Mùa xuân, tháng 3. Vào một buổi sáng sớm không mấy đặc biệt, tôi đứng thẫn thờ bên cánh cửa sổ, cầm trên tay một sợi dây thừng. Bên ngoài, tiếng chim kêu inh ỏi đau đầu khủng khiếp.
“Giá như trời đổ mưa…” Tôi thở dài. “Hy vọng nó sẽ thú vị thêm một chút.”
Nhưng thời tiết lại nắng nóng chói chang, dù chỉ mới giữa xuân. Giống như vậy, không có thứ gì trên đời này được như kỳ vọng.
Tôi ngước nhìn ra ngoài qua tấm rèm cửa sổ mở toang. Trước đây, tôi đã từng cảm thấy có chút rung động từ tận đáy lòng khi nhìn lên những cột mây cao ngút trên bầu trời xanh. Mà rồi vì một lý do quá tầm thường, tôi đã mất đi cảm giác đó.
“Không biết mình thắt đúng chưa…” Tôi lẩm bẩm, nhìn vào sợi dây thừng được thắt nút cẩn thận, một cái thòng lọng treo từ trần nhà.
Tiếng chim ríu rít bên ngoài ngày một to hơn, inh ỏi hơn. Dạ dày cũng bắt đầu kêu lên những tiếng rột rột khó chịu.
“Chính lúc này!” Tôi với lấy sợi dây thừng. “Nếu treo cổ, mình sẽ không phải nghe những tiếng ồn đó nữa!”
“Hy vọng sẽ thoát được cái chết.” Tôi thòng cổ qua, mở cửa sổ và chậm rãi đặt chân phải lên thành cửa.
Hàm dưới tôi há hốc, trút những hơi thở hổn hển, dồn dập. Mồ hôi túa ra trên trán, nhiễu từng giọt chảy dọc xuống hai bên gò má. Một, hai giọt vô tình quẹt lên đôi môi khô cằn, sứt mẻ. Vị mặn chát khiến tôi rên rỉ lên trong đau đớn.
Khung cảnh từ tầng ba của căn hộ nhìn xuống cũng không quá đáng sợ. Nó không đáng sợ bằng sợi dây thừng quấn quanh cổ tôi lúc này.
Tiếp theo đó là chân trái, cũng chậm rãi đặt lên thành cửa sổ. Tôi nhún người lên, cả cơ thể đang đứng trên một làn ranh giới, nơi sự sống và cái chết được phân chia. Phía trước là nền bê tông, đằng sau là căn phòng ngủ quen thuộc. Dù tôi có lựa chọn nhảy xuống hay quay vô trong, thứ chờ đợi tôi ở cuối con đường vẫn luôn là cái chết.
“...”
Ánh nắng gay gắt rọi thẳng vào mặt khiến đồng tử bị co lại. Tôi vẫn đứng thẫn thờ, nhắm tịt mắt rồi đếm đến ba, dồn dũng khí vào đôi chân đang run lên lẩy bẩy.
“Một…”
“Hai…”
“B-...”
Nhưng cuối cùng, tôi vẫn chỉ là một thằng hèn.
“Chắc đợi dịp sau vậy…” Tôi nới lỏng sợi dây thừng, đưa cổ ra rồi cẩn thận đặt chân xuống nền nhà phía sau.
Khi chắc chắn mình đã an toàn, tôi ngồi tựa lưng vào bức tường ngay bên cạnh cửa sổ mà trút một hơi thở dài. Lẽ ra tôi không nên leo xuống khỏi giường và làm một việc vô nghĩa như vậy. Nếu được quay về mười phút trước, có lẽ tôi sẽ không dại dột mà tỉnh dậy làm gì. Hoặc ít nhất là tôi đã mong vậy, cho đến khi những tiếng rột rột đó bất chợt gào lên từ bên dưới - cái dạ dày trống rỗng đang biểu tình.
Thật khó chịu. Trong lúc mải mê ngắm nhìn những đám mây thì cơn đói cồn cào đã kéo tới.
Tôi bật người dậy, đóng cửa sổ, kéo rèm lại. Căn phòng ngủ nhuộm lên một màu đen của sự hư vô. Không có lấy một tia sáng nhưng tôi lại cảm thấy thật dễ chịu.
“Mẹ nó, hôi vậy…”
Mùi của cơ thể ốm đói và chồng rác chen chúc mọc lên khắp phòng, thi nhau sộc lên mũi tôi, mém thì nôn ọe ra sàn.
Tôi há miệng rộng tới mang tai, một cái ngáp dài, kéo theo đó là một cái ngáp ngắn. Giọt nước mắt chậm rãi chảy xuống hai bên má. Hai hàng mi tôi ướt nhẹp, còn cổ họng thì khô khát sau một đêm dài. Trên chiếc tủ kéo cạnh đầu giường là chai nước suối đang uống dở. Cho đến khi tôi bước lại gần và nhận ra, nó đã cạn sạch… từ lúc nào không hay.
Thật khó chịu.
“Ăn mì vậy.” Tôi tặc lưỡi, chậm rãi bước ra khỏi phòng.
Trên sàn nhà, rác thải nằm tứ tung bốn bề nên phải di chuyển thật cẩn thận. Cánh cửa phòng ngủ từ tốn đẩy mở, nó nặng nề đến bất thường. Khi nhìn xuống, tôi chợt nhận ra xunh quanh mình bị bủa vây bởi đống hộp cơm nhựa, chai nước, khăn giấy và cả đống thứ khác đang nằm chắn hết lối đi, chúng bị kẹt trước cửa.
Thật khó chịu. Tôi lại tặc lưỡi, đá chúng ra một góc rồi mở toang cửa phòng. Ở trước mặt là một hành lang khá ngắn, trống trãi và tối đen sâu thẳm, tối hơn cả trong phòng ngủ. Nó dẫn ra phòng khách trung tâm, nối liền với gian bếp. Tôi đi thẳng một mạch tới chỗ tủ lạnh, kiếm chút nước và đồ ăn bỏ bụng.
