Hồi đầu năm, trong một buổi café trà đá, tôi và mấy thằng bạn có bàn luận chuyện Nick Vujicic sang Việt Nam. Ba đứa chúng tôi mỗi người một ý; tôi nghĩ anh ta muốn cổ vũ những người đồng cảnh ngộ, thằng Choác nghĩ anh ta chỉ cố kiếm tiền, còn thằng Xoạch quả quyết nếu sinh ra ở Việt Nam, giờ này Nick Vujicic đang lăn lộn bán vé số. Nhưng cả ba đều đồng ý rằng nếu chẳng may lâm vào hoàn cảnh trên, chúng tôi sẽ tự sát ngay lập tức. Cơ thể đang lành lặn bỗng mất một bộ phận, thực là cơn ác mộng khủng khiếp.
Trước đây khi thấy người khuyết tật, tôi đều tránh xa họ. Trong mắt tôi họ như một chủng tộc khác, lý do rất đơn giản: họ tàn khuyết, tôi đầy đủ. Nhưng bạn của tôi – Gabietbay lại là người khuyết tật. Dù mới nói chuyện qua mạng, thậm chí chưa biết mặt nhau, song sau những việc cùng trải qua lẫn chia sẻ trên diễn đàn vẽ, tôi coi hắn là người bạn thân thiết. Và khi đối diện người bạn có thân thể không lành lặn, tôi khá khó xử.
Để đơn giản, tôi sẽ gọi Gabietbay là Gà Bay (phân biệt với thằng Gà cấp hai). Trên mạng, Gà Bay chưa bao giờ nói cho tôi về hoàn cảnh đặc biệt của hắn. Tôi hỏi hắn đang làm ở đâu thì hắn chỉ trả lời là ngồi nhà bán trà đá. Hắn bán trà đá thật nhưng chưa từng nói tại sao mình lại như thế. Nhìn tình cảnh Gà Bay, tôi mới hiểu tại sao hắn không bao giờ tham gia offline diễn đàn vẽ ở Hải Phòng. “Vui thế, sao ông không đi?” – Tôi hỏi Gà Bay thế. Đáp lại, hắn chỉ ỡm ờ nước đôi, khi bảo nhà có việc, lúc nói bận trông hàng. Hắn thiếu thành thật, nhưng tôi nghĩ đó là quyền lợi chính đáng của hắn.
Tuy nhiên Gà Bay chẳng bối rối khi tôi biết sự thật. Trên chiếc xe lăn, hắn vui vẻ dẫn tôi về nhà và không ngừng nói về chuyện vẽ. Hắn nói về tác phẩm của tôi, tác phẩm của hắn, của những thành viên trên diễn đàn. Hắn nói một cách say mê và có nghề:
-Mấy thằng mới vẽ chán lắm, toàn bắt chước mấy tranh nước ngoài thôi! Lắm ông cứ vẽ bừa phứa rồi bảo đấy là ấn tượng với sáng tạo?! Đan Mạch, nhìn phát tởm! – Gà Bay bức xúc nói, tay chém lia lịa như quạt gió – Đám cũ như ông với mấy thằng khác đi hết cả, chất lượng box xuống cấp thảm hại lắm. Chúng nó giờ có trò tự bợ đít khen nhau nữa, khắm vãi luôn!
Tôi tặc lưỡi:
-Mỗi thời mỗi khác! Mà dạo này ông còn vẽ nữa không?
Gà Bay cười:
-Có chứ? Sao không? Tôi vừa vẽ mấy tranh mới, tí nhờ ông xem hộ!
-Mà ông bỏ hàng ngoài đấy à?
-Không sao! Mấy bà hàng xóm trông hộ rồi, em tôi đi học sắp về, tẹo nó ra trông ấy mà! À mà chưa hỏi, hôm nay ông rảnh à? Sao xuống Hải Phòng vậy?
Tôi không muốn kể câu chuyện đáng xấu hổ cho người bạn mới gặp mặt, đành ậm ừ:
-Ờ. Mai thứ bảy, nghỉ mà. Đang rỗi, tiện xuống chơi với ông luôn! Biết nhau lâu mà chưa bao giờ gặp mặt cả.
Gà Bay cười. Hắn dẫn tôi vào ngõ rồi rẽ con hẻm bên phải, sau dừng lại trước một căn nhà hai tầng. Nhà hơi bé, khoảng sân trước chỉ vừa đủ cho hai chậu cây cảnh cùng vật dụng bán hàng như ghế nhựa, một xô đựng cốc chưa rửa, mấy két nước ngọt xếp chồng lên nhau và một bếp lò chưa nguội than. Gà Bay lăn xe qua khoảng sân, mở cửa rồi gọi tôi vào. Bước qua cửa, nhìn ngắm nội thất căn nhà, tôi cảm giác như đang sống trong những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước. Từ chiếc tủ kính thấp chân đựng bộ cốc chén Liên Xô, con lật đật màu đỏ nằm ở góc tủ tới chiếc đồng hồ Gimiko treo tường đã mờ hết mặt (ít nhất thì chiếc tivi trên tủ kính là đồ mới). Tôi ngó xuống chiếc bàn phòng khách bạc màu, thấy dưới tấm kính ốp mặt bàn là những bức ảnh gia đình của Gà Bay. Tôi chỉ vào một bức và cười:
-Thằng vẹo này là ông à?
Trong ảnh là một thằng bé con trạc bảy, tám tuổi đá bóng trên bờ biển. Gà Bay ngó vào bức ảnh, trả lời:
-Ừ! Tôi đấy! Hồi đó tôi hâm mộ đội Công an Hải Phòng nên muốn làm cầu thủ. Chuẩn bị xin vào lò đào tạo rồi ấy chứ…
Gà Bay bỏ lửng câu nói, sau quay vào nhà bếp, còn tôi ngắm nghía bức ảnh. Thằng bé trong ảnh có nước da ngăm đen đặc trưng của dân miền biển, ánh mắt sáng ngời, thân thể hoạt bát đầy sức sống. Hẳn đã có người nghĩ rằng khi thằng bé lớn lên, nó sẽ trở thành cầu thủ, hoặc không cũng trở thành thanh niên năng động. Chẳng ai nghĩ gần hai mươi năm sau, cuộc đời thằng bé ấy sẽ gắn liền với chiếc xe lăn.
