kì cục khi chiếu trực tiếp như vậy, bởi thế trong anime chỉ chiếu lướt qua.
“Em là một homunculus, chỉ sống vì lợi ích của chủ nhân...”
Mitsuka đang tự độc thoại.
Cô ấy lẩm bẩm trong khi tay cô chắp ra đằng sau hông. Gài ngang hông của cô nàng là đôi dao găm yêu quý được buộc chéo.
Đoạn hồi tưởng được phát lên, chiếu về quá khứ của Mitsuka.
Quá khứ của cô hiện lên trên màn ảnh. Ai ai cũng nhìn cô chằm chặp như thể cô là một con quái vật đáng ghê tởm. Ở thị trấn, cô bị mọi người khinh bỉ, và đôi lúc còn bị đối xử tàn nhẫn một cách phi lý.
Về phần này--
Thậm chí đến tôi cũng nghĩ là nó quá ‘bi kịch’ đi.
Loài homunculus trong ‘Vice Versa’ thật sự thiếu may mắn.
Họ được sinh ra chỉ để làm nô lệ, và phải nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của chủ nhân. Với đôi mắt độc nhất như vậy, họ bị mọi người xa lánh, kì thị và không được xem như một con người.
Sức mạnh thể chất của Homunculus cao hơn con người rất nhiều, và nếu họ có ác tâm, họ có thừa khả năng để trừ khử chủ nhân của mình nếu hắn ta bất cẩn, nhưng họ không thể làm vậy. Bởi trái tim của họ đã được thấm nhuần chân lý ‘phải hoàn toàn trung thành với chủ nhân’.
Với những đặc tính như vậy, chủ nhân của homunculus sẽ chỉ nghĩ họ như là ‘một con rối biết nhận thức’.
Ừ thì, tôi thậm chí có viết về mối quan hệ giữa Pluto và Mitsuka (và Pluto thật ra là con gái) là một mối quan hệ đẹp giữa chủ nhân và đầy tớ.
Pluto là một con người tàn ác và máu lạnh. Cô ta coi cấp dưới như nhau, kể cả có là homunculus hay người.
Nói cách khác, cô ta bắt thuộc hạ làm tất cả những gì cô ta muốn, và thuộc hạ của cô ta luôn làm hết sức để hoàn thành yêu cầu của chủ nhân.
Shin nghe từng câu từng chữ của Mitsuka và rồi quay lại.
Shin muốn nói điều gì với cô, và thế là anh ấy quên béng là mình đang khỏa thân, anh ấy thốt lên một cách nghiêm túc.
“Nào, đừng có so sánh bản thân em và con người. Em – em chính là em dù có thế nào đi chăng nữa.”
Tay Mitsuka khẽ hạ xuống, dường như không muốn nắm lấy chuôi dao găm sau lưng.
“...”
Lần đầu tiên được nhìn nhận như một ‘con người’, cô ấy mở to mắt.
“Ugh, lạnh quá...”
Để tiếp tục cuộc chiến với Pluto, Shin vẫn phải bước đi mặc dù cảm thấy rất lạnh.
Chiến lược là như vầy, Shin và Sin thống nhất là Shin sẽ tạo ra một cuộc náo loạn, sau đó chết đi, rồi được hồi sinh, rồi chết lần nữa, khiến doanh trại địch hỗn loạn. Anh ấy là nhân vật chính, nhưng hành động của anh ấy như một xác sống hay như một quỷ vương trong bộ phim kinh dị vậy.
Shin vẫn tiến bước để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
“Khoan !”
Mitsuka gọi với lại bằng một giọng nghiêm túc. Đột nhiên, Mitsuka trông khác hẳn so với trước đó, cô nàng không còn nói chuyện một cách hình thức nữa. Đây là lần đầu tiên Mitsuka như vậy.
“...”
Thế tức là phải chiến đấu sao? Shin buồn bã quay lại, nhưng nhìn thấy Mitsuka đang tháo cái khăn choàng trên cổ ra, đưa cho anh, và nói,
“Đây... xin anh hãy dùng thứ này...”
“Eh ?”
Shin do dự hồi lâu, rồi mỉm cười.
“Oh !”
Anh ấy lập tức cười rạng rỡ, nhận lấy chiếc khăn choàng bằng cả hai tay, nhưng khi Mitsuka đang định đeo ngang hông của mình thì anh ấy bảo khựng lại --
“Anh đoán sau cùng nó phải như vầy.”
Anh ấy buộc nó xung quanh cổ mình.
Nhân vật chính—
Đang khỏa thân, và đeo độc một cái khăn choàng.
À thì, tôi chỉ mường tượng ra câu chuyện như vậy trong đầu thôi.
Chứ sự thật, sau khi lên phim, nó nhìn khá hài. Anh ấy nhìn như một thằng biến thái không biết xấu hổ vậy.
Tiếng cười vang khắp cả phòng điều khiển.
“Cảm ơn, nó ấm áp lắm.”
Shin cười với Mitsuka rạng rỡ.
“Nhưng tôi cần một cái quần cơ...”
Shin cười lớn và chạy ngay đi.
“...”
Em đã tha cho kẻ thù của Chủ nhân. Nhưng em đã hoàn thành nhiệm vụ vứt bỏ xác chết rồi, và Chủ nhân không bao giờ ra lệnh em làm bất cứ thứ gì nữa. Dù là kẻ thù của Chủ nhân, nhưng anh ấy lại xem em như một con người, nhưng—
“...”
Mitsuka bắt đầu cảm thấy thật mâu thuẫn, và cô nàng thờ dài một tiếng, rồi nhìn anh ấy rời đi.
Trước mắt của cô là một bộ mông đang lắc lắc.
Nitadori không làm sai bất cứ phân đoạn nào trong lần tập dượt này.
Bên giám đốc âm thanh đang cho tất cả mọi người những hướng dẫn cụ thể, nhưng là một thằng nghiệp dư, tôi không hiểu gì hết á.
Sau khi hướng dẫn xong, giám đốc âm thanh hỏi tôi,
“Sensei, có điều gì sai sót với phân đoạn của Mitsuka không?”
“À, không!”
Tôi ngay lập tức trả lời.
Sau đó, mọi người tập dượt thêm một lần nữa, và bắt đầu bước vào công việc thu âm chính—
Còn tôi, tất cả thứ tôi làm chỉ là đứng xem và để bản thân thưởng thức nghệ thuật, con tim tôi gào thét ‘wow, thật tuyệt vời.’
Tôi cho rằng nếu mà mình sửa lỗi trong phân đoạn diễn lại của Nitadori, tôi có thể thấy được Nitadori từng thế nào. Nhưng mà, công việc phải khác với ở trên lớp chứ--
Tự nhủ vậy, tôi chỉ đơn giản là quan sát màn biểu diễn của những seiyuu chuyên nghiệp.
Vào ngày hôm đấy, một việc nữa đã diễn ra.
Thời gian là sau khi buổi ghi âm kết thúc.
Tôi rời phòng điều khiển vài phút để trò chuyện với nhà làm phim và biên tập viên một chút.
Tôi rời sảnh đợi và đã bắt gặp diễn viên lồng tiếng thủ vai Shin đang trò chuyện với Nitadori gần bức tường.
Đây chẳng phải là việc tiền bối nói chuyện với hậu bối à, nhưng hình như Nitadori đang cúi thấp đầu, và cô nàng nhìn không ổn chút nào.
Có lẽ dùng từ thế này nghe không phù hợp cho lắm, nhưng câu ‘một chàng seiyuu đẹp trai đang tán tỉnh một cô nhóc cao trung’ vừa chạy vèo qua đầu tôi.
Sau khi đã xác nhận đúng là giọng của người thủ vai Shin, tôi liền tìm trên mạng—
‘Tên diễn viên đẹp trai làm ô nhục biết bao nữ đồng nghiệp’
Tôi tìm thấy một trang web nói về tin đồn như vậy, và xem qua chúng.
Có rất nhiều thứ có thể khai thác trên trang web này, nhưng tôi không biết nó có đáng tin không. Bên cạnh đó, tôi cũng đã quyết định không nên dễ dàng tin vào những lời đồn rồi (nếu tôi có tin đi nữa thì có lẽ chỉ là ‘một nhà văn nữ tầm 30 tuổi sử dụng tên giả và để viết về tình yêu đồng giới’).
Cá nhân tôi thì không ghét thằng cha này.
Tôi nghĩ giọng nói và diễn xuất của anh ta là hoàn hảo, rất hợp với vai diễn Shin, người hơi nhút nhát, và chỉ có thể trở nên mạnh mẽ qua từng ngày.
Nhưng sau khi tôi thấy anh ta nói chuyện vui vẻ với Nitadori như thế—
Thằng cha này giống như một tên phù thủy ác độc đang cố mang Nitadori tới thế giới khác mà tôi không thể nào biết được.
Mặc dù vậy, đây không phải là thứ mà tôi nên nói ra, nên tôi mặc kệ.
Tôi bảo với biên tập viên,
“Em về trước đây.”
Đó là câu mà bạn có thể sử dụng trong bất cứ trường hợp nào cũng được, nhưng ngay khi tôi vừa tính rời đi,
“Ah, sensei! Đợi đợi!”
Một giọng nói gọi với tôi lại. Đó chắc chắn là giọng của Shin, khiến tôi nghĩ như mình đã lạc vào thế giới ‘Vice Versa’ vậy.
Tôi ngừng bước, quay người lại, và anh ta hỏi tôi,
“Yo, cậu nghĩ sao về diễn xuất của em ấy?”
Em ấy, chắc là nói tới Nitadori rồi. Nếu nói về điều này, tôi đánh giá cao diễn xuất của cô nàng.
Tôi đã ngạc nhiên rồi nhưng trông Nitadori còn có vẻ ngạc nhiên hơn.
“...”
Đôi mắt của cô nàng mở rộng ngơ ngác, có cảm giác như mắt cô nàng như sắp rơi ra khỏi cái kính mà cô đang đeo ấy chứ.
Tôi chỉ đơn thuần là liếc nhìn Nitadori, và lập tức quay mặt trở lại nhìn thằng cha seiyuu với khuôn mặt đẹp trai ấy.
“Rất tuyệt vời.”
Tôi trả lời sao cho nghe có vẻ thành thật nhất có thể.
Thằng cha ấy không phải là cái gương, bởi thế tôi không thể biết trông mặt mình thế nào cả.
Và tôi không hiểu sao thằng cha này đột nhiên bật cười.
“Tất nhiên, phải không? Tôi đang nói về chuyện đó với Nitadori đấy.”
Nhưng sau đấy, thằng cha này lại hỏi,
“Tôi nhớ cậu 17 tuổi đúng không, sensei?”
Tôi gật đầu, và anh ta chỉ tay vào Nitadori, nói tiếp,
“Tôi nghe bảo em ấy mới 16 thôi. Thật không thể tin được. Cả hai em đều quá trẻ.”
Sau đó anh ta than thở,
“Từ giờ... chắc có lẽ đã tới thời kì cho thế hệ trẻ rồi...”
Từ từ đã. Anh ta chắc tầm 25 tuổi.
Trước khi tôi có thể hiểu ẩn ý của anh ta là có ý gì, anh ta lại nói,
“Nitadori. Sensei đây sẽ viết các truyện mà làm thành anime. Tôi biết sensei có tầm nhìn xa trông rộng. Còn tất cả những gì tôi có chỉ là đôi tai sắc sảo, vẻ ngoài ưa nhìn. Nói cách khác, em nên tìm kiếm sự quan tâm từ sensei từ bây giờ, em nên bắt tay với sensei và tăng cơ hội nói chuyện với cậu chàng này.”
Tôi cạn lời trước những gì của anh ta nói, và rồi anh ta lại còn giục Nitadori đưa tay ra.
Nitadori ngập ngừng đưa tay phải ra.
“Em là một tân binh, và em sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành vai Mitsuka. Xin hãy tiếp tục quan tâm em.”
“...”
Sau cuộc đấu tranh tư tưởng, tôi cuối cùng cũng phải đưa tay ra và nắm lấy bàn tay cô ấy.
Đây là lần đầu tiên tôi nắm tay một người con gái trong đời.
“Cả-cảm ơn em.”
Vừa nói, tôi vừa nắm lấy tay Nitadori.
Nó thật sự, thật sự rất--
Lạnh.
Và tôi đắm chìm vào suy nghĩ của riêng mình.
"Yahoo!"
Nitadori đã ngồi kế tôi trước khi tôi nhận ra, và chúng tôi ngồi gần nhau tới nỗi tôi có thể cảm thấy đẩy nhịp thở của cô ấy ngay khi cô nàng cất tiếng chào, và điều đó khiến tôi giật bắn người.
"Woah!"
Tôi bất giác la lên, hơi giật mình, rồi cuối cùng là lùi giật lại và chạm lưng vào thành. Nitadori cười nắc nẻ, và hỏi.
“Anh làm sao thế ?”
"..."
Trong khi đoàn tàu tăng tốc dần lên....
Tôi đã mường tượng lại hình ảnh Nitadori tuần trước, và so sánh hình ảnh của cô tuần này. Sự khác nhau của họ khiến tôi bối rối làm sao.
Không. Đều là Eri Nitadori mà.
Tôi biết tôi là người đang lạc trôi trong dòng suy nghĩ của mình.