Ánh đèn vàng nhạt rọi vào căn phòng khi cánh cửa tủ mở ra, bất giác theo phản ứng, tôi nheo mắt lại. Thật khó chịu và cũng thật khó hiểu, như thể các vị thần đang muốn trêu đùa với tôi, ngài muốn chắc chắn rằng kẻ lười biếng này phải bị trừng phạt. Các vị thần vẫn luôn là những sự tồn tại không bao giờ chú ý đến tiểu tiết. Có lẽ vì vậy nên trong tủ lạnh đã hoàn toàn trống trơn, không có nước suối, không còn đồ ăn hay thậm chí là nguyên liệu để nấu nướng. Từ rất lâu rồi, tôi đã tự hứa sẽ không quan tâm nếu các vị thần có vô ý và lơ là đến cỡ nào. Vậy nên trước mắt phải kiếm gì đó nhét vào bụng đã.
“Ch-…” Tôi định tặc lưỡi, nhưng khựng lại, gãi đầu và thở dài. “À mà thôi… Tới lúc đi mua sắm rồi…”
Sau khi vệ sinh sạch sẽ, tôi thay đồ, mặc lên người chiếc áo thun mỏng màu xanh navy. Còn quần thì… Tôi cúi người xuống, đặt mũi lên cái quần ngủ đã phai màu của mình.
“Phải thay luôn…” Tôi bịt mũi lại, mém thì nôn ọe ra khắp sàn từ mùi nó bốc lên, nặng nề và khó chịu.
Về tổng thể, bộ quần áo thun phối màu xanh trắng khiến tôi trông gọn gàng và sạch sẽ hơn. Ít nhất, nó không khiến tôi phải buồn nôn khi nhìn vào hình ảnh phản chiếu của chính mình trong gương. Đó là nếu tôi có thể nhìn được, vì mái tóc để dài quá cằm đã che hết tầm mắt.
“Ch-” Theo thói quen, tôi lại định tặc lưỡi, nhưng cổ họng và miệng đã quá khô ran. Tôi không còn sức để làm một việc vô nghĩa như vậy nữa.
“Một…”
“Hai…”
Tôi đếm nhẩm, lấy tinh thần chuẩn bị mở cánh cửa nhà.
“Ba-”
Tháng 3 ở Tokyo, vào những ngày xuân thường không lạnh, nhưng cũng không đến mức nóng. Dù sao thì, theo thói quen tôi luôn khoác thêm chiếc áo bomber nâu lên người mỗi khi ra ngoài. Nhưng cũng không hẳn là tôi thường xuyên ra đường. Vì thật sự mà nói, tôi không thể nhớ được lần cuối mình nhìn thấy ánh mặt trời là khi nào.
Ngay lập tức chào đón tôi sau cánh cửa nhà là cái nắng nóng oi bức, chói lóa. Mới chỉ 7 giờ sáng mà mặt trời đã đỏ lòe một màu hung tợn. Phải mất một lúc lâu để mắt tôi điều tiết với ánh sáng, đặc biệt là với ánh sáng tự nhiên. May thay, từ căn hộ tôi sống, ở một vùng ngoại ô của Shibuya tới tiệm tiện lợi cũng không xa, vậy mà trong ví tiền còn đúng duy nhất một tờ 5000 yên nhàu nát cũ kỹ nằm lẻ loi.
“Chắc nhiêu đây đủ để tiêu hết trong hôm nay…”
Mặc dù nếu có ít hơn, có lẽ nó cũng không thành vấn đề.
Sau khi rời khỏi khu chung cư, tôi cẩn thận bước đi trên con đường trống vắng và yên tĩnh đến chết khiếp của Shibuya. Những tòa nhà cao tầng sừng sững đứng lặng im, các tấm kính phản chiếu ánh sáng và hình bóng lẫn nhau, của những tòa kiến trúc chen chúc mọc lên - một khu rừng bê tông. Xung quanh hai bên đường, xe cộ đã đứng lại, nằm ngổn ngang, nhiều chiếc bị đập phá nát bét, hoang tàn. Đôi khi lại có một, hai cơn gió rít lên, luồn qua các con hẻm tạo nên những âm thanh như tiếng gào thét. Và dĩ nhiên, các khúc đường trống vắng không có lấy một bóng người, dù đã 7 giờ sáng ở giữa trung tâm Tokyo. Nhưng tôi cũng đã làm quen với khung cảnh bất thường này. Ai cũng đã phải tập làm quen với khung cảnh bất thường này. Dần dần, nó đã trở thành một thường thức mới của người dân Tokyo nói riêng, và có thể, của toàn thế giới nói chung.
Không thể nói rằng tôi thích sự ồn ào của Shibuya. Nhưng khi nó biến mất, tôi mới chợt nhận ra mình đã yêu những tiếng ồn khó chịu đó đến nhường nào. Mặc dù tôi không phải là một nhà thơ, nhưng tôi biết có người từng nói với mình rằng, “hãy nắm trọn từng khoảnh khắc, đừng lãng phí nó”. Có lẽ người đó đã nói đúng, vì không ai biết được, ngày mai thế giới có sẽ thể kết thúc. Vậy nên, tôi lại tiếp tục suy nghĩ, đôi khi tự hỏi những suy nghĩ này bắt nguồn từ đâu.
Thời còn là sinh viên, tôi nhớ mình từng đọc qua các bài nghiên cứu. Những nhà triết học và bác học đã lập luận rằng, mọi thứ đều phải xuất phát từ một thứ gì đó. Nếu lấy vũ trụ nơi chúng ta đang sống làm ví dụ, mọi thứ được sinh ra từ vụ nổ Big Bang, từ sự giãn nở của khoảng không vô tận. Vậy… từ đầu thì khoảng không này, thứ đã sinh ra sự sống, ai đã tạo ra nó?