Nhìn ngang ngó dọc một lúc, tôi vào bếp và thấy Gà Bay lúi húi chuẩn bị đồ ăn. Hắn nói buổi trưa nhà vừa có cỗ, còn nguyên một đĩa nem cua bể chưa ai đụng đến. Hắn bảo tôi thông cảm vì gần nhà không có quán nào bán bánh đa cua – thứ tôi vẫn muốn nếm thử. Hắn lại gọi điện nhờ đứa em khi đi học về thì tạt qua tiệm mua ít bánh mì cay. Tôi cười, bảo trên Hà Nội không thiếu món đó. Gà Bay lắc đầu, nói rằng hắn từng lên Hà Nội và thấy món bánh mì cay ở đó chỉ là hàng nhái kém chất lượng. Đồ ăn xong xuôi, trong nhà có rượu, vậy là đủ cho một đêm nhậu nhẹt. Nhưng tôi thấy Gà Bay vẫn đang ngắc ngứ ở góc bếp. Tôi hỏi:
-Làm gì đấy ông?
-Nấu cơm cho em tôi.
Thùng gạo hơi cao, đứng thì lấy dễ chứ ngồi hơi khó. Gà Bay phải nhổm cả người, một tay chống lên thành cái thùng, tay kia vớt gạo. Sau đó hắn ra ngoài sân vo gạo. Bởi không thể ngồi xổm nên hắn phải bắc thêm một cái đôn dưới vòi nước rồi đặt chậu rửa lên trên. Tôi hỏi:
-Ngày nào ông cũng nấu à?
-Ờ. Ông già bận suốt, có bao giờ ở nhà đâu? Tôi phải tự nấu thôi.
-Thế bà già đâu?
-Ly dị rồi. – Gà Bay đáp lời – Các cụ không ưa nhau. Sau khi tôi liệt khoảng ba bốn năm gì đấy, không nhớ nữa!
Nói rồi hắn cười. Cười không phải kiểu chua chát, nụ cười của hắn là kiểu chấp nhận những chuyện đã rồi. Tôi hỏi có thể đỡ được cái gì không thì hắn từ chối. Tôi cười:
-Đan Mạch, ông chê tôi không biết nấu à? Tôi nấu cũng được đấy nhé!
-Không phải. Mấy cái này tự tôi làm, đơn giản mà!
Vì không thể nấu bếp gas, Gà Bay nấu nướng bằng bếp than. Bếp gas để cao quá, hắn không với tới, có lần hắn cố thử đặt cái ghế con trên ghế xe lăn, phiền nỗi xe lăn không vững, nó trượt bánh và hắn ngã bổ chẩng, suýt gãy tay. Sau lần ấy Gà Bay không dám nấu bếp gas nữa. Chiếc bếp lò cũ mèm thuở nào được lôi ra dùng lại. Đã bước qua thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, nhưng nhà hắn cứ đều đặn hai tháng lấy than một lần. Mỗi sáng, hắn lại thức dậy đun bếp và hiếm khi mượn ai làm thay, trừ hôm nào ốm quá không dậy được. Hắn vừa nấu vừa nói:
-Tôi đang tính nấu bếp từ, hơi tốn điện một tí nhưng đỡ ảnh hưởng hàng xóm. Bếp lò đun nước đun chè thôi!
-Ông mua bếp từ của thằng Thái lọ ấy! Rẻ mà tốt! – Tôi nói.
-Cái đấy phải để ông già hoặc con em tôi đi mua. Tôi không ra ngoài mấy nên biết cái đếch gì đâu! – Gà Bay cười.
Khoảng sáu giờ, em gái Gà Bay đi học về, mang theo một túi đầy bánh mì cay nóng hổi và thơm phưng phức. Chúng tôi đợi cô bé ăn tối xong mới bắt đầu cuộc nhậu trong phòng riêng của Gà Bay. Phòng khá bé, nguyên cái giường lẫn bàn học đã choán gần hết, chỉ chừa một khoảng nhỏ ở giữa, trải tấm chiếu cho hai thằng ngồi nhậu là vừa hết. Phòng chật vì giấy tờ bừa bộn, nhìn đâu cũng thấy giấy xếp thành đống: trên giường, dưới gầm giường, trên mặt bàn, chất đầy các ngăn kệ sách. Lộn xộn – có thể gọi nơi này là vậy. Nhưng đó là sự lộn xộn tuyệt vời nhất tôi từng thấy. Bởi những xấp giấy tờ ấy đều có nét bút vẽ. Tôi thường tự hào rằng số tranh mình vẽ ra nhiều hơn số tóc trên đầu. Nhưng ở căn phòng này, sự tự hào ấy chỉ là trò cười. Những bức tranh có thể chưa đẹp, chưa đủ gây ấn tượng, song tôi biết Gà Bay tô vẽ chúng hết sức tỉ mỉ. Để hoàn thiện chúng, thời gian lẫn sức lực và trí tuệ bỏ ra không hề nhỏ. Tôi thấy một bức tranh dở dang đang nằm cạnh màn hình vi tính. Gà Bay cười:
-Lâu lâu ông mới xuống đây chơi, ăn uống thả phanh nhé!
Hắn xách ra một chai Vodka. Rượu không tệ nhưng một điều hài hước là tửu lượng hai thằng đều kém. Gà Bay tuy mặt mũi ngầu ngầu gấu chó nhưng hớp được năm sáu chén là chết tại chỗ hoặc đi gặp chị Huệ liền. Thế là hai thằng hẹn nhau uống hết mình chén thứ nhất, năm mươi – năm mươi chén thứ hai và bắt đầu lai rai chén thứ ba. Mồi nhậu tứ lung tung gồm mấy con mực khô, nem cua bể và bánh mì cay; trông hơi hổ lốn nhưng phàm đã nhậu thì chẳng quan trọng chuyện mồi nữa.