“Sensei, anh trông đang suy tư xa xăm thì phải. Có phải anh đang nghĩ về một điều gì à? Liệu có phải là về tác phẩm tiếp theo?"
“À ừ, chắc thế.”
Tôi trả lời lập tức. Đó là lời nói dối, nhưng nó được nói ra thật ngọt. Không, nó không hoàn toàn là lời nói dối; tôi có thể nói rằng những thứ tôi nghĩ là về công việc trong tương lai. Nó sẽ ổn nếu việc đó là ý tưởng về cuốn light novel tiếp theo của mình mang tên ‘Bạn học tôi là một seiyuu’.
“Wow, ngầu đấy; như một nhà văn thực thụ vậy.”
"..."
“Eh? Câu trả lời mọi khi đâu rồi ạ?”
“...Rõ ràng tôi là một nhà văn mà.”
“Được đấy chứ.”
Thay vì Nitadori sử dụng kính ngữ,
“Xin chào. Ngay tại đây! Món cho hôm nay là Katsudon!”
Tôi lại thích Nitadori đưa tôi bịch khoai tây chiên với một nụ cười trên môi hơn.
Well, tôi đoán vấn đề chỉ là sự đối lập mà thôi.
Tôi lấy trong túi ra một bịch khoai tây và một chai trà, và Nitadori nói,
“Em có vài điều muốn hỏi anh, được hông?”
“Như phỏng vấn á hả? Thật lòng thì, ở đây cô đã hỗ trợ tôi rất qnhiều. Tôi tự hỏi không biết hôm nay nên nói gì?”
“Wow. Cảm ơn vì đồng ý ạ.”
Nitadori lấy ra một quyển sổ nhỏ và mở nó.
Tôi liếc nhìn và phát hiện ra vài dòng chữ thú vị.
“Ah!”
Nitadori vội che đi câu hỏi, có lẽ cô ấy không muốn tôi biết trước chúng.
Tôi đoán hiện giờ không ai phải vội, và tôi thong thả nhấm nháp gói khoai tây và nhâm nhi chai trà.
Tôi đã mời Nitadori làm vài miếng, nhưng như trước giờ vẫn vậy, cô ấy từ chối.
Tôi đoán cô nàng đang cố gắng không phiền tôi? Hoặc đơn giản cô nàng từ chối vì lo lắng về việc ăn trên tàu là không lịch sự? Hay là — cô nàng đã ăn trước khi lên tàu mất rồi?
Tôi không biết ý định của cô nàng là gì (tôi đoán tôi phải nghĩ thôi), nhưng tôi thật sự không thể ép cô ấy phải ăn cùng mình được. Tôi ăn tới gói thứ ba rồi, kèm với đó, là uống miếng trà.
“Bây giờ -- hỏi gì hỏi đi nào.”
Khi con tàu đang chạy ngược chiều gió, tôi cất lời.
Vẫn còn khoảng 3 tiếng trước khi tới nơi, tôi đoán chúng tôi sẽ có một cuộc trò chuyện rất dài.
“Đầu tiên, em xin hỏi... thật ra, em không biết có nên hỏi điều này...”
Hiếm khi Nitadori lắm bắp như thế này.
“Eh ? Erm...”
Dù câu hỏi có thế nào đi chăng nữa, tôi cũng đã chuẩn bị cả rồi.
Giọng Nitadori có vẻ như có một chút hối lỗi trong khi cô nàng tiếp tục,
“Eh, em nghĩ... em không nên hỏi những câu hỏi đó. Nhưng em vẫn rất tò mò.”
Nitadori muốn biết cái gì về tôi nhỉ? Tôi khẽ run vì lo lắng.
“Ah.”
Tôi lập tức nghĩ tới vài khả năng. Tôi thở phào nhẹ nhõm nếu câu hỏi là về những điều đó.
Sau đấy, tôi hỏi, chỉ đề phòng thôi,
“Có lẽ-- cô muốn hỏi về thu nhập của tôi à ?”
“Ơ, anh có siêu năng lực à...?”
Nitadori bất ngờ.
“Không, tôi chỉ là một nhà văn bình thường thôi.”
Đầu tiên, tôi đáp lại, và sau đấy, Mình có đoán sai không nhỉ? Tôi tự hỏi lại.
Nitadori trông có vẻ ngượng ngùng khi cô nàng trả lời,
“Dạ đúng... về thu nhập ạ... em biết nó không lịch sự khi hỏi vậy.”
Sau đấy, cô nàng nhìn tôi đầy mong đợi,
“Nhưng cuối cùng em cũng tìm thấy ai đó am hiểu điều này, nên em muốn biết người ấy có đồng ý không. Em cảm thấy trong tương lai, em sẽ không còn thấy ai như vậy để mà trả lời em những câu hỏi này nữa.”
Và Nitadori đang bắt đầu bộc lộ mong muốn dữ dội,
“Yeah, được rồi.”
Tôi trả lời kịp thời trước khi cô nàng tăng động lên.
Vấn đề là hỏi một người nào về thu nhập anh ta thật sự rất thô lỗ, thậm chí với tôi, một thằng học sinh cao trung, cũng biết điều đấy là không nên.
Việc kế tiếp là kết thúc chủ đề này—
Ở New Zealand, vùng đất nổi tiếng về cừu, không ai hỏi người chủ nông trang về số cừu họ nuôi cả. Bởi người ta có thể ước lượng được thu nhập của họ qua số cừu họ nuôi.
Đó là thông tin vặt tôi đọc được trên một tạp chí lá cải, không biết có thật hay không. Tuy vậy, nếu tôi tới đó, tôi có lẽ cũng cố gắng hỏi mấy câu hỏi tương tự vậy, thế nên tôi nghĩ tôi nên tập trung vào vấn đề này.
Quay lại chuyện trước đó.
Tôi biết thật là không lịch sự khi hỏi thu nhập một người.
Nhưng tôi biết những câu hỏi như vậy đặt ra được thúc đẩy bởi mong muốn hiểu rõ thu nhập của những nghề nghiệp độc đáo.
Khi tôi còn nhỏ, tôi cũng muốn biết về thu nhập của một nhà văn. Và thế nào là ‘sống nhờ tiền nhuận bút’, và số tiền thuế phải trả.
Khi tôi đã trở thành một nhà văn thực thụ, có tiền nhuận bút và có kinh nghiệm trong việc kê khai thu nhập, tôi trở nên hiểu chúng hơn.
Về thu nhập của tôi thì—
Thật ra, tôi không nói với mọi người xung quanh rằng tôi là một nhà văn; nếu ai đó biết tôi là nhà văn, tôi cảm thấy tôi sẽ không còn được đối xử như bình thường nữa.
Bỏ qua ý kiến của mẹ tôi sang một bên, cho tới thời điểm này, tôi thường trao đổi một cách thẳng thắn với các nhà văn khác về vấn đề trên trong suốt các buổi uống nước sau cuộc họp, và các bữa tiệc tất niên trong suốt hai năm qua.
Tất nhiên, chúng tôi không chỉ bàn về việc đó chỉ vì tò mò.
Khi sách của tôi bán chạy, những nhà văn khác bắt đầu nói với tôi về việc giảm thuế.
Một vài nhà văn còn nói với tôi thu nhập hằng năm của họ cơ (như ngụ ý trên, thu nhập của những nhà văn nổi tiếng thật sự ở quy mô khác với phần còn lại).
Tôi sẽ không nói với bất cứ ai thu nhập của các nhà văn ấy hằng năm. Tại lúc ấy, tôi không nghĩ Nitadori sẽ bỏ qua bất cứ thứ gì tôi đã nói.
Bên cạnh đó, tôi không nghĩ rằng Nitadori tiếp cận tôi vì muốn ‘đào mỏ’.
Hay tôi nên nói, mặc cho nó chỉ là một suy đoán thôi—
Có cảm giác nhà Nitadori rất giàu có.
Khi nghe câu trả lời từ tôi,
“Thật sao? Về số tiền đấy...”
Cô nàng kính cận Nitadori hỏi tôi với vẻ mặt lo lắng.
“Yeah, chắc chắn. Well, về cơ bản, giữ bí m...”
“Em sẽ không nói cho ai về điều này đâu! Em hứa!”
Cô nàng đã trả lời trước khi tôi kịp nói hết câu.
Tôi đã quyết định nói với Nitadori, nên trước đó tôi cũng đã nhìn xung quanh xe lửa để đề phòng.
Con tàu hôm nay khá vắng, chỉ có hai hành khách ngồi ở hàng ghế trước bên phải.
Thu nhập của một nhà văn.
Như mọi người đã biết, thu nhập của một nhà văn chủ yếu dựa vào phí xuất bản của một quyển sách.
Thêm vào đó, có vẻ còn có ‘phí bản thảo’ cho các ấn phẩm của một tạp chí hay tờ báo, ‘phí trò chuyện’ cho các buổi gặp gỡ, phát biểu, ‘phí nguồn’ và ‘phí bản quyền’ đối với anime chuyển thể hay là phim dựa theo, nhưng tôi chẳng bao giờ nhận được chúng cả.
Bộ anime thì chưa hoàn thành, bởi thế tôi chưa được nhận phí liên quan về việc này.
“Bởi vì điều đó, quy mô của của việc này sẽ là chi phí xuất bản của công ty. Hay chính xác hơn, tôi chỉ nói về chi phí xuất bản.”
"Yep."
“Bây giờ, trước khi tôi nói về việc phí xuất bản là bao nhiêu—Tôi muốn nói về định nghĩa cái đã.”
“Nó là Quyền tác giả, phải không? Nhà xuất bản sẽ in sách của anh, sensei, bởi thế số tiền này là tiền “phí bản quyền’ trả cho anh.”
“Yep. Ấn tượng đấy.”
“Thật ra, em có tìm hiểu trên mạng khi em đặt câu hỏi về việc này. Em thậm chí còn tìm hiểu xem tại sao nó lại gọi là ‘phí xuất bản’! Không phải là ‘thuế’, đúng không?”
Đúng như Nitadori đã nói, phí bản quyền không phải là thuế.
Khi nhà xuất bản in những tập sách, họ sẽ gắn tem riêng của mỗi tác giả ở trang cuối quyển sách, nó được gọi là ‘colophon’, hay gọi là ‘tem kiểm duyệt’. (Một vài con tem được đóng dấu trực tiếp trên quyển sách). Nhà xuất bản sẽ dùng những con tem kiểm duyệt này để trả tiền trực tiếp cho các tác giả.
Hệ thống tem đó tựa tựa ‘phí in ấn’, (như một loại thuế với tác giả), nó cũng được gọi là ‘phí ấn phẩm in ấn’, và sau đó gọi tắt là ‘phí xuất bản’.
Mặt khác, ‘phí ấn phẩm in ấn’—là tiền được trả khi sản xuất sách. Tác giả của những quyển sách đó được trả dựa vào ‘phí xuất bản’ theo tỷ lệ giá của quyển sách đấy.
Cuối cùng, mọi người từ bỏ cái phương pháp quá rắc rối ấy, và chọn không kiểm tra in ấn nữa, bởi thế phương pháp này đã bị loại bỏ.
Ở trong những quyển sách cũ, bìa cuối của nó sẽ có dòng chữ ‘tem kiểm duyệt đã bị loại bỏ’. Tôi đã thấy những quyển sách như vậy trong hiệu sách cũ rồi.
“Well, thậm chí nếu tôi không biết lịch sử của nó... dù sao thì, nhà xuất bản sẽ cấp cho nhà văn một khoản tiền bản quyền gọi là ‘phí xuất bản’—và khoản tiền ấy được đánh giá cao đấy.”
“Uh huh, vậy nó là bao nhiêu ạ, xấp xỉ ấy ạ?”
“Thông thường, chi phí là gần 10% hoặc hơn. Trường hợp của tôi tương tự thế, và bao gồm cả thuế doanh thu, 10% giá của mỗi quyển sách sẽ là phí xuất bản.”
“Luôn luôn như thế à?”
“Tôi không biết nó có thay đổi trong tương lai không. Tất nhiên, tôi hy vọng rằng nó sẽ tăng. Tôi có nghe nói rằng nó sẽ tăng tỷ lệ thuận với độ nổi tiếng của tác giả, nhưng tôi không chắc trường hợp ấy thật sự như thế nào.”
“Em hiểu rồi. Sau cùng, ta sẽ có 10% này. Nói cách khác, nếu một quyển sách được bán, giá trị 10% của giá quyển sách là thu nhập của anh, phải hông, sensei?”
Nitadori như muốn hỏi để xác nhận ý kiến của mình, nhưng tôi lắc đầu.
“Không, không hẳn.”
“Eh?”
Nó không phải là ‘khi một quyển sách được bán’.
Nó phải là ‘khi một quyển sách được in’.
Đầu tiên quyển sách sẽ được in, và điều đó tương đương với việc ‘sản phẩm được sản xuất cho mục đích thương mại’.
Và,
“Số lượng sách được in sẽ quyết định doanh thu.”
“Thế một ví dụ cụ thể--.”
Tôi biết Nitadori đang cố gắng nói những gì, bởi thế tôi tiếp tục ngắt lời cô nàng, và nói.
