Bình minh vừa ló rạng, khu chợ trung tâm thị trấn Denis bừng tỉnh trong nhịp sống hối hả. Những dãy nhà gỗ mái nhọn ôm lấy con đường lát đá, cửa sổ hắt ánh đèn vàng ấm áp cùng với hàng rêu xanh bám chặt trên những bức tường đá vững chắc, tạo lên những vệt sáng lung linh trên vũng nước đọng, tô điểm cho không gian se lạnh của buổi sáng sớm.
Hương thơm của bánh mì mới ra lò hoà cùng hơi ấm của than củi và mùi thịt nướng xèo xèo trên bếp than hồng, chúng lan tỏa ngọt ngào qua không khí, kéo theo tiếng cười nói rôm rả của những người bán hàng. Những chú họa mi mảnh mai, đuôi dài sải cánh giữa bầu trời trong vắt, cất lên những tiếng hót trong trẻo, ngân nga. Cùng với chúng, những con sơn ca nhỏ nhắn với bộ lông pha trộn giữa sắc nâu vàng và xám tro, chao liệng rồi đáp xuống những mái nhà, mái hiên còn vương hơi sương. Tiếng chim ríu rít hòa thành một bản giao hưởng nhẹ nhàng, lan tỏa trong không khí se lạnh của buổi sáng tinh khôi. Xa xa, tiếng rao trầm ấm của người bán hàng vang vọng qua con phố nhộn nhịp “Bình, chén, đĩa đẹp đây! Mua về mà dùng nào, đảm bảo bền tới ba đời!” Giọng điệu hài hước hòa cùng nhịp bước chân thoăn thoắt, tiếng trò chuyện râm ran và hương thơm của những quán ăn ven đường quyện vào làn gió mát. Tất cả tạo nên một buổi sớm dịu dàng, trong lành, như lời chào của hy vọng đánh thức mọi thứ đang cuộn mình trong chiếc chăn ấm áp.
Chợ Denis là trái tim của thị trấn, nơi con người từ khắp nơi đổ về - kẻ giàu, người nghèo, thương nhân, quý tộc, du hành giả và cả những kẻ cùng đường chẳng còn gì ngoài hai bàn tay trắng. Dưới mái lều của những gánh hàng, người ta bán đủ mọi thứ: thực phẩm, vải vóc, gia súc, đồ thủ công, thậm chí cả những món hàng mờ ám hơn. Thợ rèn khua búa leng keng, rèn giáp sắt sáng loáng cho những kẻ sẵn sàng trả giá cao, trong khi thợ mộc đóng thùng, sửa xe và gã thợ dệt vắt sợi, dệt nên những tấm lụa mềm mại như nước. Kéo tầm nhìn tới những gian hàng vải lụa ở đầu chợ, chúng được vây kín bởi những quý bà đang say mê lựa chọn những thước lụa đủ màu sắc. Những quý bà trong bộ váy lộng lẫy nâng niu từng dải lụa, mắt sáng rỡ khi mặc cả với người bán hàng. Bên cạnh nơi đó vài bước chân, ông già bán bánh mì nướng liên tục lật những ổ bánh nóng hổi trên lò than, thu hút một nhóm trẻ con xếp hàng với những ánh mắt háo hức. Lũ trẻ bụng lép kẹp đứng bên quầy bánh mì, mắt hau háu nhìn theo từng động tác của ông lão. Trong số đó có vẻ cũng có đứa táy máy tay chân, đôi mắt đảo qua lại, ngắm nghía xem nên chọn thời điểm nào để hành động. Quả nhiên chỉ lúc sau một vài ổ bánh mì đã biến mất tăm. Xa hơn một chút, khu biểu diễn trở thành sân khấu cho những nghệ sĩ đường phố: nhạc công kéo đàn, mấy tên diễn kịch câm làm trò, nhà ảo thuật khiến những đồng xu biến mất trên không. Trên thùng gỗ, một gã hát rong trên vai là một con diều hâu và một chiếc đàn hạc ngồi biểu diễn giữa vòng tròn khán giả, tiếng đàn réo rắt như dẫn dắt mọi người vào một thế giới khác:
“Gã chiến binh ngao du qua tầng mây,
Áo giáp vàng sáng rực nắng chiều phai.