Tôi và Gà Bay vẫn tỉnh táo, nhưng có hơi rượu nên cả hai cởi mở lòng mình hơn. Cuộc nói chuyện giữa chúng tôi cứ kéo dài mãi, tựa hồ không bao giờ kết thúc. Câu chuyện mào đầu vẫn là vẽ. Gà Bay nói:
-Tôi vào diễn đàn sớm hơn ông, khoảng hai năm gì đấy… Ờ, tôi có quen một thằng bạn trên mạng, nó chỉ xem thôi, không biết vẽ! Thằng ấy tìm ra diễn đàn này rồi rủ tôi tham gia.
-Vậy hả? Thế trước đấy ông vẽ bao giờ chưa?
-Có, một ít.
Nói rồi Gà Bay chỉ tay vào kệ sách. “Một ít” của hắn là hàng trăm tờ giấy khổ A4 xếp chồng đống. Tôi tiện tay vớ lấy một tập. Giấy ngả màu vì năm tháng thời gian nhưng nét vẽ vẫn rõ ràng. Tôi bật cười vì những đường nét ngô nghê như được họa lên từ bàn tay học sinh tiểu học. Đó là những bức vẽ đầu tiên của Gà Bay, năm hắn hai mươi tuổi. Tuổi tác không thành vấn đề khi ta bắt đầu làm một thứ gì đó, vấn đề là “lý do”. Tôi rất tò mò tại sao Gà Bay lại vẽ:
-Tự nhiên ông thích vẽ à? Hay là có người dạy?
Gà Bay tặc lưỡi:
-Thực ra là tôi thích từ bé, hồi chín mười tuổi cơ! Ngày trước có thằng bạn hay qua nhà chơi, tôi thấy nó học Mỹ Thuật, ngó qua thấy thích rồi vẽ lại thôi. Nhưng hồi bé vẽ chơi chơi, mấy năm gần đây tôi mới vẽ nghiêm túc. Chẳng ai dạy đâu, toàn tự học!
-Trường tiểu học nào chẳng dạy môn Mỹ Thuật? Ngày trước tôi ghét môn ấy như gì!
Gà Bay cười:
-Ờ biết thế. Vấn đề là tôi mới học hết lớp ba, chửa biết Mỹ Thuật lớp bốn, lớp năm như thế nào.
Sự ngỡ ngàng len lỏi qua tâm trí tôi. Tôi đặt xấp giấy trở về chỗ cũ rồi hỏi hắn:
-Thế ông bị liệt từ lớp ba à?
-Ờ.
Gà Bay thở dài một lúc rồi nâng chén rượu thứ ba với tôi. Uống xong, hắn bắt đầu kể chuyện. Đại khái hồi lớp 3, Gà Bay ốm nặng. Bố mẹ mang hắn ra trạm y tế phường thì người ta bảo hắn ốm sơ sơ, không cần thiết chuyển lên bệnh viện tuyến trên. Bố mẹ Gà Bay tưởng thật, chỉ cho hắn uống mấy liều thuốc thông thường. Nhưng bệnh của hắn ngày càng nặng, tới lúc hôn mê bất tỉnh, gia đình mới cuống cuồng đưa lên bệnh viện thì nhận tin dữ: Gà Bay chỉ còn sống vài tháng. Trong tuyệt vọng, bố mẹ đưa hắn đi khắp nơi tìm thầy thuốc, đông tây đủ cả. Chuyện đã gần hai mươi mấy năm, nhưng với Gà Bay, nó chỉ như vừa xảy ra ngày hôm qua.
-Lúc ấy khổ đếch chịu được ông ạ! Ngày nào ông bà già cũng lôi tôi đi gặp mấy ông thầy tận đẩu tận đâu. Mà chữa mãi nó đếch khỏi mới cay! Mình ốm dở, trời đất lúc nào cũng quay mòng mòng hết!
-Thế cuối cùng thế nào? Sao ông sống được?
-Ờ, may là nhà tôi tìm được ông N, ông này giỏi châm cứu lắm, làm ở Trung ương thì phải! Ổng châm cứu cho tôi ít lâu thì khỏi. Nhưng ổng chỉ cứu được cái mạng tôi thôi. Bệnh ngấm lâu quá, ổng không cứu được hết, và kết quả là thế này đây…
Hắn cười rồi vén ống quần dài, tôi thấy chân hắn rất bé, chỉ bằng nửa chân tôi. Bởi mặc cảm này nên Gà Bay luôn mặc quần dài bất kể nắng mưa nóng lạnh. Hắn nói họa hoằn lắm lúc đi ngủ mới dám mặc quần đùi. Nhưng ngoài lý do mặc cảm, đằng sau đôi chân bị liệt đó còn là câu chuyện khác. Gà Bay nói:
-Không cứu được cái chân, ông bà già tôi suốt ngày cãi nhau. Được một thời gian, bà già đẻ con em lại cãi nhau tiếp. – Hắn cười – Mẹ tổ sư, thế là ly dị luôn!
Gà Bay chỉ nói đến thế, song tôi cũng hiểu vấn đề. Gà Bay vỗ vỗ chân mình, tiếp lời:
-Gần như không làm ăn được gì nữa ông ạ, giờ tôi chỉ loanh quanh ở nhà với ra đầu ngõ bán trà đá là hết, không đi được xa. Mà ngay ở cái nhà này, tôi cũng hiếm khi lên tầng hai. Luẩn quẩn quanh đây vậy thôi…
Hắn vừa nói vừa khoát tay mô tả khoảng không gian nhỏ tin hin này. Bé, thực sự bé! – Tôi tự nhủ. Nếu tôi phải sống ở nơi này suốt mười mấy năm, tôi đã phát điên từ lâu. Tôi cười:
-Đừng bảo với tôi là chân giữa của ông cũng toi luôn thể nhé?
Gà Bay cười sằng sặc:
-Không, vẫn hoạt động tốt. Nhưng mà… ngoài đi vệ sinh ra thì cũng chẳng làm gì nữa, cùng lắm là quay tay thôi!
Tôi cười như điên trước lời đùa cợt tếu táo của hắn. Nhưng khi tiếng cười dịu bớt, sự im lặng như chiếc lồng bàn từ từ úp xuống cuộc nhậu. Tôi len lén nhìn sang Gà Bay, nhìn lén chứ không phải nhìn thẳng. Tôi sợ bắt gặp ánh mắt của hắn. Bởi đằng sau lời đùa cợt ấy là nỗi khổ mà Gà Bay có thể phải chịu đựng suốt đời. Mười, hai mươi năm nữa, thậm chí năm mươi năm nữa, căn phòng chật hẹp vẫn chỉ có mình hắn. Có thể tôi sẽ đến thăm hắn nhiều hơn, nhưng bạn bè không thể ở bên nhau mãi và tình bạn không thể khỏa lấp nỗi cô đơn tột cùng ấy.