“Giả sử như quyển sách đó có 100.000 bản in nhé. Nhà xuất bản ước tính quyển sách đó sẽ bán được bấy nhiêu thôi—tuy nhiên, quyển sách có thể không bán được sau khi in, và thậm chí có thể chỉ có 5 bản in bán được mà thôi.”
“Nó thật khốc liệt! Vậy có nghĩa là quyển sách đó chỉ được chính anh ta và gia đình ảnh mua, đúng chứ?”
Nitadori nói và cười khúc khích, nhưng sau khi những câu nói ấy, tôi cảm thấy một chút nhói lòng. Tác giả ấy sẽ cảm thấy thế nào? Cả tôi nữa. Tôi cũng có khả năng sẽ bị như thế.
Well, sách của tôi đang bán khá chạy, bởi thế tôi sẽ không nghĩ về điều ấy nữa. Tôi tiếp tục,
“Nhưng tác giả có thể nhận được phí xuất bản của 100.000 bản in. Ví dụ rằng cuốn sách ấy giá 500 Yên, 10% của số tiền ấy là 50 Yên, và nhân lên với 100.000 bản in, đó sẽ 5.000.000 Yên.”
“Eh... Em không biết điều này. Trước đó em luôn nghĩ nó dựa trên số sách bán được chứ.”
“Như tôi đã nói, tôi biết được rằng cái hệ thống tem tủng ấy thật sự đã biến mất rồi. Dengeki Bunko đếm số lượng này thông qua số lượng ấn bản được in ra.
Đấy là, giả sử là tôi nhận được phí xuất bản là 10% giá quyển sách.
Cái tên đã nói lên nhiều điều, Dengeki Bunko là một nhà xuất bản chuyên cho sách bìa mềm. Một cuốn sách bìa mềm là như thế nào ư… Khá lằng nhằng đấy, nên tôi quyết định bỏ qua phần giải thích; dù sao thì, nó cũng chỉ là một cuốn sách giải trí bình thường thôi.
Giá của một cuốn light novel bìa mỏng dao động từ 500 tới 700 Yên. Giá cả của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, và yếu tố dễ thấy nhất là—
“Độ dày của sách? Là số lượng trang sách đúng không?”
“Tất nhiên, tôi không biết chính số tờ, trang và số lượng tập sẽ xuất bản. Đó cũng là điều mà biên tập viên nói với tôi khi tôi hỏi về giá một cuốn sách.”
“Vậy, giá của nó không do tác giả quyết định, đúng hơn là anh không quyết định, phải không sensei ?”
Tôi lắc đầu, nói,
“Nó được quyết định bởi nhóm làm phần điều chỉnh... và cao hơn, là nhà xuất bản. Như tôi đã nói rồi, cuốn sách càng mỏng thì giá càng rẻ. Lấy tác phẩm ‘Vice Versa’ của tôi làm ví dụ này, giá của nó là giá điển hình của một cuốn sách 600 trang. Thực ra, tôi muốn nó rẻ hơn nữa cơ...”
“Eh—tại sao!?”
Nitadori rất chi là bất ngờ.
Việc cô nàng bất ngờ không phải là không có căn cứ. Nếu giá bán của cuốn sách cao hơn, thì thu nhập của tác giả sẽ tăng nhanh hơn.
Nhưng dù thế, tôi vẫn nói ra suy nghĩ của mình.
“Well... đó là bởi vì theo thống kê số lượng độc giả của light novels là học sinh cấp 2 và cấp 3, và có cả những đứa nhóc tiểu học cũng đọc nữa. Tôi biết độc giả thường mua sách bằng tiền lẻ, nên thậm chí nếu nó chỉ rẻ hơn 10 Yên thôi chăng nữa, nó cũng khiến họ rất vui.”
“Ah... anh nói đúng. Em thích những cuốn sách ấy bao nhiêu, em lại càng muốn thấy những tác phẩm khác bấy nhiêu.”
Một cuốn sách càng dày thì nội dung càng rộng. Thậm chí là một tác giả, tôi vẫn thấy rất đáng khi viết một cuốn sách như vậy,
Tuy nhiên,
“Em đã tiết kiệm đủ, và giờ em đã có thể mua tập mới rồi!”
Kể cả vậy, khi tôi nhận được lời nhắn từ độc giả nhỏ tuổi hơn mình—
Tôi cảm thấy như thế là một điều tốt, nếu như nó chỉ là 10 Yên ít ỏi đi chăng nữa.
Tất nhiên, tôi hi vọng có thể thu hút nhiều người mua với giá rẻ hơn, đồng thời nâng cao số tập bán ra thị trường (và cả thu nhập nữa).
Tôi đã nói trước đó rằng tôi có tăng thêm một số đoạn văn để cải thiện khả năng đọc hiểu. Chính vì thế, tôi đôi lúc cảm thấy khó xử.
Tôi tiếp tục với phí xuất bản.
“Giá một quyển sách được quyết định bởi nhiều yếu tố. Giá xuất bản ở mức tỷ lệ phân chia là 10% và để tính được thu nhập, sẽ cần bỏ đi một yếu tố--”
“Số tập!”
“Yep.”
“Nhưng số lượng tập là như thế nào...?”
Khi đang nói về việc in ấn số lượng tập, chúng ta sẽ nói về thu nhập
Đối với một nhà văn, tổng thu nhập bằng tổng phí xuất bản nhận được. Nó giống với số cừu mà một người nông dân nuôi ở New Zealand ấy.
Khi tôi chuẩn bị giải thích điều này, Người soát vé tàu bước tới. Người làm hôm nay đây rồi.
Như thường lệ, chúng tôi đưa vé ra cho anh ta xem.
Việc giải thích phải dừng lại, tôi hít thở và uống một chút trà.
Người soát vé rời đi, và vẫn không có hành khách mới lên tàu.
Tôi tự hỏi, chính xác tôi nên bắt đầu giải thích số lượng tập được in ấn ra như thế nào—
Và rồi, tôi nhận ra tôi phải giải thích số lượng tập được in là gì trước đã.
“Erm... Tôi đề cập rằng số tập ‘in ấn’ một lúc đã...”
“Vâng.”
“Khối lượng tập được in ra có thể phân ra là ‘in lần đầu’, ‘tái bản’, và ‘tổng số bản in’.”
“Hmmm?”
Nitadori cau mày, trông rất lúng túng.
“Tôi sẽ giải thích cho—”
In lần đầu gần giống với số tập được in trong lần thứ nhất. Nếu nó có lãi, thì phần tiếp theo sẽ được in với số lượng lớn hơn trong lần đầu.
Tái bản thì có nghĩa là in thêm số lượng sách dựa vào độ phổ biến của quyển sách được in trước đó.
Và cuối cùng như tên gọi của nó, tổng số lượng in sẽ là tổng số bản in và tái bản của một quyển sách. Tuy nhiên, tổng số lượng tập sẽ được phân ra ‘tổng số tập cho một tập sách cụ thể’, ‘tổng số tập cho một loạt sách cụ thể’, và ‘tổng số tập cho một tác giả cụ thể’.
“Em hiểu rồi. Em thường nghe trên các bản tin ‘một quyển sách được bán ra một triệu bản in, tuy bản in đầu tiên chỉ là vài nghìn’, và tương tự thế.”
“Những quyển sách như vậy không thường có nhiều chủ đề cho tới khi chúng nóng lên, họ đã in và tái bản nhiều lần để rồi đạt được như vậy. Việc tái bản số lượng sách thậm chí tới vài ngàn lần trong một thời điểm.”
“Vậy nói cách khác, sẽ không có số liệu chính xác cho số lượng bản in đầu tiên và số lượng sách tái bản phải không ?”
“Chính xác. Việc in lần đầu được quyết định bởi nhiều yếu tố. Nếu đó là một loạt sách nổi tiếng từ một nhà văn trứ danh, số lượng bản in sẽ tăng lên.”
Đối với nhà văn, lần đầu được in càng nhiều tập thì họ càng vui.
Có hai lí do cho điều này. Đầu tiên—
“Số lượng sách càng được in nhiều, thì số sách trong nhà sách cũng sẽ có nhiều hơn và dễ dàng cho độc giả có thể thấy và mua được.”
“Một cuốn sách dễ thấy dễ mua thì dễ nổi tiếng.”
Lí do thứ hai là sự gia tăng của phí xuất bản (Tất nhiên, nó cũng sẽ dựa vào số lượng sách được in ra).
“Vì thế, các tác giả phải làm việc chăm chỉ hằng ngày và cầu nguyện cho sách của mình được in ra với số lượng lớn.”
“Cầu nguyện là rất quan trọng, bởi khi điều ước thành sự thật—nhưng này, sensei, truyện ‘Vice Versa’ của anh lần đầu được in với số lượng bao nhiêu vậy?”
Bỏ qua việc tái bản đi—
Tôi sẽ nói về lần đầu cuốn sách của mình được ra mắt.
“Tập đầu tiên của ‘Vice Versa’ được in lần đầu tiên với số lượng là 27.000 bản.”
“Vậy đấy là... nhiều hay ít ạ ?”
Nitadori hỏi. Tôi đã đoán trước câu hỏi này.
Bất kì ai không liên quan tới công nghiệp xuất bản sẽ không có suy nghĩ liên quan tới việc này. Đề cập đến vấn đề trên, khi biên tập viên nói với tôi lần đầu nói với tôi về điều ấy, tôi cũng rụt rè hỏi câu hỏi tương tự.
Và biên tập viên trả lời rằng,
“Nó cũng như những tác phẩm đoạt giải Dengeki Novel thôi ! Mặc dù em không chiến thắng, nhưng khởi đầu của các tác phẩm như nhau cả thôi !”
Nitadori vui vẻ thốt lên,
“Tuyệt thật ! Thế là rất tốt đấy chứ!”
“Yeah. Thật lòng mà nói, tôi cũng khá vui.”
Tôi tình cờ nhắc tới điều này—nhưng tôi nghe từ những tác giả làm việc ở các nhà xuất bản khác rằng 27.000 bản in là số lượng ‘khá lớn’. Cũng phải thôi, Dengeki Bunko mà, họ có khả năng bán hết nhiêu đấy.
Một tác giả nói rằng khi anh ta ra mắt tác phẩm của mình chỉ có số lượng ít hơn 20.000 bản, điều đấy cũng chứng minh sức mạnh của Dengeki Bunko quả là khác biệt, quả là nhà xuất bản có cổ phần lớn nhất trong công nghiệp xuất bản. Tất nhiên, tôi không bao giờ nói cho Nitadori biết về việc này.
Các nhân tố dẫn tới việc bán chạy số lượng sách sau khi xuất bản tất nhiên là do năng lực chính tác giả. Anh ta dạy tôi phải tư duy thế này ‘nếu một câu chuyện thú vị được viết ra thì nó sẽ trở nên nổi tiếng’.
Bỏ qua việc đấy, tôi tiếp tục nói.
“Sau đó, 27.000 bản in mang theo phí xuất bản đã chảy vào túi tiền của tôi. Giá của tập đầu tiên là 590 Yên.”
“Nói cách khác...”
Nitadori bắt đầu suy nghĩ kế bên tôi, trong khi tôi nhớ về cách tính toán phổ thông đã được dạy. Nhưng có lẽ tôi không có đủ khả năng để tính được số tiền ấy.”
Tôi lấy điện thoại của mình ra, mở khóa màn hình và khởi động ứng dụng tính toán.
Tôi nhanh chóng nhập những con số vào.
590 x 0,1 x 27.000 là 1.593.000 (Yên)
Khoảnh khắc tôi chuẩn bị nói ra con số ấy,
“Là 1.593.000 Yên, phải không anh ?”
Nitadori nói ra thật đơn giản làm sao.
“Eh ?”
Tôi thốt lên bất ngờ và quay mặt qua cô nàng ngồi bên phải mình.
“Hm ? Nó không đúng hở ?”
Nitadori thờ ơ hỏi lại.
“Không... nó hoàn toàn chính xác.”
Nitadori thật sự không sử dụng tới điện thoại, thậm chí cuốn sổ còn không thèm mở ra để dùng.
Thậm chí nếu cô nàng muốn nhìn vào điện thoại tôi, cô ấy cũng không thể. Tôi thường nảy ra nhiều ý tưởng trên tàu, bởi thế tôi cài đặt một ứng dụng để bảo vệ và ngăn cản người khác có thể nhìn trộm vào.
Vậy là, chỉ còn một khả năng.
“Cô vừa... tính nhẩm à?”
“Yep ?”
“Làm thế nào mà...?”
“Nhân 30.000 là em được 1.770.000 và sau đó em nhân cho 10%.”
“Ah, đúng, tôi hiểu rồi...”
Nghe cô nàng nói ra cách đấy, trông có vẻ tính toán không phải là vấn đề khó khăn gì—
Không, nó khó khăn đến phát điên ý.
Khoảng thời gian cô nàng tính nhẩm bằng với khoảng thời gian tôi sử dụng điện thoại để tính? Như thế thì Nitadori thông minh tới mức nào cơ chứ?
“Tuyệt thật...”
Tôi ngạc nhiên, rồi lẩm bẩm,
“Yep, em cũng cảm thấy thật ngạc nhiên.”
Nitadori gật đầu rồi trả lời bằng một vẻ khoái chí.
“Huh?”
“1,5 triệu là một khoản tiền lớn.”