Tiếng gươm vang, lời thề đầy tráng lệ,
Chân phiêu du tìm tự do chẳng phai.
Hãy hát lên, giữa gió ngàn vời vợi,
Khúc ca hùng dũng của kẻ không tên.
Không ngai vàng, không xiềng gông quyền lực,
Chỉ có bầu trời và những lối mông mênh.” (L’homme armé: chiến binh lang thang, một bài hát của nước Pháp) *dịch bằng google nên có sai thì xí xoá*
Giữa ánh sáng rạng ngời của bình minh, những tia sáng ấm áp như lời thì thầm của hy vọng lan tỏa khắp nơi, vẫn còn đó những góc tối trĩu nặng, những nỗi buồn âm thầm và tiếng than khóc của những tâm hồn bị dày vò. Những bàn tay thô ráp nhưng lại nhẹ nhàng như cánh én bay lượn qua đám đông, những kẻ nghèo khổ chăm chút từng mảnh hạnh phúc nhỏ nhoi như những mẩu vàng quý. Trong nhịp sống náo nhiệt, tiếng cười vui tươi xen kẽ với tiếng rên xiết của những kẻ vô giá trị, sống lay lắt hệt như ngọn đèn dầu đặt trước cửa sổ lộng gió. Trên vỉa hè, những ánh mắt đói khát của những người lang thang dõi theo từng ổ bánh mì ấm áp, như mong mỏi một tia sáng xua tan cái lạnh của ngày mới. Còn phía xa, đám quý tộc và thương nhân giàu có ung dung hưởng thụ những bữa tiệc xa hoa, thản nhiên vứt bỏ những miếng thịt còn nguyên, chẳng buồn đoái hoài đến những ánh mắt thèm khát quanh mình.
Ở một góc khuất của chợ, nơi ánh sáng khó chạm tới, con người bị mua bán như món hàng. Tiếng kẻ mua, người bán rì rầm giữa những tiếng nức nở của đám nô lệ, nơi con người bị định giá theo sức lao động, sắc đẹp hoặc sự tuyệt vọng của chính họ. Không xa đó, một pháp trường dựng lên giữa chợ, nơi công lý méo mó được thi hành. Một tên bé con, chừng mười tuổi, run rẩy quỳ gối trước đao phủ, chỉ vì tội ăn cắp một ổ bánh mì. Đám đông xung quanh cười cợt, kẻ thương hại, kẻ hả hê. Và khi lưỡi rìu rơi xuống, chẳng ai nhìn gã thương nhân bên kia đường, kẻ đã bóc lột và buôn bán hàng trăm con người mà chưa một lần chịu trách nhiệm.
Giữa tất cả những điều đó, những du hành giả khoác áo choàng dài lặng lẽ tiến về quán rượu nằm cuối phố. Đây là tụ điểm của những kẻ lang bạt, của thợ săn quái vật và cả những tên tội phạm trốn chạy. Những bước chân lặng lẽ, những ánh mắt dè chừng, như thể ai cũng mang theo bí mật. Trên đường tới đó, có những tên ăn xin cắp theo những đứa trẻ xấu xí, bẩn thỉu và dị tật. Chúng quỳ rạp xuống, van lạy những kẻ cũng chẳng khá hơn chúng, những tên lang thang khắp nơi, chẳng có chốn dung thân, cũng chẳng có người thân, gia đình. Có những kẻ ăn xin khá hơn, chúng bày đủ trò giải trí dù cho cơ thể đã bốc mùi đến không thể chịu đựng được: ảo thuật, múa rối, ném dao,… Chúng làm từng ấy trò chỉ để đổi lấy tiếng cười giễu cợt và vài đồng bạc lẻ còn chẳng đủ để mua một ổ bánh mì. Tất nhiên cũng có vài kẻ đã không thể cầm cự được, chúng gục xuống, hấp hối, xương lộ rõ, cả cơ thể như chẳng còn chút thịt nào.Xác của chúng nằm co quắp bên vỉa hè, đôi mắt mở trừng trừng nhìn lên bầu trời xám xịt. Như một lẽ tất yếu, chẳng ai quan tâm đến chúng, chẳng ai mảy may hay đếm xỉa gì đến cái xác khô đang có dấu hiệu phân huỷ cả, trừ những tên ăn xin khác.