Gà Bay từng thích một cô bé. Hàng ngày, cô bé đi học qua con ngõ nhỏ nơi Gà Bay bán trà đá. Hắn nhìn dần thành quen, để ý cô bé từ lúc nào không hay. Nhưng thích chỉ là thích chứ hắn không thể tiến xa hơn, vì cuộc đời có những giới hạn không thể vượt qua. Qua một thời gian, cô bé chuyển lên Hà Nội rồi ở hẳn trên đó, mãi mãi không bao giờ đi qua con ngõ nhỏ nữa. Một câu chuyện tình ngắn ngủi.
Dù vậy Gà Bay vẫn kịp lưu giữ chuyện ngắn ngủi ấy qua tranh vẽ. Hắn trèo lên ghế, rút một tập giấy từ kệ sách(hắn không nhờ tôi làm hộ dù ngăn kệ hơi cao), đưa cho tôi một bức vẽ chân dung. Tranh chưa đẹp vì nét vẽ chưa thuần thục. Gà Bay thừa nhận hiếm khi vẽ nữ giới nên không có nhiều kinh nghiệm. Nhưng tôi lại nhận ra mình bị cuốn hút bởi đôi mắt trong bức tranh. Chỉ là đánh bóng bằng chì, một thủ thuật đơn giản, song tôi có thể nhìn rõ những câu chuyện trong đôi mắt ấy cùng những tình cảm mà người vẽ dành cho bức tranh. Gà Bay cười:
-Tranh này tôi vẽ lâu rồi, bốn năm năm gì đấy. Đưa lên diễn đàn thì chúng nó chửi nhiều lắm, bảo vẽ xấu quá!
Tôi cười, rồi uống chén rượu thứ tư với hắn. Tôi hỏi tiếp:
-Ông có định vẽ chuyên nghiệp không?
Gà Bay tựa vào thành giường, đầu ngửa lên, đôi mắt mơ màng về một tương lai xa xôi. Nhưng rồi hắn lại cúi đầu trở về với thực tại:
-Muốn lắm chứ, nhưng chắc không được. Người ta bảo muốn vẽ đẹp phải chứng kiến nhiều, đi nhiều. Tôi thì… đi thế nào được? Chắc chỉ tham khảo qua mạng là hết cỡ! Mà mạng sao bằng đời thực, đúng không?
-Nếu biết thế, ông còn vẽ làm gì? Ông đâu thể vẽ chuyên nghiệp, đúng không?
Gà Bay cười:
-Ờ thì biết thế! Nhưng mà khi vẽ, tôi thấy thoải mái hơn, thấy… dễ chịu hơn. Ít nhất là khi vẽ, tôi không thấy mình khiếm khuyết gì cả.
Tôi hiểu tâm trạng của Gà Bay. Nếu còn đôi chân, hắn sẽ đi nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người và vẽ đẹp hơn tôi. Hắn vẽ kém hơn tôi chỉ vì xuất phát điểm của mỗi người khác nhau. Nhưng vừa phải bán trà đá mưu sinh, vừa vẽ được, tôi thấy hắn cũng tài, bèn hỏi:
-Ông ngồi quán cả ngày sao vẽ được?
-Hở ra lúc nào là vẽ lúc ấy. Lúc không có khách này, lúc ăn trưa này, đêm này… tôi thức muộn lắm, một hai giờ sáng mới ngủ!
Tôi mỉm cười, nghĩ đến hắn rồi lại nghĩ đến mình. So với một gã thiệt thòi như hắn, tôi cảm giác những cố gắng của mình chỉ như trò cười. Tôi nháy mắt:
-Vẽ nhiều vậy, thế nào cũng bói ra được một bức bán cả triệu đô!
Gà Bay cười tươi. Hắn biết tôi nói đùa và vui vẻ vì lời đùa cợt ấy. Hắn nói:
-Ông có bao giờ bị chửi vì vẽ không?
-Có. – Tôi cười sằng sặc – Cái Đan Mạch, hồi cấp ba bị chửi nhiều khiếp…
Và tôi bắt đầu kể cho Gà Bay những câu chuyện thời đi học. Không được đi học, không biết chuyện học sinh, không biết nhiều về trường lớp… mọi sự “không” khiến hắn say mê lắng nghe. Nghe xong, hắn cười:
-Tôi cũng hay bị chửi. Ông già nhà tôi thi thoảng say rượu hoặc bực mình lại chửi tôi là thằng què suốt ngày vẽ vời. Lắm lúc ghét ổng, định cầm cái bát phi vào đầu ổng đấy chứ! Nhưng mà… dù sao ông già vẫn nuôi tôi, hôm nào cũng đi làm hết. Cái bộ máy tính này là ổng mua cho tôi đấy chứ! Thế nên tôi cũng phải bán trà đá phụ ổng, chứ không tội ổng lắm. Bố với con trai đánh nhau, nhưng cuối cùng vẫn là bố con chứ hả?
Nghe hắn nói vậy, tôi hơi cay mũi, mắt nặng trĩu. Nhưng là thằng hiếu thắng, tôi quyết không để ai thấy mình yếu đuối. Tôi đi quanh phòng, cố gắng xem những tập tranh để quên đi phiền muộn. Lạ thay, tranh của Gà Bay khiến tôi vui hẳn lên. Có một tập tranh kỳ lạ gồm nhiều chủ đề khác nhau, nhưng điểm đặc biệt là màu sắc tranh luôn tươi sáng, dù được phối hơi bừa bãi và thiếu quy tắc. Nhìn chúng, tôi chợt nhớ về những giấc mơ thời xa lơ xa lắc. Gà Bay vừa cười vừa nói:
-Ông có nhớ kiểu vẽ ấy của ai không?
-Không?! – Tôi nhíu mày – Ông tự nghĩ ra à?