“Ah, cô đang nói tới điều đó à...?”
“Hm?”
Con tàu vẫn vun vút chạy ngược chiều gió.
Ngoài những âm thanh bên ngoài, vẫn có tiếng gió rít lên vọng vào bên trong. À mà tới giờ này, con tàu vẫn không bị trì trệ vì bất cứ điều gì.
Well, tôi đoán con tàu chạy đường vòng cũng tốt hơn. Tôi chỉ cần tới được Tokyo trong tối là đủ.
“Em đoán... 1,5 triệu là một số tiền rất lớn...”
Tôi thoáng quên mất vụ ‘hiểu nhầm’ giữa Nitadori và mình, tôi nói lên suy nghĩ thật.
Với tôi, trong năm học đầu tiên ở cao trung, 1,5 triệu là một con số khổng lồ. Nói về điều này, tôi nhớ về lúc tôi tính đi tính lại con số này, để mà khi chấp nhận con số ấy là chính xác, tôi gần như ngất đi vì sốc.
“Mình có thể mua ô tô với số tiền này!”
Tôi la lên khắp phòng.
Mặc dù tôi không có bằng lái đi chăng nữa.
Trước khi tôi tiếp tục giải thích, tôi nghĩ tôi đã quên mất điều gì. Nó là điều gì ấy không quan trọng cho lắm nhưng tôi đã quyết định nói về điều ấy trước khi bắt đầu.
“Xin lỗi. Tôi cần phải xác minh lại vài thứ. Thật ra, tôi không nhận được phí xuất bản của đúng 27.000 bản in.”
“Eh ?”
Nitadori trông bất ngờ hơn tôi dự tính, bởi thế tôi hoảng hốt,
“Ah, không... nó không phải là vấn đề to tát đâu. Đấy là giá trị xấp xỉ của 27.000 bản in ! Nói chính xác... tôi chỉ nhận được phí xuất bản của ’26.950 bản in’ thôi.”
“Vậy... phí xuất bản của 50 bản in đi đâu ? Tại vì Angels à ?”
“Không... tiền chứ có phải rượu đâu.”
Tôi không biết Nitadori đang nghiêm túc hay chỉ là đùa giỡn, nhưng nó không quan trọng, điều tôi cần là đáp lại. Cụm từ ‘cung cấp cho Angel’ ẩn dụ cho việc phần rượu nhỏ bị bốc hơi khi pha chế và chưng cất trong thùng gỗ.
“Nhưng hai điều ấy cũng tựa tựa nhau mà.”
“Tựa là tựa thế nào?”
“Thì là 50 cuốn sách đấy. Anh nghĩ xem, nếu 50 cuốn sách ấy không thể bán thì nó sẽ không thể trở thành phí xuất bản cho anh được. Tất nhiên, em không biết nếu các ban biên tập đều sử dụng một tiêu chuẩn như nhau cho sách của anh.”
“Hiểu hiểu. Vậy ra Angels nghĩa là ban biên tập ư!?”
“Chắc thế, well... cái này còn khó giải thích hơn việc tính toán nữa, thôi, em nghĩ em sẽ giải thích việc làm cách tính được 1,5 triệu Yên từ 27.000 bản in vậy.”
“Vậy được đấy!”
Và thế là, nó trở thành phí xuất bản mà tôi lần đầu nhận được trong cuộc đời. Khi nào, và làm cách nào tôi có số tiền này—
“Tất nhiên, nó thông qua giao dịch chuyển khoản. Biên tập viên hỏi tôi về tài khoản ngân hàng, và tôi nói anh ấy tôi chưa có, và anh ấy bảo tôi, ‘tới ngân hàng và lập một tài khoản đi’. Như thế, tôi tới ngân hàng để tạo một tài khoản tín dụng. Cô chị tiếp tân ở góc đã hướng dẫn tôi nhiều thứ và sau đó còn hỏi ‘em vừa bắt đầu làm thêm à?’.”
Ngay khi tôi nói tới đây, Nitadori nheo mắt lại và nhanh chóng đổi tông giọng.
“Hey~ nó không phải là việc làm thêm mà. Anh là một nhà văn chuyên nghiệp được giới thiệu từ Dengeki Bunko đúng chứ? Và cũng là một sensei đáng ngưỡng mộ trong công việc, anh biết không?”
Nếu Nitadori đi theo tôi để mở tài khoản ngân hàng, liệu cô nàng có nói lại điều trên không nhỉ? Chỉ cần tưởng tượng thôi là đủ thú vị rồi.
“Ahaha—không không, sao tôi có thể tiết lộ danh tính của mình được?”
“Ahaha—vậy, tiếp theo thế nào?”
Lần đầu tiên một số tiền được kí gửi vào tài khoản này là 1.000 Yên—
Vào tháng tiếp theo, cuối tháng Chín, sau khi tập đầu tiên được bán ra.
Chỉ một thời gian ngắn trước khi đó, tôi nhận được một tấm bưu thiếp từ ASCII Media Works.
Tôi lật phần đính kèm, và thấy ở đó có một ‘phiếu thanh toán’.
Ghi lại trên đó là ‘tiêu đề’, ‘số lần sửa đổi’, ‘chuyên mục tài khoản (bao gồm phí xuất bản hoặc phí dự thảo, và vài thứ tương tự thế)’, ‘tóm lược (số lượng bản in, tiền, tỷ lệ in ấn)’, và tất cả thông tin đính kèm.
Tất nhiên, nó cũng bao gồm toàn bộ số tiền.
“Nó là số tiền vừa nãy phải không anh?”
“Không, nó ít hơn chút.”
“Sao nó ít hơn được?”
“Thế cô không trừ đi thuế à?”
Khi tôi bắt đầu nói chi tiết về vấn đề, nó sẽ rất dài, bởi vậy tôi đơn giản chỉ nói cho cô nàng biết về số tiền tôi nhận được.
Trước khi tiền (phí xuất bản) được chuyển vào tài khoản, nó sẽ bị trừ đi ‘thuế thu nhập cá nhân’ đầu tiên. Nó còn được gọi là ‘thuế lợi tức’, một loại thuế nhà nước đặt ra để phòng tránh việc trốn thuế.
Loại thuế này sẽ thay đổi dựa vào thu nhập của bạn, nên tôi không thể khái quát điều này.
Đó bởi vì ‘thuế’ sẽ tăng giảm dựa vào lương của bạn. Nếu lương bạn cao thì số tiền đánh thuế sẽ cao. Hệ thống này được gọi là ‘thuế suất tích lũy’.
“Tôi sẽ bỏ phần khó sang một bên. Thuế thu nhập cá nhân sẽ bị trừ đi trong phí xuất bản trước khi nó được chuyển tới tôi. Bởi thế, tôi phải làm việc chăm chỉ và khai báo thuế cho chính quyền... Tôi sẽ nói về việc này sau.”
Tôi nghĩ vẫn còn ‘điều này’ cần phải giải thích—
Tôi tiếp tục giải thích về thu nhập của một nhà văn.
“Sau khi đã trừ thuế, phần tiền phí xuất bản còn lại của tập đầu tiên được chuyển tới tài khoản của tôi, và tôi cảm thấy cực kì hạnh phúc.”
“Chúc mừng!”
“Ca-cảm ơn. Cảm ơn cô nhiều, ‘Vice Versa’ đang bán rất chạy, và nó đã sẵn sàng được tái bản rồi.”
“Nếu đúng như anh nói, số lượng sách sẽ được in thêm, đúng chứ?”
“Ừ. Người đọc sẽ thấy những cuốn sách của anh xuất hiện nhiều hơn ở các cửa hàng. Và khi nó doanh số bán tốt lên nữa, nhà sách sẽ đề nghị ‘nhà phân phối’, ‘làm ơn hãy cung cấp thêm loại sách này cho chúng tôi’.”
“‘Nhà phân phối’, là sao?”
“Erm... tên chính thức là ‘nhà phân phối xuất bản’, đó là người ở giữa nhà xuất bản và nhà sách, họ có nhiệm vụ giúp nhà xuất bản đưa sách của mình tới các nơi bán, là nhà sách.
“À.”
“Khi nhà phân phối nhận được yêu cầu từ nhà sách, họ sẽ nói với nhà xuất bản tăng số lượng sách lên. Nhà xuất bản sau đó sẽ cung cấp thêm sách được lấy từ trong kho, và nhà phân phối đơn giản là chuyển chúng tới nhà sách.”
“Em hiểu rồi... vậy nhà xuất bản luôn có một lượng hàng tích trữ, phải không ? Em đoán vậy. Không thể in sách số lượng nhiều trong một lúc được.”
“Đúng. Khi đơn đặt hàng tăng lên, thì khối lượng hàng tích trữ trong kho giảm xuống, nhà xuất bản sẽ nói, ‘được rồi, in thêm đi’.”
“Đồng ý.”
“Tất nhiên, người quyết định cuốn sách đó có được tái bản hay không không phải do tác giả quyết định, và nó cũng không thuộc về ban biên tập luôn. Tôi đoán nó phụ thuộc vào các nhà sách.”
“Em hiểu, em hiểu.”
“Với số lượng tái bản—nó thường dao động trong khoảng 2.000 tới 3.000 bản in. Theo kinh nghiệm của tôi, và từ những gì tôi nghe được từ các nhà văn khác, nó đúng là như vậy.”
“2.000 tới 3.000. Trong trường hợp đó, số tiền phí xuất bản anh nhận được—sẽ lên tới 118.000 tới 177.000 Yên.”
Lại tính nhẩm nữa rồi. Lúc này, tôi đã hiểu rằng độ thông minh của tôi và Nitadori là một trời một vực.
Tôi cảm thấy nếu tôi khen ngợi cô nàng, chúng tôi sẽ không tới được sự thống nhất chung, bởi thế tôi nói tiếp,
“Tôi rất mừng vì cô đã có thể tính ngay ra được số tiền đó mà không cần trợ giúp.”
“Yeah. Tiền hoa hồng của anh sẽ tăng lên khi anh đã hoàn thành tốt công việc của mình mà.”
Tôi gật đầu. Sau khi nhận được số tiền đấy, tôi thực sự cảm thấy câu nói ‘ngồi mát ăn bát vàng’ là hoàn toàn đúng với trường hợp này.
“Nếu độ nổi của cuốn sách tăng lên, doanh số đương nhiên sẽ tăng, và nếu nguồn cung không đủ, họ sẽ phải in thêm hàng ngàn cuốn sách, không tới hàng chục ngàn đâu. Erm, well, tôi...”
“Wow!”
“Well, tôi đoán tôi không nên ‘nói trước tương lai’—”
Tôi sử dụng cả hai tay để chuyển đồ của tôi từ đùi sang ngoài cửa sổ,
“Chúng mình phải tạm gác lại cuộc trò chuyện rồi... bái bai...”
Nitadori vừa nói vừa vẫy tay bên ngoài con tàu.
Lần đầu tái bản tập một của ‘Vice Versa’, số lượng được in ra lên tới 3.000 bản.
Vào một ngày của tháng Tám, đó cũng là ngày diễn ra lễ hội obon.
Mẹ tôi đang làm công việc y tá và dường như chẳng có ngày nghỉ nào trong suốt lễ hội obon cũng như dịp cuối năm. Tôi luôn ở nhà một mình, viết lách vài thứ gì đó trong những ngày nghỉ học.
Và đột nhiên biên tập viên gọi tôi.
“Em sẽ có lần in thứ hai cho cuốn sách của mình! Chúc mừng em!”
‘Lần in thứ hai’ thật ra chính là tái bản.
Việc tái bản này không biết được xem là nhanh hay chậm, tôi không rõ.
“Cảm ơn anh đã báo tin cho em!”
Tất cả thứ tôi cảm thấy bây giờ là sự lâng lâng vui sướng (sau đấy, biên tập viên bảo tôi rằng cũng có những tác phẩm được tái bản sớm hơn nữa cơ nhưng sách của tôi vậy là nhanh rồi).
Và trong lúc tôi bộc lộ niềm hân hoan của mình ra mặt,
“Nếu có ‘phần đánh máy nào cần chỉnh sửa’, hãy gọi anh ngày mai nhé, hạn chót đấy.”
Biên tập viên nhắc.
Và thế tôi hỏi,
“Erm? Là sao?”
Lỗi đánh máy—
“Mặc dù nó có thể làm em mất một chút trong thu nhập, nhưng hãy nhìn kĩ cái lỗi này, anh nghĩ đây là lúc thích hợp để xem xét... Anh giải thích xíu được không?”
“Tất nhiên. Em nghe đây.”
Lỗi đánh máy là lỗi liên quan tới ‘từ ghép’.
Nói cách khác, nếu có bất kì lỗi của nhân viên đánh máy (người mà sắp xếp thứ tự và trau chuốt câu từ), tôi phải kiểm tra và sửa cho họ.
Tất nhiên, những nhân viên ngày nay không sử dụng cách in ấn di động. Vì thế, ở trường hợp hiện nay, những kẻ dịch sai là liên quan tới ‘các từ sai’. Như tôi đã nói.
Tuần trước, khi đã đề cập việc này dưới danh nghĩa tác giả, tôi phải kiểm tra qua toàn bộ những gì tôi viết, và đưa tận tay cho các biên tập kiểm tra kĩ càng, và tôi còn phải kiểm tra thêm một lần nữa.