Một ranh giới của sự vô tận, nơi những câu trả lời và thắc mắc hòa làm một. Đồng nghĩa với việc, mọi thứ đều đúng và cũng đều sai. Nếu nói rằng, sự bất thường của thế giới được sinh ra một cách ngẫu nhiên, rằng một vị thần nào đó đã vô tình lơ là với những sinh mệnh mình tạo ra, thì liệu nó có hợp lý?
Mà… sao cũng được. Giờ thì tôi cũng không còn muốn phải bận tâm tới nó nữa. Đây là một câu hỏi vô nghĩa. Dù cho có tìm được câu trả lời thỏa đáng, thứ duy nhất tôi nhận lại, vẫn chỉ là cái chết đang chờ đợi mình.
“Còn tận 8 ngày… à?” Tôi lật ngửa lòng bàn tay phải, thở dài khi nhìn vào con số hiện ra. Trong lúc vẫn còn mải mê suy nghĩ thì đột nhiên một tờ rơi từ đâu bị thổi văng tới, dập mạnh vào mặt.
“Mẹ kiếp cái quỷ gì vậy?!” Bất giác tôi la lên, với tay lấy nó xuống.
“Chỉ với 14,000 yên, các bạn có thể tận hưởng món cua đặc sản của Hokkaido, ngay bên hồ Mashu, một địa điểm trứ danh đạt kỷ lục Guiness thế giới về độ trong suốt của mặt nước. Hơn hết, nếu tham gia sự kiện vào buổi tối, các bạn có thể quan sát được bầu trời sao đêm và dải ngân hà phản chiếu lại trên mặt hồ. Một trong những điểm nhấn chỉ có duy nhất ở hồ Mashu! Giá ưu đãi…” - Và những thứ quảng cáo sau đó nữa được ghi trên tờ rơi.
“Không hứng thú.” Tôi lẩm bẩm đầy khó chịu rồi vò nó lại. Nhưng ngay vừa khi định vứt đi thì bất chợt, trong một góc nhỏ của tờ quảng cáo, một dòng chữ vô tình thu hút sự chú ý.
“Địa điểm nổi tiếng nơi bức vẽ Ginga được dựa trên, bởi vị họa sĩ thiên tài…” Nó ghi.
Người tôi cứng đơ, đôi chân khựng lại. Mắt chăm chú nhìn vào cái tên họa sĩ được giới thiệu trên đó - một cái tên quen thuộc. Cái tên mà tôi ước mình đã có thể quên. Nhưng cũng như thời tiết, không có thứ gì trên đời này được như kỳ vọng. Nó vẫn luôn ám ảnh tôi, dù cho tới tận cùng cái chết.
“Hoang đường…” Tôi trút một hơi thở dài nặng nhọc. “Giờ thì nó còn ý nghĩa gì nữa…”
“Nhưng nghĩ lại…” Tôi đắn đo. “Mình chưa được ăn cua Hokkaido bao giờ thì phải.”
Thật khó chịu khi phải thừa nhận. Tôi lại cầm tờ rơi lên, cẩn thận mở nó ra. Tuy có hơi bị nhàu nhưng bức hình chụp món cua hoàng đế chấm mù tạc và nước tương vẫn hiện lên rõ mồn một. Màu sắc đỏ tươi, trắng nõn nà trông mới quyến rũ và gợi cảm làm sao.
“Chính là nó!” Tôi nuốt nước miếng ừng ực rồi thốt lên. “Phải ăn cua Hokkaido và ngắm cảnh bầu trời đêm ở hồ Mashu trước khi chết mới được!”
Nhưng chưa kịp nhảy cẫng lên trong vui sướng thì gánh nặng của sự thật đã vội dìm tôi xuống. Con số 8 trong lòng bàn tay hiện lên như gáo nước lạnh dội ào xuống đầu. Cơ thể tôi khẽ run lên, giữa tiết trời nắng nóng.
Thật mỉa mai. Chỉ vừa khi tôi tìm ra được một lý do để tiếp tục sống thì các vị thần lại lập tức vùi dập nó đi. Nếu chỉ còn tám ngày, liệu có kịp đến Hokkaido trước khi con số điểm về 0? Trước khi tôi hoàn toàn biến biến mất?
Tôi nguyền rủa sự bất thường của thế giới. Chỉ vì một phút lơ đễnh ngẫu hứng của các vị thần, vào một ngày bình thường khoảng một năm trước, các con số đã xuất hiện. Loài người đặt tên cho nó là “ngày phán xét”. Chờ đợi tất cả chúng tôi ở phía cuối con đường là một số phận kinh hãi hơn cái chết, khi con số đó quay về 0.
“Tiền thì không có, xe cộ cũng không, giờ thì có ai mà có hứng đi du lịch!!! Mẹ kiếp! sao mày không đập vào mặt tao sớm hơn?! Cái lúc mà con số chết tiệt này chưa hiện ra ấy! Giờ đi đi thế đếch nào mà kịp!” Tôi bất mãn, ngước lên bầu trời xanh xa xôi mà gào lên. Dù cổ họng đang đau rát vì cơn khát, nhưng mặc kệ, tôi vẫn muốn hét lên. Không mong rằng một vị thần nào đó sẽ nghe thấy, chỉ đơn thuần vì tôi muốn phá vỡ sự yên tĩnh khó chịu của khu phố.
“Tao nguyền rủa chúng mày, lũ thần linh!”