-Mau quên thế? Là của ông chứ của ai! – Gà Bay cười – Nhớ hồi trước chứ? Mấy thằng cứ thảo luận vẽ kiểu này mới đúng quy tắc, vẽ kiểu kia mới ra phong cách. Tự dưng ông xuất hiện và nhổ toẹt vào mọi thứ! Cái kiểu pha màu ba lăng nhăng của ông hóa ra lại làm nhiều đứa thích, cũng có đứa ghét. Tôi thích kiểu vẽ của ông. Cảm giác yêu đời hơn hẳn! Cho nên tôi mới học theo. Nhưng mà hình như chỉ mỗi ông làm được thôi thì phải?
-Pha màu thôi ấy mà, có cái gì ghê gớm đâu… – Tôi trả lời.
-Ông vẽ lại đi. – Gà Bay đề nghị – Tôi với nhiều đứa cũng muốn ông vẽ lại lắm. Mấy hôm trước có thằng hỏi tôi là “Thằng Boyteotop bao giờ vẽ lại?”.
Tôi cười:
-Đi làm rồi, thời gian đâu nữa? Với cả vẽ có ra tiền đếch đâu?
-Biết thế… nhưng biết đâu ông tìm được cái gì hay ho thì sao?
-Thế ông tìm được cái gì hay ho?
-Nhiều chứ! Nhưng quan trọng nhất là tôi thấy mình đang sống và có thể sống tiếp.
Tôi hiểu tình cảnh Gà Bay. Vẽ vời làm vơi đi cuộc sống đầy nỗi buồn của hắn. Nhưng tôi khác hắn, tôi còn cả đống thứ mà gia đình giao phó, còn trăm thứ chuyện mà cuộc sống này buộc tôi phải làm. Tôi không thể rũ bỏ mọi thứ để chạy theo một giấc mơ bất định.
Tôi quay ra định nói tiếp thì cụt hứng vì… Gà Bay ngủ từ lúc nào, ngáy pho pho. Hắn 27 tuổi nhưng chỉ như cậu bé 17 đầy mơ ước lẫn ngây thơ. Ngây thơ đến mức ngủ ngay trước mặt một kẻ xa lạ từ Hà Nội xuống. May cho hắn, tôi là Tùng Teo Tóp chứ không phải quân lừa đảo trộm cắp hay yêu râu xanh. He he, nói mới nhớ, cô em gái của hắn không tệ chút nào!
Định kéo Gà Bay lên giường, tôi bất giác nhận ra khóe mắt hắn đã ướt nhèm. Tôi chợt hiểu đằng sau khuôn mặt lạc quan đó là những nỗi buồn chất đống. Gà Bay không nói hắn đã sống thế nào trong khoảng thời gian trước khi vẽ vời. Tôi đoán nó không hề dễ chịu. Và dường như mọi uất ức của Gà Bay đều dồn vào tranh vẽ, nỗi buồn nhiều bao nhiêu, tranh nhiều bấy nhiêu.
Làm thằng đàn ông đã khổ.
Làm thằng đàn ông khiếm khuyết khổ gấp vạn lần.
Tôi lôi tranh của Gà Bay ra xem bằng hết. Càng xem, tôi càng thấy căn phòng nhỏ bé này mở rộng, không gian xung quanh sống động vô cùng. Những bức tranh đó không quá ấn tượng, không quá đẹp, nhưng chúng đầy màu sắc như một thước phim vô tận về cuộc sống. Dần dà, tôi chợt hiểu câu nói của hắn.
Tôi có thực sự đang “sống” không?
Từ bao giờ tôi trở thành một kẻ cục cằn và giả tạo?
Con người của tôi ở đâu?
Gà Bay không vẽ đẹp bằng tôi, kỹ thuật kém hơn tôi, nhưng căn phòng này, thế giới này của hắn lớn hơn tôi nhiều. Hắn giỏi hơn tôi nhiều lắm!
Tôi cầm bút, rờ tay lên mặt giấy A4. Đã lâu lắm rồi tôi không vẽ, cảm giác ngượng ngịu. Ngượng vì chưa quen tay, vì những chuyện không hay trong quá khứ. Nhưng ở đây, ngay trước mặt tôi có một người vượt qua tất cả để vẽ. Và không gì tuyệt vời hơn khi có thể vẽ lại khoảnh khắc này. Tôi bắt đầu vẽ lại Gà Bay, tư thế ngủ của hắn, khuôn mặt của hắn, mọi thứ cứ dần hiện lên. Vẽ tới đâu, tôi cười tới đó, bởi tôi biết đây mới là thế giới mà mình thuộc về. Cũng đêm hôm ấy, tôi có câu giải đáp cho cái tên Gabietbay, một cuộc đối thoại khi chúng tôi quen biết nhau lần đầu tiên:
“Ông là Gabietbay hả? Nhờ ông xem hộ tôi cái tranh này với!
Tôi thấy ông hay hoạt động ở đây
Nên muốn nhờ đánh giá”
“Ờ, ném link đây để tôi coi
Cũng đang rảnh
Định xem người khác vẽ thế nào”
“Mà sao ông đặt tên là Gabietbay?”
“À :))
Vì con gà có cánh nhưng không bay được
Nó là giống chim què
Nhưng mà nó vẫn vỗ cánh
Hy vọng một ngày có thể bay được
Đơn giản thế thôi :D”
Vì rượu, vì say, mười giờ sáng hôm sau tôi mới trở dậy. Gà Bay mời tôi ở lại cơm trưa nhưng tôi từ chối, chỉ hỏi đường ra bến xe. Còn rất nhiều thứ để tôi và hắn tâm sự, một cuộc nhậu chưa thấm tháp vào đâu. Nhưng tôi cần trở về với gia đình, tôi biết mình cần làm gì. Tôi muốn lần sau gặp lại, tôi có thể kể nhiều thứ hơn cho Gà Bay, kể nhiều dự định tương lai hơn cho hắn nghe. Tôi tự hứa với mình như thế.
Trở về Hà Nội, cuộc sống của tôi phủ màu u ám gần một tuần mới hết. Sau đó, mọi thứ lại trở về như cũ. Không có nỗi buồn hay cơn tức giận nào là mãi mãi. Qua được quãng thời gian khó khăn, tôi bắt đầu nghĩ chuyện vẽ, nghĩ một cách nghiêm túc.