Có vài tên đã đói đến mờ con mắt, từng bóng người lom khom tiến đến, ngập ngừng… rồi cắn răng vươn tay xé lấy một mảnh thịt. Những tên khác, một phần chưa đói đến mức mất sạch nhân tính, một phần vì đói đến mức chẳng thể gượng dậy được, nhìn chăm chú vào cái xác khô. Nhưng chẳng bao lâu sau, có nhiều kẻ dần tiếp cận cái xác, bọn chúng xâu xé, gặm nhấm, róc từng mảnh thịt vẫn còn dính trên những khúc xương, chẳng bao lâu sau sẽ chỉ còn lại những miếng thịt vụn và một bãi máu khô nằm gọn trên đất. Những người du hành khác, chẳng thèm động mắt, đi nhanh đến quán rượu, họ đã đi quá nhiều nơi, gặp gỡ quá nhiều người và chứng kiến quá nhiều những khung cảnh buồn nôn này. Đây là tình trạng chung của cái đất nước này, một đất nước suy tàn, nội chiến và đói nghèo ở khắp nơi. Hoạ chăng chỉ có một vài nơi vẫn còn giữ trong mình sự tươi sáng và hạnh phúc.
Một gã mang theo áo choàng đen và thanh kiếm đeo ở bên hông tiến gần đến quán rượu. Cửa gỗ của quán mở ra, để lộ ánh lửa bập bùng trong lò sưởi, đổ lên những cái bóng lắc lư trên tường đá xám. Cốc bia va vào nhau leng keng, hòa cùng tiếng cười đục ngầu của những kẻ say. Hơi men nồng nặc quyện vào mùi da thuộc ẩm ướt, còn sàn gỗ thì dính nhớp vì vô số thứ không rõ nguồn gốc. Một tiếng cụng cốc vang dội cả quán rượu “Hahaha, ngươi thấy ta nói có đúng không, cái đất nước này sắp tàn rồi!” Một gã râu ria xồm xoàm, trên mặt chi chít những vết sẹo, hét lớn với những tên đi cùng hắn. Không chỉ riêng hắn, những người khác cũng bắt đầu kể về câu chuyện của bản thân, câu chuyện về chuyến săn quái thú, những lời đồn đại về kho báu bị chôn giấu ở góc nào đó của bản đồ hay những chuyến phiêu lưu đầy nguy hiểm, làm sống dậy niềm háo hức và cả sự tò mò của người khác. Cũng có những tên mang theo một túi lớn trong đó có đầy đồ lưu niệm, bản đồ nhàu nát, túi da, dao nhỏ và hàng đống đồ linh tinh khác.