Nhưng dù sao thì, quay về với vấn đề trước mắt. Sau khi đã xã bớt cơn giận, tôi đành bất lực gấp tờ quảng cáo lại cẩn thận rồi nhét vô túi quần. Thật mỉa mai khi phải sống nốt tận tám ngày vô nghĩa còn lại, chỉ để chờ đợi cái chết âm thầm len lỏi đến và cuỗm mình đi. Dù đã đứng trên ranh giới, nơi mà một bước chân về phía trước hay đằng sau cũng đồng nghĩa với cái chết. Liệu việc cố gắng níu kéo sự sống vô vị này có phải là quá vô nghĩa chăng? Nhưng tôi cũng không còn lựa chọn khác. Tôi là một tên hèn, một kẻ sợ chết nhưng cũng sợ phải tiếp tục sống. Vậy nên, chí ít ngay lúc này, tôi muốn mình được no bụng đã.
Và rồi, sau một lúc lâu dạo bước trên con phố vắng tanh và nắng nóng. Tôi dừng chân lại trước cửa tiệm tạp hóa bị bỏ hoang trong một góc đường rồi đứng thở hổn hển, mồ hôi vã ra như tắm. Cửa kính tiệm đã bị đập vỡ, bên trong tối đen dù đang giữa ban ngày. Vẻ ngoài của nó u ám đến ngột ngạt. Không chừng lại vô tình va phải một con ma hay cái xác sống đang lang thang trong đây nếu không cẩn thận.
Tôi hít một hơi sâu, chậm rãi bước tới trước cánh cửa kính tự động. Hai bên cửa kéo mở một cách nặng nề và cứng ngắc. Chúng kêu lên những tiếng lộc cộc chói tai, như thể chúng sẽ đổ vỡ bất kỳ lúc nào.
Bên trong không gian hoang tàn đổ nát và u ám của tiệm tạp hóa, bất chợt một màu trắng xóa lóe sáng lên, vô tình lọt vào tầm mắt tôi. Mái tóc của cô gái ấy lã lướt tung bay khi làn gió xuân nhẹ nhàng thoáng qua. Cô gái ấy không thuộc về thế giới này. Vẻ đẹp hút hồn đó chứa đầy sự ma mị.
Tôi khựng lại, người bất động đứng nhìn cô ấy. Và rồi chợt nhận ra, cô ấy cũng khựng lại, cả cơ thể bất động, chậm rãi quay người về phía tôi.
“C-chà-” Tôi bất giác cất giọng, nhưng lại im bặt đi giữa chừng.
Tôi không có lý do gì để bắt chuyện, cũng không được lợi ích gì nếu bắt chuyện. Vậy tại sao trong vô thức, tôi lại mở lời?
Cô gái đó cũng không hồi âm, chỉ đứng lặng im nhìn chằm chằm về phía tôi một hồi lâu, sau đó từ từ bước đi thật chậm rãi và cẩn thận. Những tiếng lạch cạch vang lên, nghe như tiếng của kim loại va đập vào nhau. Dần dần, dưới ánh sáng của mặt trời bên ngoài rọi vô, hung thủ gây nên những tiếng ồn đó hiện ra - cây gậy trắng, hay còn được gọi là gậy cho người mù. Phải, cô gái ấy, có lẽ là bị mù. Trong bóng tối kinh hãi của tiệm tạp hóa, cô nàng tóc trắng lại đang đeo kính râm.
Có vẻ như cô ấy không để ý tới tôi, vẫn cẩn thận bước đi, tiếp tục việc mà cô ấy đang làm trước khi tôi đến đây.
“Tại sao một người mù lại ở ngoài đây một mình…?” Tôi lẩm bẩm. Nó thật khó hiểu. Có điều gì đó về sự thắc mắc vô nghĩa này khiến tôi muốn biết câu trả lời.
Có rất nhiều câu hỏi hiện lên trong đầu, quá nhiều khiến tôi cũng không biết nên bắt đầu từ đâu. Và vì vậy, tôi quyết định sẽ không bắt đầu từ đâu cả. Cứ mặc kệ cô ta và tiếp tục việc mình cần làm - mua đồ ăn.
Mặc dù nói là vậy, nhưng vì một sự trùng hợp khó chịu, cả cô ấy cũng có vẻ như đang tìm đồ ăn. Mỗi nơi mà tôi bước tới, cô nàng dường như luôn đứng gần đó, ngay cạnh bên. Cô ta không để ý tới sự hiện diện của tôi, chỉ tập trung sờ nắn những món đồ hộp trên tay, rồi sau đó cất vào ba lô đeo sau lưng. Đến giờ tôi mới chợt nhận ra, bộ váy cô ấy đang mặc, cả kiểu tóc và gương mặt xinh đẹp ấy, đây đích thị là một tiểu thư giàu có. Làn da cô ấy trắng đến kinh ngạc, trong bóng tối, nó khiến tôi nhớ tới một con ma. Tuy cô nàng không được cao, thấp hơn tôi hẳn một cái đầu, nhưng cơ thể cô ấy, từng đường cong, nét đẹp hiện lên rõ mồn một qua bộ váy liền mảnh.
“May là cô ta không nhìn thấy được.” Tôi thở phào nhẹ nhõm.
Sau khi đảo một vòng tiệm, tôi mua được thêm một ít đồ hộp và hai lóc nước suối, vừa đủ cho 5000 yên. Tôi hướng về phía quầy tính tiền, do bên trong tiệm bị đập phá và tối nhem nên phải bước đi thật cẩn thận. Vậy mà cô nàng mù đó lại di chuyển quá nhẹ nhàng và uyển chuyển, như thể một vũ công đang khiêu vũ trên sân băng, cô ấy lướt đi trên mặt sàn. Và bằng một cách nào đó, cô ấy đã đứng xếp hàng trước tôi ở quầy thu ngân.
Tôi ngó lên nhìn, cô nàng lấy từ trong ba lô ra năm sáu món đồ hộp, thịt hộp, cá hộp, đậu hũ hộp và đậu que các loại.
“Cô ta ăn uống lành mạnh vậy…?” Tôi nghĩ thầm rồi nhìn vào đống thịt heo hộp trên tay mình, chỉ toàn thịt với thịt.