Nhưng đến như thế rồi thì vẫn có lỗi.
Về cơ bản, đó là lỗi của tôi (nhưng không ai nhận ra).
Hiếm khi các biên tập viên mắc lỗi này (và không ai nhận ra nó). Lỗi đó được phân loại là lỗi chính tả ở trong trang khái quát nội dung và tóm tắt cốt truyện.
“Lỗi chính tả thường không được nhìn thấy bởi vài người mà chỉ nhìn thấy bởi số lượng lớn độc giả— lỗi này sẽ được chỉnh sửa ngay trong lần tái bản đầu tiên. Vì thế, biên tập viên của tôi nói rằng một khi lần tái bản được quyết định, tôi phải nhanh chóng tìm và gửi cho họ những lỗi sai ấy. Bởi vì nhà xuất bản muốn sớm phát hành sách tái bản để tránh tình trạng hàng tồn kho và lỡ đi cơ hội kiếm lời.”
“Em thấy... bây giờ em biết việc chỉnh sửa lỗi trong sách là một trường hợp như thế.”
Nitadori trông có vẻ ấn tượng trong khi cô nàng gật đầu. Tôi cũng chỉ biết một điều như vậy hồi đó thôi.
“Sau vụ này, anh cảm thấy sao, sensei?”
“Tôi cảm thấy rất vui về tác phẩm của mình được ra mắt lần đầu, tôi đã đọc lại tập một lần nữa để tôi có thể tiếp tục nối mạch truyện ở tập hai, nhưng tôi không thấy bất kì lỗi chính tả nào. Bởi vậy, tôi quyết định kiểm tra kĩ từng câu chữ---”
“Vẫn không có ?”
“Tôi đã thấy 5 trường hợp sai...”
Trong khi lần đầu tập một ‘Vice Versa’ được phát hành, tôi đã thấy 5 lỗi khác nhau.
Một trường hợp khi tôi quên một dấu chấm.
Có một lần khi từ dạng chữ furigana của từ ‘hem’, suso, được viết thay thế là ‘sode’.
Ema, thường tự xưng ‘watashi’ trong chữ hiragana, và trong chữ kanji, cô cũng thường tự xưng là ‘watashi’ ở một số phần nhất định.
Cũng có chữ được dự đoán sẽ viết và mang nghĩa ‘chinh phục thế giới’, (seifuku), nhưng cuối cùng là hiểu nhầm thành sang ‘đồng phục trường học thế giới’ (seifuku) (hiện tượng đồng âm trong tiếng Nhật).
Và có một lần, sự xuất hiện của cả Shin và Sin hoàn toàn bị đảo lộn.
“Về cái lỗi cuối cùng... tôi tự nghĩ rằng ‘tôi không thể phạm sai lầm bất kể cái gì’... bởi vậy khi tôi tìm ra lỗi sai, tôi thật sự thấy thất vọng.”
Tên của Shin và Sin khá tựa tựa nhau, những sai lầm về hai cái tên này là rất phổ biến trong việc thay đổi văn bản. Nói về điều đó, nó thật sự khó chịu để phải thay đổi văn bản.
Khi tôi phát hiện ra lỗi đó, tôi bắt đầu kích hoạt chức năng ‘ghi lại các kí tự trong tiếng Nhất ở từ điển’. Nếu tôi đánh máy chữ hiragana ‘shi’ (し), nó sẽ trở thành ‘Sin’ (シン). Nói cách khác,
しんはいつた。
Đổi thành→ Shin nói.
しはいつた。
Đổi thành→ Sin nói.
しんはしのむなぐらをつかんだが、しは、だまつてしんをにらみかえすだけだつた。
Đổi thành→ Shin nắm lấy cổ áo của Sin, nhưng Sin chỉ nhìn Shin một cách yên lặng.
Đó không phải là lỗi duy nhất đối với ‘Vice Versa’. Bản in đầu tiên của bất cứ tác phẩm nào luôn được dự đoán sẽ có một vài lỗi chính tả như vậy. Cũng có thể mọi người muốn mua bản in đầu tiên của những tác phẩm nổi tiếng cũng vì những thứ nhỏ nhặt như thế.
Mặc cho là thế, tôi vẫn muốn viết một câu chuyện hạn chế ít lỗi nhất có thể, và bản in đầu tiên luôn khiến tôi lo lắng.
Tập 8 vừa mới cho ra mắt, tôi đã cố gắng hết sức để kiểm tra—nhưng khi nó chính thức xuất hiện trên thị trường, tôi lại tìm ra thêm vài lỗi.
“Nhưng tôi không bao giờ có thể sai chính tả nhiều tới mức trở thành huyền thoại như vậy.”
“‘Mức độ huyền thoại’? Có cả mức độ sai chính tả như thế ạ?”
Nitadori hỏi tôi một cách bất ngờ.
“Yeah. Có khá nhiều lỗi đánh máy sai kinh điển trong lịch sử đấy.”
Tôi thật lòng trả lời.
“Nh-như nào ạ?”
Tôi lại nghĩ chúng ta nên dừng chủ đề này lần nữa—
Nhưng tôi lại khá thích chủ đề về lỗi chính tả, nên tôi tiếp tục nói về nó. Vẫn còn thời gian trước khi tới ga cuối mà.
Lịch sử của ngành xuất bản có thể nói liên quan tới lịch sử của lỗi chính tả không một chút nghi ngờ. Tôi vẫn còn khá yếu, và bây giờ, tôi vẫn phải làm việc chăm chỉ để thay đổi lịch sử.
Trong số chúng, có một lỗi đánh máy rất quen và dễ thấy trong Kinh Thánh, hay được gọi là 'Adulterous Bible'.
Trong Kinh Thánh, một dòng ở trong ‘Mười điều răn dạy của Moses’ là ‘con người không được phạm lỗi dâm dục’, nhưng lỗi đánh máy lại bỏ sót đi từ ‘không’ và thế là câu răn dạy của chúng ta đã mang một nghĩa tiêu cực khác.
Nói cách khác, nghĩa của câu đổi thành ‘con người nên chấp nhận việc ngoại tình’.
Tôi đoán lỗi đánh máy càng ngày trở nên ngu ngốc trong lịch sử con người—
Tôi cho là chúng ta không nên phạm phải lỗi này nữa.
"..."
Nitadori nghe tôi nói và mở to mắt, đôi môi cô nàng khẽ hé mở. Nói cách khác, cô ấy có vẻ hoàn toàn choáng.
Cô nàng đang hoài nghi tại sao những thứ này có thể xảy ra trên thế giới cơ chứ, nhưng sự thật nó đã xảy ra rồi, và tôi không thể làm gì để sửa chữa nó.
Cũng có xuất hiện lỗi đánh máy huyền thoại được ghi nhận trong lịch sử Nhật Bản.
Đó là do một vài lỗi, nhưng tên lỗi đã có lẽ được thay đổi mãi mãi.
Tất nhiên, những lỗi đó được gọi là con gián (Gokiburi).
Có người nói rằng tên của lỗi đó thật ra là ‘Gokikaburi’, nhưng trong bộ sách giáo khoa sinh học được xuất bản vào thế kỉ 17 của Meiji Era lại chép là ‘Gokiburi’.
Quyển sách đó chỉ có đúng một lần xuất bản bởi nó không có một lỗi sai nào. Những quyển sách sau này đều dựa theo quyển sách ấy, và từ ‘gokiburi’ trở nên phổ biến, trước khi nó được xem là một từ chính thức trong từ điển.
“Hey... Em không nghĩ nó là như vậy, này... anh đang xạo phải không? Câu chuyện này là do anh tự tạo ra đúng chứ?”
Nitadori nhìn tôi hoài nghi qua cặp kính.
“Tôi không có bịa đâu.”
Tôi xua xua tay trong khi trả lời.
“Thôi, cho vấn đề này qua một bên đi nào—”
Tôi sử dụng cả hai tay để di chuyển đồ đạc từ đùi tôi ra ngoài cửa sổ, đồng thời kết thúc các chủ đề về lỗi chính tả.
“Kết thúc chủ đề chính tả nhé, quay lại chủ đề cũ—chính xác thì tôi đã dừng ở đâu vậy ?”
Bởi vì quá nhiều chủ đề ngoài luồng nên tôi không nhớ chủ đề cũ tôi đã dừng ở đâu.
“Về 27.000 bản in đầu tiên của tập một ‘Vice Versa’ ấy, và 3.000 bản ngay sau... lần in đầu, anh ơi!”
Nitadori nhắc tôi.
“Vice Versa’ thật sự bán chạy.
Ngay khi tập thứ hai được xuất bản vào tháng Mười, tập đầu tiên đã được tái bản 3 lần, và tổng danh thu tới trên 40.000.
Lần in đầu tiên của tập thứ hai là 27.000 bản in như trước. Tôi nghe nói như thế là tuyệt rồi khi số lượng bản in bằng với lần in của tập trước. Tất nhiên, tập hai được tái bản ngay trong tháng nó được bán. Và bản in đầu tiên thì vẫn liên tục tái bản sau đó.
Ngay khi tháng Mười Một bước qua, tổng số bản in được phát hành, bao gồm cả tập một và tập hai, là 80.000 quyển.
Và như thế, tới cuối năm, số tiền nhuận bút mà tôi nhận được trong tài khoản ngân hàng—
Lên tới 4 triệu Yên.
“4 triệu Yên... thật quá tưởng tượng...”
Nitadori mở to mắt khi cô nàng thốt lên. Tôi có lẽ cũng không khác cô ấy về việc bất ngờ với số tiền trên, có khi còn bất ngờ hơn ấy chứ.
“Tôi chưa từng mơ rằng tác phẩm của mình có thể bán chạy tới như vậy, nó đem lại cho tôi rất rất nhiều tiền...”
Không phải khoe khoang đâu, mà đây là suy nghĩ thật của tôi.
Tôi xấu hổ khi nói điều này ra, nhưng khi tập một được phát hành, tôi đã từng dự đoán doanh số của nó, nghĩ về việc nó sẽ xảy ra.
Tôi đã giả sử rằng nhuận bút của tập đầu tiên là 1.500.000 Yên, và lần in đầu của tập thứ hai sẽ bị giảm bớt số lượng, tôi tính được ra con số 1.000.000 Yên. Và như thế tôi sẽ kiếm được 2,5 triệu Yên trong năm, đối với tôi, như thế cũng là lớn rồi.
“Nhưng anh đã không ngờ anh tính sai, đúng không?”
Nitadori nở một nụ cười tinh nghịch. Tôi đã quen với nó nhưng vẫn bất ngờ.
“C-Chắc thế...”
Nếu tôi có tổng cộng 4 triệu Yên tiền mặt trong tay, tôi thật sự rất sợ ấy. May thay, số tiền đó được cất ở trong tài khoản ngân hàng. Thật sự mà nói nếu một đống tiền mặt xuất hiện trước mặt tôi, tôi nghĩ tôi sẽ mất nó rất dễ...
“Tất nhiên tôi rất sợ, rất sợ... phải sử dụng số tiền lớn đến thế. Cứ cho đó là niềm vui đi, nhưng niềm vui đó đi đôi với nỗi bất an. Tôi có số tiền lớn đó nhưng tôi luôn phải tự nhắc nhở không được chi tiêu nó quá trớn.”
“Thật ra, anh chưa từng sử dụng số tiền đó, đúng không? Sau khi trừ thuế, anh thực tế đã luôn giữ số tiền đó nguyên vẹn.”
“Thật lòng mà nói, tôi không cần phải tiêu xài nhiều nào.”
“Hey, nếu anh có thể, kể em nghe được chứ, sensei, mẹ anh đã nghĩ gì khi biết anh kiếm ra số tiền đó. Well... mẹ anh có nói gì không?”
Well, tôi đoán tôi có thể trả lời câu hỏi này, bởi thế tôi đáp.
“Mẹ tôi chỉ nói với tôi hai điều.”
“Là gì ạ?”
“Đầu tiên, ‘dùng số tiền đó cho bản thân đi’. Nói cách khác, tôi không cần thiết phải lo nghĩ về việc thuê nhà, mua thức ăn, và phí gia đình
“Vậy ra anh vẫn chưa được sống tự lập à? Em nghĩ em hiểu điều đó. Nuôi nấng con cái là nghĩa vụ của bố mẹ mà.”
“Hm, chắc thế...”
Về điều này, tôi đoán nó sẽ thay đổi một ít trong tương lai—nên tôi đoán không sẽ không tệ nếu nói về điều đó bây giờ.
“Và điều còn lại?”
“Hm—‘đừng tiêu xài tiền như nước!’”
“Ahaha, đương nhiên ai cũng sẽ nói thế.”
“Yep. Vì thế, tôi nghĩ tôi sẽ đặt ra vài luật lệ, in nó ra và dán trước bàn học của mình.”
“Thật? Thế anh đặt ra luật gì?”
Chúng không quá phức tạp đâu.
‘Tôi có thể mua những vật dụng cơ bản cho công việc (văn phòng phẩm, vật liệu)’
‘Trước khi mua, tôi phải cân nhắc. Không mua một cách bốc đồng. Phải kiểm tra giá trước khi mua.’
‘Phải tiết kiệm để không phải lo nghĩ về tương lai.’