Trong đó, một thằng nhóc cầm theo hai cốc rượu to tiến tới, chững chạc hét lớn “Bớt nói phét đi, mấy cái chuyến phiêu lưu đó chắc chỉ có trong mơ của các ngươi thôi.” Đó là một cậu nhóc chừng mười hai tuổi, với mái tóc đen ngắn và đôi mắt láu lỉnh, lăng xăng chạy qua chạy lại giữa những bàn gỗ dài. Cậu, tuy còn khá nhỏ, nhưng đã quen với những kẻ lang bạt này - những kẻ nói dối, khoác lác, hoặc thực sự đã từng chiến đấu với quái vật ngoài kia. Nghe vậy, những nhà thám hiểm đang trong cơn say ngừng nói, chế giễu ngược lại cậu bé “Hử, thằng nào quăng nhầm con búp bê nóng tính ra đây thế?” Nói rồi hắn cúi xuống, đưa sát mặt vào cậu, mùi hương từ rượu nồng nặc, phả thẳng vào cậu “Cô bé nào lại ở cái chỗ tối tăm ẩm mốc này vậy, mau thay quần áo rồi rời khỏi đây đi, chỗ này chỉ chứa chấp những kẻ nam tính và cơ bắp thôi.” Nghe vậy, mấy gã cao lớn được phen cười lăn lộn. Cậu khoanh tay, hếch cằm, dù mặt đã đỏ bừng vì tức “Các ngươi cứ chờ mà so cơ bắp với ta sau mười năm nữa đi, khi ấy ta sẽ không tha cho bất cứ ai đâu!” Cậu ném cho hai tên đó hai cốc rượu, rồi lại chạy vào trong nhà. Bên trong đó, một người đàn ông cao lớn, cơ bắp và chi chít những vết sẹo dài dọc bắp tay. Ông đang tất bật chuẩn bị đồ nhắm và rượu nho, đồng thời dặn dò cậu bé “Zephyr, đừng có nói chuyện với bọn chúng, một lũ đầu đường só chợ, biết đâu trong số đó lại có một tên tội phạm truy nã.” Cậu - Zephyris Vint, cũng là một đứa trẻ mồ côi và bị bỏ lại tại quán ăn này, điều may mắn nhất trong cuộc đời cậu có lẽ là mảnh giấy ghi dòng chữ “Làm ơn hãy cưu mang đứa trẻ này, Zephyris” trên cái nôi của cậu. Nghe người bác, đồng thời cũng là cha nuôi của cậu nói vậy, cậu phản bác lại “Cha đừng nói như thế, dù bọn họ có bợm rượu và hay lè nhè nhưng bọn chúng cũng không đến nỗi giết người đâu, nếu có con sẽ nhận…”
Dứt lời, cánh cửa gỗ lại một lần nữa mở ra, kéo theo hơi lạnh từ bên ngoài. Hắn bước vào, áo choàng đỏ sờn rách phủ xuống, tựa như đã bị ngấm đầy máu khô. Không ai thấy rõ mặt hắn - chỉ có đôi mắt ẩn trong bóng tối, phản chiếu ánh lửa bập bùng như than hồng chưa tắt. Thậm chí chẳng ai nghe thấy tiếng bước chân của hắn, nhưng từng giây trôi qua, không gian dần chìm vào một sự im lặng kỳ lạ. Ngay cả kẻ say xỉn ồn ào nhất cũng khựng lại giữa chừng, cốc rượu lơ lửng trên không trung, dần dần cũng hạ xuống mà chẳng nhận ra bàn tay mình đang run rẩy. Khi ánh sáng từ lò sưởi hắt lên người hắn, họ mới nhận ra sau lưng hắn là một thanh trường kiếm rỉ sét, hai lưỡi kiếm đều mòn đến độ chẳng còn chút sắc bén nào. Những vết rách trên áo hắn không có hình dạng bình thường, chúng trông như bị cào từ bên trong ra, như thể có thứ gì đó bất ổn đang ngự trị bên dưới lớp vải này. Người đàn ông vẫn đứng đó, không nhúc nhích, nhưng dường như không ai dám nhìn thẳng vào hắn. Một con chó già nằm gần lò sưởi rên rỉ khe khẽ. Nó không sủa, không cắn, chỉ cúi rạp người xuống nền nhà, đuôi cụp lại như muốn biến mất.