Tiếp theo đó là ba chai nước suối, một ít kẹo ngọt và trái cây, bánh mì và thêm hai chai sữa tươi còn mát lạnh. Tổng số tiền thanh toán cũng phải lên tới trên dưới 10,000 yên, một số tiền không nhỏ khi đi mua sắm ở tiệm tạp hóa. Không phải chỉ với thế giới hiện tại, thậm chí từ trước đó, tôi chưa từng thấy ai bỏ ra 10,000 yên chỉ để mua đồ ở tiệm tạp hóa bao giờ.
Và có một điều tôi vẫn chưa nhắc tới. Dĩ nhiên tiệm tạp hóa bị bỏ hoang này không có nhân viên thu ngân nào cả. Hai bọn tôi, những con người kỳ lạ đang tự đứng xếp hàng, tự thanh toán cho những món đồ hoàn toàn “miễn phí”.
Một lúc lâu sau, cô gái ấy loay hoay mãi vẫn chưa xong. Tôi có phần hơi sốt ruột và lo lắng nên quyết định ngó lên nhìn lần nữa. Có vẻ, đúng như tôi nghĩ, cô nàng không biết số dư hiện trên màn hình là bao nhiêu.
Tôi chậm rãi bước tới phía trước, nhưng chợt khựng lại, dừng bước rồi lại lùi về sau. Cô gái mù vẫn loay hoay xoay qua xoay lại, mò mẫm cái máy thanh toán. Ánh nắng bên ngoài đã trở gắt, bên trong tiệm dần nóng hơn, hai chân tôi đang bắt đầu nhão ra, mồ hôi chảy nhễ nhại.
“C-cô…” Tôi nhẹ nhàng cất giọng, rồi lại im bặt. “Cô… có c-”
“Anh có thể giúp tôi một chút được không? Anh người lạ?” Đột ngột cô ấy cắt ngang. “Tôi xin lỗi vì làm phiền anh. Mắt tôi yếu lắm nên không thể nhìn thấy được rõ số dư trên màn hình. Không biết anh có thể giúp tôi được không nhỉ?”
Giọng nói ấy ngọt ngào và dịu dàng, như hũ mật, như miếng phô mai trên cái bẫy chuột.
“C-c… À… vâng, cô cần biết số dư phải không?” Tôi đứng chôn chân tại chỗ, ấp úng đáp lại. “N-nhưng… cô có phiền không nếu tôi hỏi…?”
“Vâng, có chuyện gì hả?” Cô nàng khẽ nói. Giọng nói ấy thật nhẹ nhàng và tinh tế, cô nàng có vẻ chỉ khoảng đôi mươi.
“Nhỏ hơn mình tầm 4, 5 tuổi chăng…?” Tôi lẩm bẩm rồi cẩn thận bước lại gần để nhìn màn hình của chiếc máy tính tiền.
“Số dư của cô là 1329 yên, cô có cần bao không?” Trong vô thức, khi đứng sau quầy thu ngân, tôi bị thói quen nghề nghiệp điều khiển. “À, xin lỗi, tôi vô ý quá.”
Dứt lời, tôi thò tay xuống dưới quầy để lấy bao nilon. Chúng vẫn luôn nằm ở vị trí đó.
“Cảm ơn anh nhiều.” Cô nàng ấy nói. “Nếu anh không phiền cất chúng vào bao giùm được thì tôi sẽ rất biết ơn. Và tiện thể, anh muốn hỏi chuyện gì vậy?”
Cô gái chậm rãi quay người về phía tôi, về phía âm thanh sột soạt của bao nilon đang vò vào nhau kêu lên.
“À… không, tôi chỉ thắc mắc… tại sao cô lại bận tâm việc thanh toán? Dù sao thì, cô cũng không nhìn thấy được… và…” Tôi khựng lại, thở dài. “Và dù sao, thế giới cũng đã như vậy rồi, tôi không nghĩ nó sẽ ảnh hưởng gì đâu.”
Vừa dứt lời, tôi cũng đã cất tất cả những món đồ của cô ấy vào bao nilon và đặt lên trên quầy. Về phần cô nàng, điều duy nhất tôi nhận lại là sự im lặng.
“Có lẽ… cũng giống như anh chăng?” Cô nàng nghiêng đầu, đột ngột trả lời, dù có vẻ, nó giống một câu hỏi hơn.
“Giống tôi?”
“Anh cũng vậy còn gì? Cũng xếp hàng phía sau tôi, nếu không phải chờ thanh toán thì để làm gì?”
Lần này, tôi hoàn toàn cứng họng. Chưa một lần tôi tự hỏi, vì sao mình lại làm vậy? Cô gái mù khiến tôi cảm thấy khó hiểu. Câu hỏi ấy như thách thức những quy luật sống của tôi. Sự bối rối khiến tôi cảm thấy khó chịu.
“Tại sao…?” Trong vô thức, tôi tự hỏi.
Cô nàng khẽ cười.
“Anh cũng vậy phải không?”
“Cũng vậy?” Tôi ngạc nhiên, quay ngoắt lên nhìn vào mặt cô ấy. “Ý cô là sao?”
“Anh… cũng không biết vì sao mình lại trả tiền.” Cô nàng mù mỉm cười. “Dù sao thì, cảm ơn anh nhiều vì đã giúp đỡ. Vậy, tôi xin phép.”
Trong tiệm tạp hóa lại chỉ còn một mình tôi.
Chỉ vậy… sao?
Lần đầu tiên tôi nghe lời nói ấy, sau một thời gian rất dài, từ trước cả khi “ngày phán xét” xảy ra. Không thể nói rằng tôi thích sự chia ly, nhưng khi nó đã biến mất, tôi mới chợt nhận ra, mình đã yêu nó rất nhiều. Bởi vì có sự chia ly nên những cuộc gặp gỡ mới tồn tại một ý nghĩa.
Vậy, ý nghĩa của cuộc chia ly này, là gì?