‘Không mang quá nhiều tiền mặt bên mình.’
‘Không khoe của chứng tỏ mình có nhiều tiền.’
Điển hình là như thế thôi.
‘Em thấy. Tự kỉ luật bản thân. Anh thật là ấn tượng đấy.”
“Dù là vậy, anh vẫn đã mua nhiều thứ không cần thiết.”
Tôi khoe khoang cái đồng hồ đang đeo ở cổ tay với Nitadori.
“Cái đồng hồ này được tôi mua vào số tiền nhuận bút đầu tiên tôi nhận được từ ‘Vice Versa’. Vào tháng Mười, đúng cái năm tôi ra mắt độc giả tác phẩm đầu, tôi đã nghĩ sẽ mua cái đồng hồ này trên đường trở về nhà từ ban biên tập, và tôi đã tiêu mất 30.000 Yên.”
Tôi đoán cái đồng hồ 30.000 Yên[note47096] có vẻ khá rẻ nhỉ.
Nhưng tôi vẫn mang cái đồng hồ tôi có được từ thời học Trung học cơ sở, và nó chỉ có giá 3.000 Yên. Đúng là cái giá của đồng hồ cũ chỉ bằng 1/10 giá của cái mới. Có một điều đáng nói, cái khung đeo của đồng hồ cũ dần như hỏng rồi, tôi sợ sẽ rơi mất nó một lúc nào đó, bởi thế tôi xem nó như một cái đồng hồ bỏ túi trong phòng tắm hơn.
“Không quan trọng cái đồng hồ tôi có trong tương lai mắc thế nào, tôi cũng sẽ giữ lại cái đồng hồ cũ. Thậm chí nếu nó có hư và không thể sửa chữa chăng nữa, tôi vẫn sẽ để nó trong phòng.”
“Như cái khăn quàng cổ của Mitsuka...”
Nitadori nhắc lại chi tiết đó với một sự thích thú. Yep, đúng mà, tôi thấy nó có liên quan với nhau.
Shin rất trân trọng cái khăn quàng cổ Mitsuka đưa cho anh ở tập một, và luôn mang nó trên cổ mỗi khi trời trở gió.
“Bên cạnh đó, tôi cũng mua một cái máy tính xách tay nhỏ mà tôi đã nhắc trước đó.”
Tôi chỉ vào cái giá bên cạnh tôi.
Cặp của tôi thực tế dùng chứa đồ nghề. Sự thật, cái cặp này tôi dùng để đựng những thứ tôi mua bằng tiền nhuận bút.
“Ngoài ra, cũng có điều, mặc dù mẹ là người trả cho tôi.”
Tôi lấy chiếc điện thoại tôi dùng cho việc tính toán ban nãy từ túi ra.
“Biên tập viên bảo tôi ‘Anh không thể ép em, nhưng sẽ tốt hơn nếu em có một chiếc điện thoại riêng. Anh nhắc lại anh không ép buộc, nhưng tốt hơn vẫn nên thế.”
“Anh lặp lại câu nói tới hai lần kìa!”
“Well, khi tôi phải ở một đêm trong khách sạn tại Tokyo, đó là lúc tôi nghĩ có điện thoại sẽ tốt hơn... khi đó tôi đang học năm nhất Cao trung, tôi phải tới Tokyo vì những buổi họp, và tôi cảm thấy điện thoại là cần thiết, bởi thế tôi mua một cái. Cái điện thoại đầu tiên của tôi là cái hiện đại nhất lúc đó. Tôi ngại phải nói ra giá tiền, nhưng với nó, tôi có thể dò bản đồ, kiểm tra thông tin, kết nối với internet và laptop. Nó thật sự rất hữu dụng.”
Tôi hào hứng kể về chiếc điện thoại đầu tiên tôi có được ở năm nhất Cao trung.
“Well, nhưng tôi chưa thực sự nghĩ sẽ mua một chiếc điện thoại trước đó.”
Đấy là sự thật.
Nhưng mẹ lại muốn mua cho tôi một cái khi tôi vào Cao trung. Thật lòng mà nói, tôi chưa thật sự muốn có một chiếc điện thoại bởi vì—
“Cơ bản mà nói, tôi chưa cần điện thoại tới mức đó. Tôi không có bạn bè nào để mà gọi điện, và laptop đã có thể kết kết nối internet rồi thì điện thoại chỉ để nghe gọi mà thôi !”
Tôi bộc bạch hết lòng mình.
“Ahaha...”
Nhưng tới đây, Nitadori bật cười.
“Tới giờ, anh vẫn dùng điện thoại thông minh cho nghe, gọi, nhắn tin?”
Tôi liếc mắt nhìn chiếc điện thoại trên tay và trả lời.
“Thì đó. Những số điện thoại cần gọi ngày càng nhiều mà.”
“Ai vậy anh?”
“Ngoài mẹ tôi ra, thì còn những người liên quan tới công việc.”
“Anh là học sinh Cao trung mà!”
Nitadori vui vẻ nói.
Tôi cũng nghĩ nó không được bình thường, nhưng tôi không quan tâm. Điều tôi quan tâm nhất là nó lưu được nhiều số điện thoại tôi cần gọi, những thứ khác có hay không, không quan trọng.
“Vậy, em có phải là người ‘liên quan tới công việc’ đối với anh ?”
Nitadori hỏi, tôi gật đầu đáp.
“Tất nhiên là có.”
Dù thế nào thì, cô nàng cũng lồng tiếng cho Mitsuka mà.
Không như tiểu thuyết, một bộ anime để hoàn thành cần sự cố gắng tập thể. Họ là những người giúp đỡ nhau trong những công việc quan trọng, và nói cách chắc chắn dễ hiểu, họ là ‘cộng sự’.
“Sau đó—”
Nitadori cất lời.
“Đó là vì sao—”
Nhưng câu nói bị tôi ngắt mất.
“Ah, anh cứ nói đi.”
Nitadori nhường tôi nói trước, nhưng tôi lại cảm thấy hơi xấu hổ để tiếp tục.
Thậm chí như vậy, cũng khó để nói ra thành lời khi Nitadori cứ nhìn chằm chằm vào mặt tôi như vậy. Vì vậy, tôi chỉ có thể nhìn thẳng vào lưng ghế thì mới có thể nói ra suy nghĩ của mình.
“Tôi thật sự rất muốn cảm ơn tới đội ngũ sản xuất bộ anime này cũng như những seiyuu lồng tiếng cho nhân vật tiểu thuyết của tôi.”
“...”
“Miễn là trong khả năng, tôi sẽ giúp đỡ họ hết sức.”
“...”
“Nếu mọi người trong đội ngũ sản xuất cảm thấy vui sướng thì đó cũng là niềm vui của tôi.”
Vừa nhìn vu vơ sang phía bên phải tôi vừa nói ra những điều muốn nói.
“...”
Gì vậy kìa?
Nitadori thoáng có vẻ đơn độc.
Tôi không biết tại sao, nhưng có lẽ chủ đề này là không thích hợp.
Tôi nhét cái điện thoại vào lại trong túi quần.
“Chủ đề khi nãy tôi đã dừng ở đâu nhỉ...?”
Dừng chủ đề này thôi, tôi cố gắng kéo chúng tôi trở về chủ đề chính trước đó.
“Được rồi! Trước đó chúng mình đang nói về thu nhập, và chúng mình sắp sửa nói về ‘báo cáo thuế’.”
Khi tôi nói tới đây, Nitadori giơ ngón tay trỏ lên, và tôi bảo Tôi biết!
“Em nghĩ em đã nghe về nó! Có thuế xanh, thuế đỏ và tương tự thế.”
“Đúng—nhưng chúng thật ra không thuế đỏ. Chỉ có thuế xanh và thuế trắng thôi.”
“Vậy ? Như vậy ạ? Em đã nghĩ sẽ có thuế đỏ khi phát hiện thâm hụt ngân sách chứ?”
Nitadori trông có vẻ hơi nghiêm trọng hóa vấn đề khi nói việc này.
Tôi không biết liệu cô nàng đang nghĩ đó thật sự là một lỗi lầm hay chỉ là đang đùa giỡn thôi.
Nói cách khác, tôi không biết đó là một điềm xấu hay là một dấu hiệu—
Tôi nghĩ tôi không nên nhận xét thẳng thắn với Nitadori.
Tôi tiếp tục phần giải thích.
“Tôi đã kiếm được 4 triệu tiền nhuận bút trong năm đầu sáng tác, và tôi đương nhiên phải đóng thuế vào tháng Hai hoặc tháng Ba sang năm.”
“Em có nghe về thời gian đóng thuế, nhưng điển hình thì, em cần làm gì? Nói về điều này, nó có nghĩa là sao?”
“Cụ thể là, nó có nghĩa ‘xác định thu nhập của bạn và báo cáo nó cho quốc gia’.”
“Em hiểu rồi, vậy ra đóng thuế... nhưng mục đích cho việc đó là gì?”
“Có hai câu trả lời cho điều này. Trước nhất cần hỏi, tại sao quốc gia cần người dân đóng thuế, và tại sao tôi cần đóng thuế.”
“Vâng... hãy nói về phần của quốc gia trước ạ.”
“Đó là vì quốc gia cần số tiền thuế. Nếu người dân không khai báo thuế trung thực, nhà nước sẽ không phải biết khấu trừ đi bao nhiêu và sẽ cần phải thu thuế bao nhiêu cho hợp lí.”
“Em hiểu rồi... ra là vậy, thế còn anh thì sao, sensei?”
“Để được giảm thuế.”
“Hm?”
Tôi chưa giải thích về nó lúc trước. Bao hàm luôn cả kì hạn, thuế thu nhập nghĩa là thứ gì liên quan tới ‘thu nhập’.
Khoản thu nhập thì sẽ liên quan tới tiền (‘tiền lợi nhuận’) được khấu trừ đi bởi nhiều phí liên quan (‘chi phí’)
“Tôi đã đề cập rằng nhà xuất bản sẽ trừ đi thuế thu nhập trước khi tôi nhận được số tiền, đúng không?”
“Yep.”
“Nó được trực tiếp trừ đi từ doanh số bán ra, và không liên quan gì tới chi phí cả.”
“Ah, em hiểu rồi...”
“Vì thế, tôi sẽ báo cáo với Nhà nước rằng ‘tôi đã đóng thuế đầy đủ, vì thế đây là thu nhập thật sự của tôi, và tôi đã bị trừ đi thuế rất nhiều rồi’, và đòi hỏi Nhà nước sẽ trả lại cho tôi ít thuế thu nhập tôi đã đóng. Well, đây là lí do tôi phải báo cáo thuế.”
“Em hiểu rồi... vậy, chi phí của anh bao gồm những gì?”
“Đầu tiên, đó là chi phí cho những vật dụng cần thiết cho việc sáng tác. Sau đấy, nó sẽ là bút mực và giấy, nhưng bây giờ, tôi cần nhất là máy tính và máy in cùng một vài thứ đi kèm.”
“Và chi phí còn lại gồm gì ạ?”
“Tôi nghĩ thứ đáng quan tâm đó là thông tin, giá một cuốn sách. Phim ảnh cũng cần quan tâm tới thông tin nữa, vì thế tôi luôn tính bao gồm cả giá DVD. Nếu tôi muốn thứ gì đó thật sự để tham khảo cho công việc, đó cũng sẽ là thông tin (tri thức) luôn . Như vậy... đó là phí cho điện thoại và internet, phí di chuyển tàu xe quãng đường đi và về từ ban biên tập, và nếu có phí đi đây đi đó cho việc thu thập tài liệu--”
Tôi bộc lộ các quan điểm của mình, và Nitadori tiếp tục gật gù đồng ý.
“Thuê nhà và chi phí sinh hoạt cũng cần được cân nhắc, nhưng chúng là những thứ thiết yếu cho cuộc sống rồi, tôi không thể trừ chúng đi được. Tôi cần phải giải thích đã chi ra bao nhiêu cho công việc, và báo cáo phần đó. Và tôi làm đúng như thế.”
Có rất nhiều ví dụ có thể nêu ra, nhưng tôi thích ví dụ này hơn.
“Khi khai báo thuế, tôi sẽ khai báo bất cứ thứ gì tôi nghĩ sẽ là chi phí trong văn bản, và gửi nó đi.”
Nitadori nhìn một cách cẩn trọng khi cô nàng nghe lời giải thích của tôi. Có một cuốn sách tôi từng đọc ghi rằng ‘nếu dạy một học sinh xuất sắc, giáo viên sẽ có thêm cảm hứng để giảng bài’. Bây giờ, tôi đang cảm nhận được câu nói đấy.
Người học sinh xuất sắc hỏi,
“Nhưng sensei nè, khi tính toán và giải thích bao nhiêu thuế phải trả, anh phải thêm vào ‘biên nhận’, đúng không?”
“Đúng. Vì thế, khi tôi mua một thứ gì, tôi luôn phải hỏi biên nhận, và giữ nó.”
‘Bất cứ ai làm việc trong ngành công nghiệp sách đều phải giữ biên nhận !’—một câu nói từ một bài tiểu luận trong quá khứ nêu lên, từ ngày đầu tiên tôi nộp bản thảo tôi luôn phải giữ biên nhận bất cứ khi nào tôi mua thứ gì. Trước tiên, tôi sẽ giữ biên nhận trong ví, và khi về nhà, tôi sẽ cất chúng vào trong một cái hộp lớn.