Nghĩ là một chuyện, bắt tay vào làm là chuyện khác. Đôi khi, vì một ngày nhiều chuyện bực mình, tôi sẵn sàng ném cả buổi tối hôm ấy cho mấy bộ phim hoặc clip hài. Nhưng rồi phim phổm hay mấy thứ hài hước chẳng làm tôi khá lên. Với tôi, khi suy nghĩ và ý tưởng còn tràn ngập trong bộ não, tôi sẽ không thể ngồi yên. Lừng khừng mấy ngày, rốt cục tôi cũng bắt đầu vẽ. Chuyển biến ý tưởng ra trang giấy thật khó khăn, nhưng điều quan trọng là khi vẽ, tôi cảm thấy vui, cảm thấy mình đang sống.
Tuy nhiên không có việc gì dễ dàng. Sau một tuần, tôi hoàn thiện tác phẩm và gửi qua cho Gà Bay. Hắn phản hồi thế này:
“Ông vẽ kiểu mới à?
Nhìn trông quái quái
Không giống trước đây tí nào
Mới nhìn trông không thuận mắt lắm
Hay ông thử post lên diễn đàn
Xem chúng nó ý kiến thế nào?”
Nghe theo Gà Bay, tôi post tranh lên diễn đàn. Những comment phản hồi cho bức tranh không tốt lắm. Những người xem tranh đa phần là người mới, người cũ hầu như đã ra đi hết. Họ nhận xét:
“Vẽ được đấy, cơ mà không hiểu tác giả có ý gì?”
“Tại sao con tàu lại có mắt? Trông kinh quá! ><”
“Chủ đề fantasy mà chẳng thấy fantasy đâu… rồng đâu? Chiến binh đâu? Bạn nên học vẽ cơ bản”
“Vẽ như cái l…”
Ngay cả người cũ cũng không mặn mà với tác phẩm mới của tôi. Họ nghĩ tôi đang phá vỡ khuôn khổ chứ không phải sáng tạo. Họ muốn tôi vẽ như trước, vẽ những đường nét mà họ quen mắt. Tôi không muốn giậm chân tại chỗ, vẽ lại những thứ mình đã vẽ hoặc na ná giống vậy.
Những lời bình luận không làm tôi chán nản. Mỗi ngày đi làm về, cơm nước tắm giặt xong, tôi lại vẽ. Lắm hôm tôi thức muộn, chỉ ngủ bốn hoặc năm tiếng. Thứ bảy và chủ nhật trở thành hai ngày vàng của tôi. Gọi là ngày vàng bởi trong bốn mươi tám tiếng ấy, tôi có thể vẽ liên tục hàng tiếng đồng hồ (trừ phi bạn bè rủ đi café), có thể sống trọn vẹn với thế giới của mình. Mỗi khi vẽ, tôi là anh chàng hai 23 tuổi nhưng mang những khát khao của cậu trai 17 tuổi. Một tháng vẽ đầu tiên, chưa ai bình luận những tác phẩm của tôi. Tôi cố gắng gấp đôi vào tháng thứ hai. Hai tháng, ba tháng, rồi bốn tháng, những bức tranh vẫn lần lượt ra lò song lời bình luận chẳng thấy đâu. Tôi không nản mà tự hứa sẽ cố gắng gấp mười lần vào tháng thứ năm. Lắm lúc Gà Bay phát hoảng với sức vẽ của tôi, hắn bảo:
“Ông vẽ khiếp quá
Một tuần một bức
Toàn chi tiết cỡ này
Đến phục
Bộ không ngủ à?”
“Ờ thì ngủ muộn
Mấy hôm thức khuya quá, đến làm mắt nhắm mắt mở bị sếp chửi té khói :D”
Không dễ để duy trì lòng quyết tâm ấy song tôi luôn có Gà Bay ủng hộ. Một điều nữa là tôi tìm thấy niềm vui trong chặng đường dài dằng dặc ấy. Những niềm vui như thế không tự dưng mà có, cũng không tự dưng xuất hiện, bạn phải tự học nó. Chẳng cần sách vở hay mấy thứ triết lý tầm xàm bá láp, tôi học từ một người bạn, biệt danh là Hô.
Nói qua một chút về anh chàng này, Hô học ngành kiến trúc và vừa mới tốt nghiệp. Gã là bạn thằng Xoạch, thằng Xoạch lại chơi với tôi, thế là tôi chơi với Hô. Chúng tôi đặt biệt danh Hô vì hàm răng của gã vừa to vừa có xu hướng lấy công bù thủ. Ngoại hình là vậy còn về tính cách, gã không có gì nổi trội, ngoại trừ một đặc điểm: rất lắm mồm. Hô sẽ lắm mồm khi có chủ đề làm gã hứng thú hoặc quan tâm, nhất là vấn đề kiến trúc. Hồi mới ra trường, gã nói quá trời chuyện xin việc. Bọn tôi không nỡ ngắt đài vì gã là dân ngoại tỉnh muốn tìm việc ở Hà Nội, lo lắng cũng đúng. Lo lắng nhiều quá, gã thành ra nói nhiều kinh hồn, kiểu thế này:
-Đang khủng hoảng kinh tế, mấy ngành kiến trúc với xây dựng oải lắm các ông ạ! Công ty kiến trúc chết như rạ ấy! Mấy thằng cùng trường tôi ngồi nhà uống trà đập gián hơn một năm rồi! Mà cái Đan Mạch, không biết nó có tuyển mấy thằng như tôi không nhỉ? Không biết chúng nó có tuyển ngoại hình không nhỉ? Các ông trông tôi thế nào? Có đẹp trai không?
Mỗi lần như thế, bọn tôi được dịp cười sặc sụa.
Sau khi tôi và thằng Xoạch đi làm gần một năm, gã mới tìm được việc. Chúng tôi nhớ hôm đó gã gọi cả lũ tới quán café ăn mừng, mồm miệng hú hét không thèm quan tâm mọi người xung quanh:
-Tôi kiếm được việc rồi các ông ạ! Hết thất nghiệp rồi! Hết ăn hại rồi!