Một lần nữa, câu hỏi ấy thật vô nghĩa, cả câu trả lời, có lẽ cũng vậy. Nhưng-
“Khoan đã! Tiện đây…” Tôi vội chạy theo sau cô ấy. “Xin lỗi… tôi chỉ đang thắc mắc, cô… có đích đến nào không?”
Có thể đây chỉ là một câu hỏi vô nghĩa. Có thể đây chỉ là một phỏng đoán đơn thuần. Chỉ vì cô nàng đi giày thể thao và đeo trên lưng một cái ba lô khổng lồ, không có nghĩa là cô ấy cần phải có một đích đến. Có thể, tôi chỉ đang tự huyễn hoặc chính mình với một hy vọng hão huyền.
“Tôi…” Cô ấy ậm ừ, vẫn không quay người về phía sau. “Tôi đang hướng tới sự trong suốt*.”
“Sự… trong suốt…?” Tôi nghiêng đầu nhìn.
“Ừm, hồ Mashu, đích đến của tôi.”
“Hồ Mashu?!” Tôi bất ngờ thốt lên, không tin vào tai mình. “Ý cô là… hồ Mashu ở Hokkaido?!”
Cô nàng nhẹ nhàng gật đầu.
“Cô… cô có biết là mình đang ở Shibuya không? Shibuya, Tokyo đấy, làm thế nào mà cô đến tận Hokkaido được?!”
“Tôi không biết.” Cô ấy nhẹ nhàng lắc đầu. “Nhưng tôi vẫn sẽ đi thôi, bằng cách nào đó.”
“Cô bị điên hả?! Một người khiếm thị như c- À không…” Tôi khựng lại. “Xin lỗi, tôi không có ý đó. Nhưng thực sự thì nếu cô đang tính đi một mình như vậy thì nguy hiểm lắm. Cô còn không nhìn thấy được nữa… chưa kể, những con số…”
Tôi dần dần nhỏ giọng lại. Một chủ đề có vẻ là nhạy cảm hơn cả bản thân việc khiếm khuyết - những con số.
“Ừ thì đúng là tôi không nhìn thấy được, cũng không rõ con số trên tay mình là bao nhiêu.” Cô ấy chậm rãi giải thích. “Lần cuối cùng, ba mẹ tôi nói con số trên tay vẫn còn lớn, dù tôi cũng không rõ lần cuối là đã bao lâu rồi. Nhưng dù sao thì, tôi cũng quyết định sẽ đi tới hồ Mashu nên, cảm ơn vì lời cảnh báo của anh. Và tạm biệt.”
“K-khoan đã!” Tôi vội bước theo sau. “Cô đang tính tự sát à? Cô không biết đi như vậy nguy hiểm cỡ nào đâu! Nhất là với một người phụ nữ như cô nữa.”
“Cảm ơn anh, nhưng một lần nữa, tôi xin nói rõ là tôi đã quyết định sẽ đi rồi. Xin lỗi, tôi phải rời đi rồi, tạm biệt anh.” Cô nàng lạnh lùng đáp lại rồi quay ngoắt người đi rất dứt khoát.
“K-khoan! Tôi không hiểu!” Tôi đứng lại, hét lên về phía cô ấy. “Tại sao cô phải liều mạng như vậy?!”
Cô gái mù cũng dừng bước, nhưng vẫn không quay người về phía sau.
“Bởi vì nếu đằng nào cũng sẽ chết, ít nhất tôi muốn được chết theo cách của mình. Nếu không thử, nếu chỉ biết lo sợ cuộc sống sẽ kết thúc, khi nào cái chết sẽ đến, thì biết bao giờ tôi mới thực sự được sống? Tôi không mong anh hiểu dùm, cảm ơn vì đã quan tâm, giờ thì tôi phải đi rồi, tạm biệt.”
Lại một lần nữa, lại là lời tạm biệt ấy. Cuộc gặp gỡ của chúng tôi chỉ đến đây. Tôi đã phá vỡ quy luật của bản thân, đã cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho sự thắc mắc vô nghĩa ấy. Và thứ tôi nhận lại, là vô vàn những câu hỏi khác. Cô nàng ấy khiến tôi thấy khó hiểu, khó chịu, và niềm tin của mình đã bị thách thức.
Sự dứt khoát của cô ấy thật mãnh liệt. Ý chí sống thật kinh khủng. Khi cả thế giới đang dần tan biến, ngọn lửa của sự sống ấy lại bốc cháy dữ dội, một ngọn lửa cô đơn, lẻ loi giữa thế giới hoang tàn.
Dù sao thì, việc cố gắng hiểu cô ta có vẻ là vô nghĩa. Vậy nên, đây là sự chia ly. Cô nàng mù theo hướng mặt trời mọc lẻ loi bước đi. Những tiếng kim loại va đập lên mặt đường một lúc một nhỏ dần, rồi vụt tắt vào sự yên tĩnh của hư vô. Về phần tôi, tôi sẽ lại quay trở về với bóng tối của chính mình. Nhưng nếu có một điều mà cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này đã dạy tôi… Chắc chắn, là sự cứng đầu. Tôi nhớ rằng bản thân mình cũng từng như vậy. Nhưng nó xảy ra từ rất lâu về trước nên tôi cũng đã từ bỏ rồi. Vậy mà bất chợt, một ngọn lửa lại vừa được thắp lên bên trong tôi. Sự rạo rực đã từ rất lâu tôi không còn cảm thấy. Nó đang cháy, bùng cháy, nóng ran và khó chịu, thôi thúc cơ thể gầy nhom này phải di chuyển.
Tôi đứng lại, định quay người thì phía đằng xa, một tiếng hét vang lên, một tông giọng quen thuộc. Là cô nàng khiếm thị. Theo tiếng la, tôi vội chạy tới. Ở ngay góc khuất của con đường, cô ấy đang bị tấn công bởi một nhóm thanh niên. Trong một con hẻm nhỏ, ba tên đó đang vây xung quanh, cố gắng lột bộ váy kiều diễm ấy ra.