Nhưng khi làm như vậy, tôi đã bắt đầu trở thành một người chi li tính toán, tôi phải sắp xếp số lượng lớn biên nhận.
Nói cách khác, tôi phải sắp xếp chúng theo thông tin chất liệu, phí xe cộ, và vài thứ khác nữa. Công việc này thật sự tẻ nhạt.
Vì vậy, ngày nay, tôi sử dụng những thư mục nhiều lớp thì hơn. Tôi viết ra những mục kế toán trên những ngăn kéo, và sau đó tôi lấy các hóa đơn từ ví, tôi có thể sắp xếp chúng theo những ngăn kéo tương đương.
Tôi thậm chí còn kiểm tra trên internet về cách nộp thuế,
Và tôi học được hai điều.
Điều thứ nhất là ‘thuế trắng’
Và điều còn lại là ‘thuế xanh’. Quy trình nộp thuế có chút phức tạp, nhưng nó cũng có vài đặc quyền riêng, giảm thuế là thứ có thể kể đến.
Tôi có nghe rằng khi tổng tiền thuế không quá lớn, đơn giản đóng thuế trắng sẽ đủ tốt, và tôi làm như thế.
Thông tin được chuẩn bị sẽ là các mục kế toán, và tính riêng các biên nhận trong các bản sao kê. Nói đơn giản,
“Đây là số tiền tôi đã dùng.”
Một cách giải thích cho điều này là, tôi đã dùng phần mềm kiểm toán trên máy tính để tính ra. Nó nghe có vẻ dễ, nhưng để sắp xếp được biên nhận và lấy được các con số chính xác đòi hỏi rất nhiều thời gian.
Tôi chọn ra thông tin, tuân thủ những biên nhận, lấy phiếu lương được cấp từ ASCII Media Works (ở thời điểm này, tôi sẽ nhận một bản báo cáo cho cả năm), và một cái tem, rồi đến phòng thuế.
“Làm vậy có khó không ạ?”
“Thật ra, nó cũng không hẳn là khó. Tôi chỉ cần làm theo hướng dẫn của ông chú, điền vào từng phần cụ thể, và nó sẽ xong nhanh thôi.”
“Và sau đó... điều gì xảy ra?”
“Họ nghĩ rằng ‘tôi trả thuế thu nhập quá nhiều’, và đưa tôi một phần tiền từ việc ‘giảm thuế’. Một vài ngày sau, một khoản tiền, không nhỏ đâu, sẽ được chuyển khoản tới tôi.”
“Em hiểu.”
“Tôi có thể đặt nó qua một bên bây giờ. Nhưng sự thật, tôi phải tự mình tìm kiếm mọi thứ, vì thế tôi đã trải qua nhiều rắc rối... nói thẳng thắn, đây là thứ rắc rối nhất đối với tôi sau khi trở thành nhà văn.”
“Nhưng nếu đó là tháng Hai năm ngoái, anh đã báo cáo thuế năm nay rồi, phải không? Số tiền thu nhập năm nay ấy.”
Tôi gật đầu.
“Em sẽ không hỏi về thu nhập ạ... nhưng nó hình như đang được nâng lên, đúng chứ?”
Chính xác.
Số tiền thu nhập của tôi năm ngoái—là trên dưới 18 triệu Yên.
Lần tái bản của tập 1 và tập 2, tính luôn cả lần in đầu của tập 3 tới tập 7, đã mang về cho tôi số tiền 300.000 Yên.
Tôi bắt đầu nghĩ ngợi về câu mà Nitadori đã nói ‘Em sẽ không hỏi về số tiền ạ’.
Phải chăng cô nàng chỉ đang nghĩ ‘nó thật sự thô lỗ khi hỏi tiếp về điều này, thế nên em sẽ không hỏi nữa và anh cũng không cần trả lời’? Hay là ‘em không hỏi nữa đâu, anh biết mình cần trả lời điều gì rồi mà’?
Tôi uống một ngụm trà, bắt đầu cân nhắc.
Tôi có thể nói cho cô nàng, nhưng tôi không hi vọng rằng cô ấy sẽ nghĩ tôi đang khoe khoang.
Nhưng kể cả như thế, tôi đã đề cập tới thu nhập năm đầu tiên của mình, và cô nàng đã có thể ước lượng ra thu nhập của năm sau sẽ lớn hơn năm trước bao nhiêu.
Tôi phải làm gì? Tôi phải làm gì?
Chỉ khi tôi cảm thấy lo lắng,
“Well, ví dụ, nếu thu nhập rơi vào khoảng 18 triệu Yên...”
Tôi có thể nghe thấy giọng Nitadori.
“Eh?”
“Như vậy số tiền thuế phải trả là bao nhiêu? Và phần trăm thuế sẽ tăng lên nhiều, đúng chứ?”
“...Làm sao em biết?”
“Eh? Như nào?”
“Eh? Thu nhập hằng năm...”
“Ah, ahh, em đoán đúng rồi!?”
Nitadori trông có vẻ một chút ngại ngùng.
“Đúng về điểm này. Tôi đang nghĩ về cách nào cô có thể đoán ra...”
“Well... bộ anime đã được thông báo sẽ khởi động trong tháng Hai, đúng không?”
Tôi gật đầu.
“Như thế, truyền thông sẽ đưa tin ‘một cuốn sách nổi tiếng đã được bán trên 450.000 bản’ đúng chứ?”
Tôi gật đầu.
“Trong năm đầu đã bán ra 80.000 bản, và cho tới nay, nó đã lên tới 450.000 bản, nếu trừ đi thì sẽ vẫn còn 370.000 bản. Tuy nhiên, nếu xét riêng về quảng bá, thì đó đã là còn số--”
“Đúng thế, họ sẽ làm một ‘ước tính sơ bộ’ (Kiriyoku).”
"Kiriyoku'?"
“Yeah, nó có nghĩa là họ sẽ tình ra gần đúng con số phát hành ra để mọi người có thể dễ dàng hiểu--”
“Yeah, đúng là nó ! Vì thế em đã dùng 350.000 bản để đếm và tính ra 18.000.000 Yên.”
“Tôi hiểu...”
Khấu trừ nhỏ này thật sự làm tôi bất ngờ, nhưng nếu nó giúp bớt đi chút rắc rối của tôi. Cô ấy đúng thật đã giúp tôi đó.
“Đúng. Tôi đã có chừng đó thu nhập, và tôi phải giải quyết lần đóng thuế thứ hai.”
Nó chỉ vừa xảy ra vào 3 tháng trước.
Đó là lần thứ hai tôi phải đóng thuế, nhưng tôi không muốn dành cả ngày cho công việc này. Nếu tôi có thể lựa chọn thời gian làm việc khác, tôi muốn được dành phút giây này cho việc viết truyện.
Tôi sắp bắt đầu phải đi học lại, và những ngày mà tôi dành tất cả thời gian cho việc viết văn sắp kết thúc.
Vì thế tôi để nó cho một dân chuyên nghiệp.
“Một người chuyên nghiệp?”
“Người kế toán đấy.”
“Ahh.”
“Thực ra, có hai điểm khác biệt giữa lần đầu vào năm ngoái và lần tiếp theo ở năm nay.”
“Điểm khác biệt thứ nhất chính là việc anh thuê kế toán vào năm nay. Thế còn điểm khác còn lại là gì ạ?”
“Well, tôi đã đổi sang thuế xanh.”
“Đây đây! Thuế xanh.”
Nitadori kêu lên phấn khích, và sau đấy nghiêng đầu và nói,
“—erm, ý anh là sao? Sự khác nhau giữa thuế xanh và thuế trắng là gì ạ?”
“Well, khi khai báo thuế xanh, bạn cần giấy tờ chi tiết hơn. Như thế, nó khó có việc bạn trốn thuế, và tất nhiên, khó để mà né việc đóng thuế hơn.”
Nhưng thậm chí là thế, mọi người sẽ chọn thuế trắng nếu tôi nói vậy, nhưng có rất nhiều đặc quyền được thêm vào cho những người khai báo thuế xanh.
Nó là đặc quyền ‘khiết trừ thuế’. Sự khiết trừ ở đây nghĩa là ‘cắt bỏ’. Khai báo thuế xanh có đặc quyền là cắt bỏ đi một khoản tiền thuế, và tất nhiên, số tiền thuế cần đóng sẽ ít đi.
Bên cạnh đó, một điều quan trọng cần lưu ý nếu mọi người muốn khai báo thuế xanh là, phải xin phép ‘Tôi đang sử dụng thuế xanh’ vào một năm trước. Tôi đã làm vậy khi tôi vẫn đang sử dụng khai báo thuế trắng.
Cuộc trò chuyện kéo dài đã lâu, tôi cảm thấy khát rồi, và Nitadori cũng như thế, bởi vậy chúng tôi uống một chút trà trong chai.
Chúng tôi cùng lúc cầm chai trà của mình lên, uống một ít, và đặt xuống đồng thời, trông như chúng tôi đang diễn vở ballet vậy.
Nhận ra điều này, Nitadori nhìn tôi mỉm cười—
Tôi khựng lại. Tôi không biết nên diễn tả vẻ mặt như thế nào.
Tôi không nên trả lời một cách đơn giản, thậm chí nếu thế nó cũng là một lời nói dối hay là diễn mà thôi, có lẽ tôi nên nói một câu gì đó mang sự đồng cảm.
Mặt tôi ủ rũ, và Nitadori cười rạng rỡ, hỏi tôi,
“Nó tốt chứ nhỉ?”
Tôi trả lời thật lòng,
“Rất tốt.”
“Tuyệt vời.”
Quay lại việc đã quyết định báo cáo thuế xanh, và mướn kế toán để làm việc đó—
“Bây giờ, tôi sẽ giải thích việc tôi phải làm một cách cụ thể.”
“Yep.”
“Tôi đã nộp rất nhiều giấy tờ. Thế thôi. Tôi nộp tất cả paypals, bản sao sổ tiết kiệm, và chứng minh rằng tôi đã nộp thuế, tôi phải chuẩn bị tất cả danh sách biên nhận cho mọi thể loại.”
“Vậy, kế toán sẽ làm nhiệm vụ đếm biên nhận, điền giấy tờ, và mọi thứ ạ?”
“Đúng. Nó rất dễ... tất nhiên, tôi sẽ trả phí hợp lí. Nó sẽ đắt đỏ hơn nếu chỉ quăng tất cả cho anh ta và để anh ấy giải quyết mọi thứ. Nếu tôi có thể sắp xếp các vật kiểm toán và tính toán trước khi gửi đi dữ liệu, phí sẽ rẻ hơn nhiều.”
“Em hiểu.”
“Tuy nhiên, các loại chi phí ở đây có thể liệt vào ‘kinh phí’. So sánh với số tiền tôi bỏ ra cho việc thuê kế toán làm điều này, và thời gian tôi dành... tôi đoán dành cho việc nhìn nhận kết quả, tôi nghĩ nó sẽ rẻ hơn rất nhiều nếu để việc này lại cho anh ta. Tất nhiên, điều đó sẽ khác cho việc ‘tôi có thời gian, tôi biết phải làm gì, bởi vậy tôi sẽ tự giải quyết điều này !’.”
Nhà văn lấy lợi nhuận từ phí xuất bản.
Phí xuất bản sẽ được thu thuế trước khi nó chuyển vào tài khoản.
Và thông qua việc khai báo thuế, thuế sẽ giảm đối với phần thuế quá mức thu được.
Đây là phần mà tôi kết thúc việc giải thích.
“Tôi đã nói vài lần trước đó rằng tôi trước đó đã chưa quen thuộc với việc này. Tôi thực tế đã tù mù trong bóng tối, đối phó với mọi thứ.”
“Nhưng ban biên tập đã nói với anh điều này?”
Nitadori nói điều đó như thể là sự thật—
“Không, họ không nói.”
Tôi lắc đầu.
“Thật?”
“Ban biên tập không có nghĩa vụ phải nói với tôi quá nhiều... về việc này, họ có thể cũng không am hiểu về nó.”
“Sau đó?”
“Nhà văn phải tự thân vận động thôi. Thứ có thể giúp tôi thông suốt việc này chính là... hỏi những nhà văn tiền bối.”
Nhìn vào trường hợp của tôi, tôi thực tế còn không có người giúp đỡ trước khi tôi nộp thuế trắng. Bởi vì tôi không quen biết một nhà văn khác nào. Thậm chí tới khi yêu cầu chuyển sang thuế xanh tôi cũng phải tự mình tìm hiểu.
Tuy nhiên, một nhà văn tiền bối đã nói với tôi ‘chỉ cần thuê một kế toán’.
Tôi có những thời gian biểu cuộc họp giống với anh ấy, vì vậy chúng tôi đã gặp nhau hết lần này tới lần khác tại ban biên tập. Tôi thực tế cũng đã đọc hết các tác phẩm của anh ta, và tôi thật sự rất vinh dự khi gặp anh ấy.
Sau đó, biên tập viên đưa tôi ra ngoài ăn.
Mỗi khi biên tập viên có thời gian và sắp xếp cho việc gặp gỡ các nhà văn, anh ấy sẽ mời các bên tụ họp trong một bữa tiệc được tổ chức bởi ban biên tập.