Kể từ đó gã ít tụ tập hẳn. Hễ gặp Hô, tôi lại thấy gã ngáp ngắn ngáp dài vì mệt. Tuy vậy, nụ cười của gã vẫn tươi rói (lẫn cả hàm răng tươi rói chẳng kém). Gã nói về công ty, về những kiến thức khác biệt giữa thực tế và trường học. Lắm khi Choác lẫn Xoạch bảo gã tắt loa nhưng tôi thì không, tôi muốn nghe gã nói. Thời gian đó, tôi đang vẽ lại và cảm thấy đuối sức trước những lời chỉ trích. Tôi muốn biết điều gì khiến gã giữ được niềm yêu thích với công việc, dù nó mệt mỏi và đầy thử thách?
Cho tới một hôm, tôi gặp Hô ở quán café quen thuộc. Tính từ lúc xin được việc tới khi ấy, gã đã đi làm hơn ba tháng. Trong lúc đợi thằng Choác và thằng Xoạch, tôi hỏi:
-Chỗ của ông bóc lột nhỉ? Thứ bảy chủ nhật cũng không tha cho nhân viên hả?
-Lắm việc mà! Với cả mình nhân viên mới, nó bảo gì phải làm đấy thôi. Có thêm thằng làm chân sai vặt, chúng nó chả sướng quá! Nhưng tôi cũng học được nhiều cái. Tốt cho mình thôi!
-Không thấy khó chịu à?
-Cũng có. Nhưng nghĩ nhiều mấy cái đó làm gì? Nặng đầu! Ít nhất thì tôi vẫn được tham gia vào dự án! Sắp có tiền thưởng rồi! Hè hè hè!
Không đứa sinh viên mới ra trường nào thích làm chân sai vặt. Có người bỏ đi vì cái tôi quá cao, có người ở lại vì muốn tìm bến đỗ vững chắc. Nhưng tôi thấy Hô không phải hai loại người trên. Gã chấp nhận khó khăn cực khổ vì đam mê với ngành kiến trúc. Tôi hỏi gã:
-Ông thích kiến trúc vậy à?
-Ừ. – Hô trả lời – Tôi thích từ năm lớp 12, lúc đầu vẽ hơi kém, may là thi đỗ.
-Bộ muốn làm kiến trúc sư như Võ Trọng Nghĩa hả?
-Không. Hồi đấy còn chẳng biết Võ Trọng Nghĩa là thằng nào! – Gã nhe răng cười – Năm lớp 12, tôi muốn xây một ngôi nhà mà mình có thể ở trong đó. Đơn giản thế thôi! Rồi tôi sẽ thiết kế một ngôi nhà cho bạn mình. Sau này, khi đi qua một công trình nào đấy, tôi có thể chỉ tay và nói với con người yêu “Cái nhà này do anh thiết kế!”. Hoặc sau này có con, tôi có thể dẫn nó đi rồi chỉ vào cái nhà “Bố mày thiết kế đấy, giỏi không con?”.
Tôi phì cười trước lý do chọn nghề của gã Hô. Nó đơn giản tới mức hài hước. Nhưng sau buổi café ấy, tôi nghĩ chuyện vẽ, nghĩ những chuyện mình từng trải qua, nghĩ về tương lai mình sắp đối mặt. Và rồi tôi chợt nở nụ cười khi nhớ lại năm mình 17 tuổi.
Tôi vẫn nhớ tuổi 17, cái tuổi sắp bước vào ngưỡng cửa đại học, cái tuổi mà mọi thằng con trai đều ngu ngốc nhưng tràn đầy ước mơ. Tôi nhớ mình đã vui thế nào mỗi khi hoàn thành một bức tranh hay chia sẻ ý tưởng cho người khác. Tôi chợt hiểu nhiều điều. Tôi hiểu anh chàng Hô yêu thích ngành kiến trúc vì gã còn giữ nguyên mơ ước tuổi 17. Tôi hiểu Gà Bay có thể vẽ không ngừng nghỉ vì hắn biết tận hưởng những niềm vui nhỏ bé trong một cuộc sống đầy rẫy đau khổ.
Khi còn khao khát, còn ước mơ thì cuộc sống này không dở tệ như bạn tưởng.
Từ những người bạn, tôi tự nhủ mình cần cố gắng hơn nữa, cố gắng bằng mọi sức lực mà tuổi trẻ này ban tặng. Thiếu ngủ, mệt mỏi, tóc bạc nhiều, mắt thâm quầng, thi thoảng bị các cụ chửi vì không đi tìm công việc mới nhiều tiền hơn hay ổn định hơn – đó là cái giá tôi phải trả cho vẽ vời. Nhưng tôi không nản. Mỗi ngày đi làm về, tôi không than vãn “hôm nay mệt quá, đi ngủ hoặc xem phim thôi” mà sẽ nói “vẽ thôi”. Mỗi tối, tôi cố gắng từng tí, từng tí một và khi bức tranh hoàn thành, tôi cười và quên hết những bực dọc. Tôi cảm thấy vui khi chia sẻ tranh cho Gà Bay, vui khi cùng hắn bàn luận những chỗ hay chỗ dở của bức vẽ. Tôi cũng bỏ luôn ý nghĩ chờ đợi xã hội sẽ thay đổi, thay vào đó, tôi cố gắng tự thay đổi và làm mọi thứ để người ta chấp nhận mình.
Cho đến một ngày nọ, Gà Bay nhắn tin cho tôi:
“Bức vừa rồi đẹp ác
Ông chỉnh thêm bằng photoshop hả?
Nhìn như bị hút vào tranh luôn
Ông tự nghĩ ra hay lấy ý tưởng từ đâu thế?”
Đó là lời khen ngợi đầu tiên của Gà Bay sau khi tôi vẽ lại. Hơn nửa năm kiên trì cuối cùng cũng có kết quả. Không chỉ Gà Bay, những lời bình luận trên diễn đàn tích cực hơn rất nhiều. Nhiều người chấp nhận cách vẽ mới của tôi và họ muốn một ngày nào đó, tôi có thể đưa những ý tưởng này vào một tác phẩm truyện tranh, hoặc có thể xuất bản một tập tranh chỉ toàn những bức hình như thế.
“Đẹp đấy bác ạ, cái này mà có thể dựng thành game thì tuyệt!”