Không chần chừ, máu nóng dồn lên não, tôi nhặt thanh sắt trên đường gần đó và lao vào, phang mạnh một phát vào gáy cổ tên to con. Hắn ngã quỵ xuống đường, ôm đầu quằn quại người. Hai thằng còn lại bất ngờ quay lại về phía này khiến tôi hoảng hồn, cơ thể như đông cứng. Ngay khi tên tóc vàng bên trái vừa rút dao ra, tôi mắt nhắm mắt mở lao tới cầm thanh sắt phang thẳng vào mặt nó. Quay người, tôi tiếp tục lao tới trước khi tên tóc đen còn lại kịp phản ứng. Nhưng hắn nhanh và mạnh hơn tôi nghĩ. Ngay khi vừa vung thanh sắt, cơ bắp tôi đã co quắn lại, bỏ cuộc trước cơn đau. Do lâu ngày không vận động nên lồng ngực tôi thắt lại, khó thở, quả tim đập liên hồi. Hắn chớp thời cơ, đá thanh sắt ra và tung một đấm vào bụng. Tôi gục xuống, nôn hết đống bầy nhầy trong dạ dày ra. Thằng khốn đó đứng cười hả hê. Tôi không ngước nhìn lên nổi, sức lực bị rút cạn. Những tiếng bước chân vang lên, từ tốn tiến về phía này. Tưởng như đây sẽ là sự kết thúc thì đột nhiên, một tiếng “đoàng” kinh hãi vang lên. Mùi thuốc súng, thằng tóc đen ngã rầm xuống đất ôm chân rên rỉ trong đau đớn. Trước mặt tôi, cái chân phải của nó ghim một viên đạn, máu rỉ ra như ống nước. Thằng tóc đen to xác ấy la lối, khóc lóc và van xin khiến tôi cứng người trong sợ hãi mà ngước nhìn, cô nàng khiếm thị… đang cầm trong tay cây Nambu revolver, loại thường thấy của cảnh sát Nhật.
Cô ấy thật xinh đẹp. Nhưng sự ngưỡng mộ phải để dành cho lúc khác.
“C-chạy… Chạy khỏi đây thôi!”
Tôi đứng bật dậy, nắm lấy tay cô gái mù rồi kéo chạy đi. Mặc cho cơn đau vẫn còn ám trên bụng, nỗi sợ hãi đã chiếm hữu tâm trí tôi, thúc dục đôi chân di chuyển.
“Mẹ kiếp mẹ kiếp mẹ kiếp mẹ kiếp mẹ kiếp mẹ kiếp mẹ kiếp!!!” Tôi vừa chạy vừa rủa thầm. “Cô kiếm đâu ra cái thứ hàng nóng đó vậy?!”
Không có sự phản hồi từ cô ấy, người đang chạy theo sau tôi.
“Chết tiệt! Biết vậy đã không bao đồng vậy rồi! Cái ngày chó má gì thế này?!” Tôi hét lớn.
Một lúc sau, không rõ bọn tôi đã chạy bao xa. Khi cơ thể đã thấm mệt, mồ hôi ướt nhễ nhại, lồng ngực co thắt và quả tim đập dồn dập như tiếng trống của thiên lôi, tôi ngã gục xuống mặt đường. Cô nàng khiếm thị có vẻ vẫn bình thản, chỉ thở gấp đôi chút.
“Mẹ kiếp cô! Tôi đã bảo là nguy hiểm rồi mà?! Giờ cô thấy chưa?!” Tôi nghiến răng, nhăn mặt nhìn cô ta và trước khi nhận thức được thì đã buông lời trách móc lúc nào chẳng hay.
“Tôi đâu có mượn anh phải giúp?! Đã vậy còn tự nhiên kéo tôi chạy đi, giờ thì làm sao tôi biết hướng nào mà tới Hokkaido được?! Anh bị khùng hả?!” Trước sự ngạc nhiên của tôi, vẻ điềm tĩnh bên ngoài của cô nàng chỉ là một vỏ bọc. Cô ta bùng nổ.
“K-không mượn?! Ờ! Cô đâu có mượn! Thế cái tiếng hét đó là cái quái gì?! Cô nghĩ tôi sẽ để một người phụ nữ khiếm thị bị một đám du côn hiếp dâm tập thể à?!”
“Làm như tôi sẽ bị vậy?! Tôi có súng đấy anh không thấy hả?! Anh bị mù à?!”
“Mẹ kiếp cô, ai lại đưa người mù cầm súng bao giờ?! Cái chó gì thế này?! Đệch mẹ, cô còn nguy hiểm hơn cái đám kia nữa!”
“Anh nhiều chuyện quá đấy, ai mượn anh phải lo?! Đồ bao đồng!”
Và như thế, bọn tôi lại tiếp tục cãi nhau. Một hồi lâu nhưng không ai chịu nhường ai. Tôi cũng không hề nhận ra, mặt trời đã lên tới đỉnh đầu từ lúc nào không hay. Trời nắng chang chang, nóng nực, cơ thể thì mệt rã rời, cuống họng tôi khô khan. Có lẽ cả cô ta cũng vậy nên cả hai đã đình chiến và ngồi sụp xuống mặt đường.
“Xin lỗi…” Tôi nốc một ngụm nước, gần cạn sạch chai nước suối mới mua. “Tôi không cố ý…”
“K-không…” Cô ta cũng nốc nước ừng ực, sạch cả chai nước suối. “Là do tôi mới đúng… xin lỗi… và cảm ơn anh vì đã giúp đỡ… Tôi lại làm phiền anh nữa rồi.”
“Không có gì đâu… Mà cô vẫn giữ ý định đi tới hồ Mashu à?”