Vị trí bữa tiệc ở ‘Kagurazaka’ gần ban biên tập. Tôi nghĩ tôi đã nghe về chỗ này rồi. Nơi này có vài ngôi nhà cổ, và rất nhiều nhà hàng sang trọng.
Tôi rất vui vì ban biên tập sẵn lòng để chúng tôi thưởng thức tất cả món ngon trong nhà hàng. Tất nhiên, tôi không uống.
Trong khi chúng tôi gặp gỡ, tôi đã nói một vài suy nghĩ sâu xa về vài thứ với nhà văn tiền bối kể trên.
Anh ta biết rằng tác phẩm của tôi bán chạy, và anh ấy nói rất kĩ lưỡng về thuế xanh. Anh ta cũng giới thiệu tôi một kế toán mà anh ấy lẫn bạn anh rất tin tưởng, điều đó thực sự giúp tôi nhiều.
Bây giờ, mọi thứ về thuế đã hoàn thành—
Vẫn còn 15 phút nữa mới tới trạm cuối.
Nitadori hỏi tôi đã mấy giờ rồi, và tôi trả lời bằng cách đưa cho cô nàng xem đồng hồ đeo tay của mình.
“Từ giờ, thời gian còn lại không nhiều, nên em sẽ hỏi vài thứ khác trong tuần kế. Cảm ơn buổi trò chuyện tuần này ạ. Nó rất thú vị.”
“Không có chi.”
Tôi nhớ tuần trước cô nàng cũng nói câu y hệt vậy.
Quay lại vấn đề, tôi sử dụng ít thời gian còn lại để nói về vài lá thư người hâm mộ gửi tới. Cô nàng liệu có câu hỏi nào không nhỉ? Tôi nghĩ rằng trả lời về điều này sẽ dễ hơn là kể.
Trong dòng suy nghĩ về điều trên, Nitadori cất lời.
“Sensei... em có câu hỏi ạ.”
“Tiếp tục đi.”
Nghĩ rằng nó sẽ dễ dàng hơn cho tôi, nên tôi đã đáp thế,
“Erm... anh nghĩ gì về phần diễn xuất của em tuần trước ạ?”
Cô nàng đã hỏi một câu mà tôi khó có thể trả lời rồi.
Cô nàng hỏi tôi một cách nghiêm túc, mắt cô nàng nhìn chăm chú vào tôi.
Chắc chắn, tôi trông bối rối đây.
“Ah... không sao, anh không phải ép buộc bản thân mình...”
Nitadori nói một cách chán chường.
“Erm, nếu tôi phải nói ra suy nghĩ của mình—”
Nghe tới đây, Nitadori đưa cặp mắt cận của cô nàng nhìn vào tôi.
Trong trường hợp này, tôi không thể nói dối. Tôi sẽ chỉ nói suy nghĩ thật của mình.
“Nó-nó là gì ạ?”
“Những diễn viên lồng tiếng tham gia đã thể hiện những màn diễn xuất không thể tin được trước mắt tôi. Shin, Sin, Ema, Pluto, Mitsuka và các nhân vật khác, tôi có cảm giác như họ bước ra thế giới thực vậy.”
Tôi trả lời hết sức rồi đấy.
“...Cả-cảm—cảm ơn anh nhiều lắm!”
Nitadori cảm ơn tôi. Một lần nữa, tôi thành thật nói lên quan điểm của mình.
“Nhưng... thật ra, tôi đã nói câu này một lần khi buổi After Record kết thúc mà.”
“Erm, nhưng, well... lúc ấy còn có người khác nữa, bởi vậy em nghĩ nó chỉ là dịp...”
Nitadori nói, trông có gì rất bẽn lẽn.
“Tôi không giỏi nói dối đâu.”
Cá nhân mà nói, tôi không thể giả tạo được. Ngay khi giây phút tôi nói xong, tôi nhận ra thứ gì đó tôi quan tâm, và tôi chủ động hỏi Nitadori,
“Oh yeah, tôi hỏi điều này được chứ...”
“Được mà, được mà!”
Cô nàng cười rạng rỡ đồng ý, và thế là, tôi nói lên sự bâng khuâng của mình.
“Nitadori—cô bắt đầu diễn xuất khi nào?”
“...”
Trông thấy vẻ lúng túng của cô nàng, tôi nhận ra rằng mình đã hỏi điều không nên hỏi.
Sau khi nghĩ về điều này những 3 lần, tôi vẫn không thấy câu hỏi này lạ chỗ nào.
Không lâu sau đó, tôi nghĩ rằng cô nàng không biết tôi đang nhắm vào vấn đề gì,
“Erm... ngay sau khi tôi đọc ‘Momotarou’, và khi tôi nghe những câu hỏi từ mọi người trong lớp, tôi nghĩ tôi nghe lỏm được điều—rằng cô đã tham gia câu lạc bộ nhạc kịch ở ngôi trường trước kia...”
“Ah! Ahh! Erm! Đúng ạ! Đúng là nó, ý anh là?”
Tôi không biết—thứ mà Nitadori đang nhầm lẫn là gì, nhưng nó dường như đã được giải quyết. Với cái nhìn trống rỗng, cô nàng bắt đầu bộc bạch.
“Đúng ạ! Em đã từng trong câu lạc bộ nhạc kịch. Em đã nghĩ đó là điều anh ám chỉ khi anh nói tới ‘diễn xuất’.”
Tôi hiểu, vậy ra nó là như thế. Tôi đã hỏi nhầm câu rồi. Đáng ra tôi nên hỏi ‘Cô nàng bắt đầu diễn xuất khi nào’.
“Xin lỗi... Tôi có vẻ đã diễn đạt nó sai rồi. Bên cạnh đó, về việc tôi nghe lỏm cuộc trò chuyện, nó có vẻ... Tôi xin lỗi.”
“Không sao mà! Em hiểu! Về câu lạc bộ nhạc kịch đúng không? Well, anh đừng nghĩ là anh đang nghe trộm chứ. Anh ngồi ngay trước em mà, và sẽ thật kì quặc nếu âm thanh cuộc trò chuyện không lọt tới tai anh. Sau cùng cũng là em đang trả lời những người khác mà."
Nitadori nói với âm giọng bình thường, và sau đó trả lời câu hỏi duy nhất của tôi,
“Em đã học một ít diễn xuất khi còn ở tiểu học, và sau đó em thật sự học diễn xuất khi vào trung học, trong vòng 3 năm liền, mãi tới khi lên tới cao trung.”
Trong trường hợp đó, cô nàng đã học diễn xuất ít nhất 4 năm. Không còn phải nghi ngờ về khả năng diễn xuất nữa. Tất nhiên, tôi không nghĩ rằng với chỉ sự cố gắng đơn lẻ có thể biến cô nàng trở thành một diễn viên lồng tiếng được. Tôi đoán để đạt được như giờ cô nàng còn cần nhiều sự đào tạo khác nữa cơ.
“Em đã học ở trường quốc tế trong suốt thời gian này.”
Nitadori nói với tôi điều này, nó cũng lí giải tại sao tiếng Anh của cô nàng thật sự thành thạo.
“Giáo viên nhạc kịch khi đó—“
Cô nàng nói bằng giọng thỏ thẻ nhưng đầy niềm vui,
"… luôn vui vẻ nói với chúng em một điều trước khi dạy là, 'Everyone, transform yourself into someone else! You can be anyone!'[note47098]"
“Câu đó nói bằng tiếng Anh à?”
“Dạ.”
Tôi bắt đầu hình dung ra cảnh giáo viên nước ngoài gọi là thầy John hay cô Jeanne vui vẻ nói chuyện với tất cả học sinh. Tôi mù về tiếng Anh, bởi thế khi giáo viên nói tiếng Anh, tôi cần có phụ đề.
Nitadori đứng hạng 7 trong số các học sinh, và ngoại hình cô nàng khác giờ một chút, đó là cô nàng thấp hơn bây giờ thôi. Mái tóc đen dài cùng cặp mắt kính vẫn như giờ.
“Cô ấy là một giáo viên tốt... cô ấy luôn nói ‘alright, time for acting’[note47099]—"
Và đó là cô Jeanne.
“Với em, câu đó như là một phép biến đổi...”
Tôi cảm thấy điều gì không ổn ở đây.
Sau cùng, tôi lập tức nhận ra lí do.
Mỗi khi nói chuyện với tôi, Nitadori đều nhìn thẳng vào mắt tôi.
Điều này có lẽ bởi vì cô nàng là người duy nhất đặt câu hỏi, cô nàng luôn phải giữ phép lịch sự khi nói chuyện với người khác, và điều đó yêu cầu phải nhìn vào mắt người đối diện.
Tôi sẽ bối rối mất thôi, không thể nói chuyện được khi nhìn chằm chằm vào một cô gái dễ thương thế này được.
Vì vậy, tôi đã phải né tránh nhiều lần. Tôi giữ cho cảm giác đôi mắt của Nitadori nhìn vào mình như việc tôi nhìn vào trước ghế vậy, hoặc là nhìn vào đầu gối của mình.
Nhưng Nitadori khác.
Nitadori không nhìn vào tôi.
Cảm thấy không ổn, tôi nhìn Nitadori, và cô nàng không nhìn tôi.
Đôi mắt cô nàng đang nhìn mân mê vào những ngón tay đang đan vào nhau.
“Nó cũng giống như buổi After Record. Mình sẽ lẩm bẩm điều này trong tim mình.”
Tôi nhớ lại đôi môi run rẩy của cô nàng khi đọc kịch bản.
“Ah! Đúng nó rồi!”
“Mình không thể không thốt ra được.”
“Eh?”
Nitadori cuối cùng cũng nhìn vào tôi, đôi mắt cô nàng nhìn qua vai.
“Khoảnh khắc đó... như trong?”
Cô nàng nhìn tôi với vẻ mặt khó hiểu. Cứ như đang bị thẩm tra, tôi đành trả lời.
“Đó là buổi After Record tuần trước... khi cô đang chuẩn bị lồng tiếng cảnh B, tôi đã thấy Nitadori lẩm bẩm điều gì ấy.”
“Wah! Xấu hổ quá... em biết rồi mà!”
Không một chút giả vờ nào, mặt cô nàng ửng đỏ, và cô nàng cúi đầu thẹn thùng.
“Em luôn làm điều tương tự vậy mỗi trước khi thu âm... wahh, thật là xấu hổ quá...”
Tôi hiểu rồi. Vậy ra cô nàng luôn làm thế, nhưng thật không ai nhận ra à?
“Hii...”
Cô nàng tiếp tục khe khẽ. Đây có lẽ là lần đầu tiên tôi thấy Nitadori dường như đúng nhỏ hơn tôi thật.
Trông vẻ đáng yêu của cô nàng, tôi hỏi tiếp
“Nó chắc cũng nói bằng tiếng Anh phải không? Câu mà cô lẩm bẩm ấy, là gì thế?”
Nitadori đột nhiên ngước mặt lên nhìn tôi,
“It’s time to play!"
Cô nàng nói lưu loát. Câu nói và giọng điệu của cô nàng y như người bản xứ vậy.
“It’s, time—to, play...”
Tôi lặng lẽ lặp lại câu này bằng thứ tiếng Anh-Nhật lơ lớ.
Tôi không thành thạo tiếng Anh, nhưng tôi luôn tập trung trên lớp.
Bởi thế, tôi nghĩ tôi vẫn có thể hiểu tiếng Anh ở trình độ này, bằng cách nào đó.
Tất nhiên, từ ‘play’ ở đây không phải mang nghĩa ‘chơi game’, mà là mang nghĩa ‘diễn xuất’.
“Em đã lược chữ ‘it’s’, bởi vậy khi em lẩm bẩm nó sẽ là—‘time to play’.
“Time to play...”[note47100]
“Alright, it's time to act! Come on, everyone, break away from yourself and be someone else. I'm going to become someone else now. Time to play, time to play."[note47101]
“Tôi hiểu, vậy ra tất cả các cô cần phải hóa thân thành một ai khác khi diễn xuất à?”
“Yep. Trở thành một ai khác. Ai cũng có thể làm được, anh cũng vậy, sensei. Anh có muốn thử không?”
“Tôi ấy à? Erm...”
Time to play.[note47097]
Tôi lẩm bẩm những những từ trên trong đầu.
Mình đoán với mình việc diễn là bất khả thi rồi, tôi nghĩ thế ngay tắp lự.
Là một nhà văn, tôi viết văn.
Tôi có thể nghĩ ra một thế giới khác, viết về những cuộc đối thoại tưởng tượng.
Nhưng tôi không thể diễn xuất. Tôi không thể nói năng một cách giả dối.
Ngay lúc tôi còn đang phân vân cách giải thích điều này cho Nitadori thì—
Con tàu bắt đầu phát ra một thông báo với hành khách là sắp tới ga cuối.
Dừng ở đây thôi, tôi lỡ cơ hội để nói với cô nàng mất tiêu rồi.
10 Bình luận
Kiến thức đã được tiếp thu
Nhưng quá tải rồi :))
Chương này tôi dịch từ hồi trình còn gà nên bác thông cảm.
Mà bác khoanh vùng cho tôi với chứ đoạn 933 tôi tìm không ra :(