“Bác vẽ được truyện tranh đúng không? Sao không dựng những ý tưởng này thành truyện tranh nhỉ?”
“Bạn vẽ đẹp quá, cho mình copy lên facebook nha!”
“Ông vẽ nhanh nhanh lên ông ơi, cả tháng ra có mấy bức, không đã mắt gì cả! >< Bận gái gú à?”
“Thằng này làm cái gì mà vẽ lâu vãi? Bộ tính làm Picasso chắc?”
Và ngay cả những người cũ – những người theo dõi tôi từ những ngày đầu tham gia diễn đàn, cũng hứng thú với bức tranh mới. Một người để lại bình luận thế này:
“Lâu không vào, không biết là bác quay trở lại, tiếc quá! Hâm mộ bác từ những ngày đầu tiên, giờ thấy bác vẽ ngày càng lên tay. Thời gian tới em có làm vài dự án vẽ, hy vọng bác tham gia!”
Bình luận khen chê trên mạng vốn dĩ vô thưởng vô phạt, tôi đã qua cái tuổi ham hố danh tiếng ảo. Nhưng như Hô từng nói: không việc gì phải quan tâm tiểu tiết, nặng đầu. Tôi chẳng so đo rằng bức tranh sẽ đem lại lợi nhuận hay cơ hội nào không, tôi chỉ biết có những người vẫn hâm mộ, vẫn đánh giá cao sự cố gắng của mình. Tôi tận hưởng niềm vui ấy và mỗi ngày tôi lại cố gắng, hôm sau cố gắng hơn hôm trước. Được vẽ, với tôi là niềm vui, là lẽ sống.
Bạn hỏi tại sao tôi cố gắng đến thế?
Tôi trả lời rằng bên trong tôi, giấc mơ tuổi 17 không hề chết. Bên trong gã trai tuổi 23 mặc áo sơ mi, quần âu, giày tây, mặt mũi cộc cằn không cảm xúc này là một cậu bé 17 tuổi ngỗ nghịch, bướng bỉnh nhưng chưa bao giờ cạn khao khát, giống như lời bài hát “I’m still here” của John Rzeznik. Khi vẽ tôi thường nghe bài hát ấy, giai điệu của nó đưa tôi trở về tuổi 17. Bỏ qua những ngu dại và nỗi buồn, tôi tìm thấy đam mê thuần khiết nhất, không toan tính, không vụ lợi, thứ đam mê mà tôi đã bỏ quên từ rất lâu.
And I want a moment to be real
Wanna touch things I don’t feel
Wanna hold on and feed I belong
And how can the world want me to change
They’re the ones that stay the same
They can’t see me but I’m still here
(Và tôi muốn khoảnh khắc này thành sự thật
Muốn chạm vào những thứ mà tôi không thể cảm thấy
Muốn giữ lấy một nơi mà tôi thuộc về
Thế giới muốn tôi thay đổi
Bởi họ là một đám giống nhau
Nhưng họ không thể, bởi vì tôi khác họ)
Kể từ đó tới thời điểm hiện tại, tôi luôn vẽ và không bao giờ ngừng nghỉ. Vẫn còn một chặng đường dài và tuổi 23 chỉ vừa mới bắt đầu. Tuy nhiên có một khúc mắc mà tôi vẫn chưa thể giải quyết: bạn gái.
Thằng con trai nào độ tuổi này cũng điên lên vì gái gú, còn tôi thấy ngại. Đi đâu người ta cũng hỏi tôi “Có bạn gái chưa?”, “Tuổi này chưa có bạn gái thì vứt!”. Ngay cả mẹ cũng lo lắng khi tôi chưa vác cô nào về ra mắt các cụ. Một hôm, bà cụ hỏi tôi một cách nghiêm túc:
-Mày có vấn đề gì về giới tính không con? Mẹ hỏi thật đấy!
Lúc đó tôi chỉ biết cười mếu. Không lẽ tôi lại trả lời “Con thỉnh thoảng vẫn coi Alexis Texas!” cho bà cụ bớt lo lắng? He he!
Thằng Choác và thằng Xoạch luôn nhiệt tình giới thiệu bạn gái cho tôi. Nhưng đáp lại chúng nó, tôi luôn kiếm cớ chuồn hoặc từ chối. Tôi lần khân nhiều đến nỗi thằng Choác thốt lên rằng nó không thể hiểu mẫu con gái trong đầu tôi và đành bó tay trước ca bệnh khó đỡ mang tên Tùng Teo Tóp.
Mọi việc cứ như thế cho đến khi tôi gặp lại Hoa Ngọc Linh. Khi bầu trời đã sẫm màu, khi cốc café của hai đứa đã cạn, Linh hỏi tôi:
-Nếu bây giờ mình nói là “có cơ hội đấy” thì Tùng nghĩ sao?
Ngay thời khắc ấy, tôi chưa biết trả lời ra sao.
Trả lời thế nào đây?
Trong bản nhạc không lời “6619 Days of Waiting” của ban nhạc The Best Pessimist có những câu thoại thế này:
"There is so much love in the world, John, so much love. And there is death. Maybe mostly death at the moment. People are dying in the streets because they miss each other, miss love, miss closeness"
(Có quá nhiều tình yêu trên thế giới này, John à, quá nhiều. Nó có cái gì đấy na ná cái chết. Như kiểu chết trong một khoảnh khắc vậy. Người ta chết vì nhớ lẫn nhau, nhớ tình yêu, nhớ những giây phút ở bên nhau )
6619 ngày là bao nhiêu lâu?
Tính ra là mười tám năm, một tháng và hai tuần.
Đó là thời gian mà một anh chàng đã chờ đợi cô gái.
Tôi cười thầm: chờ vậy điên quá!
Nhưng khi nhìn lại mình, tôi lẩm nhẩm đã gần mười ba năm trôi qua kể từ ngày đầu tiên tôi gặp Hoa Ngọc Linh.
Và tôi nhận ra sau mười ba năm, tôi vẫn không thể quên được em.
Nhưng đây là lúc để tôi đưa ra quyết định. Sau một hồi suy nghĩ, tôi mở miệng:
-Thực sự là mình…
2 Bình luận
Déo thích mày nữa:3', chịu chết.