“Ừm, vẫn vậy.” Cô nàng cất chai nước vào lại ba lô rồi chậm rãi đứng dậy. “Xin lỗi là chuyện ban nãy, còn việc tôi tự quyết định cuộc đời của mình, cảm phiền anh đừng can thiệp được không?”
“À không,” tôi vội đính chính. “Tôi không định cản cô đâu.”
“A-à vậy à… xin lỗi anh, tôi không biết, cứ nghĩ…” Cô nàng mù vội cúi gập người. “Vậy, cảm ơn anh một lần nữa vì đã giúp tôi tận hai lần. Tôi xin phép rời đi, chúc anh may mắn.”
Dứt lời, cô nàng vội quay người bước đi.
“Khoan đã!” Tôi hét lên và chạy theo sau. “Khoan từ từ đã!”
“Hả?! Lại cái gì nữa?” Cô ấy quay người, giọng nói khó chịu. “Tôi đã bả-”
“Không,” tôi cắt ngang. “Cho tôi đi cùng đi, tới hồ Mashu ấy.”
“Hả?!” Bây giờ thì đến lượt cô ta há hốc miệng. “A-anh… anh có biết mình đang nói gì không?! Chính anh kêu là nó nguy hiểm còn gì?! Chưa kể, anh còn không biết tôi là ai. Mà không chúng ta chỉ mới biết nhau, anh vừa thấy tôi dùng súng bắn người ta, vậy mà còn nói muốn đi chung?! Anh bị điên thật rồi.”
“Điên?!” Tôi trợn mắt, chu mỏ lên. “Cô mới là đứa điên ấy! Đã mù mà còn dùng súng! Với chưa kể, cô không ngại tôi thì thôi mắc gì tôi phải ngại cô?!”
“Anh có hiểu mình đang nói cái quái gì không vậy?! Cứ mở miệng câu nào là tôi với anh cãi nhau câu đó, nhìn là biết không hợp rồi. Nếu anh muốn đi thì tự mà đi một mình ấy!”
“Không!”
“Hả?! Cái gì vậy trời? Mắc cái gì mà anh bị lên cơn à?” Mặt cô nàng nhăn lại. “Đã bảo la-”
“Tại vì tôi nghĩ là mình có hứng thú với cô rồi!” Tôi cắt ngang.
Cô nàng mù nhìn tôi, tôi đoán vậy. Nhưng cô ta ngước đầu về phía tôi, lắc đầu, gương mặt tỏ vẻ khó hiểu.
“Không… rõ ràng là anh điên thật rồi… Mắc cái quái gì mà tự dưng anh lại có hứng thú với tôi được?! Ngoài việc chúng ta chỉ vừa mới gặp nhau, anh còn thấy tôi bắn một người nữa, vậy mà anh bảo có hứng thú được… Không không… anh mới là người bị điên thật đấy…”
“Ừ,” tôi gật đầu. “Có thể tôi bị điên thật rồi nên mới nói vậy.”
Có thể tôi thực sự đã bị điên. Có thể do cái nắng chói chang trên đầu đang khiến tôi nghĩ quẩn. Có thể… Hoặc không, tôi hiểu rõ mình chỉ đang biện hộ. Vì rõ ràng… tôi đang bị choáng ngộp, bị hớp hồn bởi cô gái này.
“Tóm lại thì, xin cô,” tôi cúi gập người, dù cho cô nàng không thể nhìn được, điều đó không quan trọng. “Xin cô, hãy cho tôi đi cùng. Tôi… tôi muốn được thực hiện ước mơ của mình. Tôi hứa sẽ không đụng gì tới cô, không liên quan gì tới cô. Nói chung là, chỉ cần cô cho tôi đi cùng là được.”
Bằng tất cả sự chân thành, tôi cầu nguyện.
Với tất cả lòng trắc ẩn, cô ấy lắng nghe.
“Anh…” Giọng cô ấy dịu xuống, nhẹ nhàng và ngọt ngào, một cái bẫy mật. “Anh cũng đi tìm sự trong suốt?”
Tôi gật đầu đáp lại.
“Ừ, có lẽ vậy.”
“Anh…” Cô ấy chậm rãi, thật tinh tế, đặt bàn tay phải lên má tôi. Cái chạm ấm áp đến rợn người. “Anh sợ phải chết một mình à?”
Câu hỏi ấy khiến cơ thể tôi run lên. Như một mũi kim, đâm thẳng vào quả tim. Tôi nhẹ nhàng gật đầu.
Thật khó chịu.
“Ừ… tôi sợ.”
Cô gái khiếm thị thở dài. Sau khi rút bàn tay phải lại, cô ấy đặt tay lên vai tôi - tên đàn ông vẫn đang cúi gập người trước mặt nàng.
“Anh ngẩng đầu lên đi.” Cô ấy khẽ nói. “Tên tôi là… Mumei, Mu trong vô, Mei trong danh. Nếu không phiền thì… mong anh giúp đỡ từ đây tới hồ Mashu.”
“Mumei… à?” Trong vô thức, tôi lặp lại rồi đứng thẳng người lên. “Nếu vậy, để xem… tên của tôi là Sora, phiên âm là Kara trong sự trống rỗng. Xin phép được làm phiền cô một thời gian.”
Cô nàng khiếm thị, à không, là Mumei, cô ấy bật cười và đưa tay phải ra. Tôi chậm rãi nắm lấy bàn tay nhỏ bé ấy. Mối quan hệ giữa cả hai đã được thiết lập. Cuộc hành trình đi tìm con cừu hoang của những kẻ vô danh đã bắt đầu từ đây.
Có thể nó chỉ đơn giản là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, hoặc có lẽ số phận đã sắp đặt. Trong thế giới nơi sự bất thường đã dần trở thành một thường thức, tôi cũng sẽ không ngạc nhiên nếu điều này xảy ra vì một phút lơ là của các vị thần. Riêng tôi thì không nghĩ vậy, vì những con số không bao giờ nói dối.
8 ngày còn lại trước khi biến mất.
0 Bình luận