Zephyr quay phắt người lại, thì thầm với ông “Sao lúc nào cái miệng của cha cũng linh nghiệm hết vậy?” Người đàn ông cười khẩy, nhưng trong lòng vẫn cảm nhận được một dự cảm không lành, nói với cậu “Chạy lên nhà gọi anh trai con.” “Vâng!” Zephyr chạy thẳng một mạch vào nhà mà không dám chậm trễ, cậu biết người đàn ông ngoài kia chắc chắn không tầm thường “Hansel” cậu hét to “cha gọi anh đấy!” Từ trong phòng bước ra là một chàng trai lực lưỡng, cơ thể săn chắc, mái tóc xoăn lãng tử và đôi mắt sắc lạnh như diều hâu. Đôi mắt anh ta nâu đen óng ánh, nhưng lại mang đến cảm giác mơ hồ và vẩn đục. Anh ta vớ đại một chiếc áo khoác rồi xoa đầu cậu “Lên gác đi, nhóc. Anh cũng nhìn thấy rồi.” Quán rượu được xây gồm ba tầng, tầng đầu là nơi để các nhà du hành uống rượu và quậy phá, tầng hai là nơi mà gia đình ba người ngủ, sinh hoạt và ăn uống, tầng còn lại là gác mái, nơi được xây dựng nhằm thuận tiện quan sát xung quanh căn nhà và cũng để ngắm sao trời vào buổi đêm.
Còn người đàn ông dưới nhà cũng cởi bỏ tạp dề dính đầy dầu mỡ và máu tanh hôi, mặc lên mình bộ giáp da bên trong và chiếc áo vải chắc chắn, đồng thời mang theo một bầu rượu to với dòng chữ “Đội trưởng tặng ông Aldric Vint”. Trước khi đi ra, ông cầm theo thanh dao sắc lẹm, giấu nó đằng sau và bước ra để đối mặt với gã thanh niên bí ẩn đó.
Kéo tấm rèm ngăn cách nơi chế biến và chỗ uống rượu, một cảnh tượng căng thẳng ngay lập tức đập vào mắt ông: tên đeo áo choàng bí ẩn, chân giẫm lên đầu một tên lực lưỡng, thanh kiếm han gỉ lại đang chĩa vào cổ của một tên du hành khác. Tên đó, với gương mặt trắng bệch và mồ hôi đầm đìa, hai tay bủn rủn mà sợ hãi van xin “Làm ơn, tôi… tôi không cố ý, làm ơn tha cho tôi.” Miệng hắn lắp bắp, cả cơ thể run rẩy như sắp tiểu ra. Aldric chép miệng, tay dơ dơ bình rượu nho, hét lớn với tên đeo áo choàng bí ẩn “Này này tên kia, đích thân ông đây đã phải ra hầu hạ rồi nhé, ngươi cứ bình tĩnh hạ kiếm xuống mà uống với ta một ly.” Đồng thời, ông đưa mắt ra nhìn một hướng xa xăm, nơi mà con trai cả của ông đang giữ chặt chiếc nỏ, sẵn sàng nã thẳng vào đầu tên bí ẩn. Aldric liếc mắt nhìn cậu, rồi lại đưa mắt về phía tên bí ẩn, hắn vẫn chưa hạ thanh kiếm xuống, thấy vậy ông lại hét lớn “Cậu chưa nghe rõ ta nói à, hạ kiếm xuống và chúng ta sẽ uống rượu, được chứ.” Dù đã bị cảnh cáo nhiều lần, kẻ bí ẩn vẫn không hạ kiếm. Hắn siết chặt chuôi, bàn tay vững như đá tảng, không chút dao động. Không khí quanh hắn dường như cô đặc lại, nén chặt đến mức khiến những người xung quanh cảm thấy nghẹt thở. Dù khuôn mặt hắn chìm hoàn toàn trong bóng tối, một luồng sát khí dày đặc vẫn tỏa ra, lạnh lẽo đến rợn người.
Thấy tình hình bế tắc, Aldric thầm thở dài, khẽ nháy mắt ra hiệu cho Hansel tiễn kẻ lạ mặt một đoạn. Hiểu ý cha, Hansel ngay lập tức giương nỏ, cằm tựa vào cán, mũi tên hướng thẳng vào đầu đối phương, chỉ chờ một dấu hiệu là mũi tên sẽ xuyên thẳng đầu hắn. Không khí trong quán ăn căng như dây đàn, mọi người nín thở dõi theo. Nhưng đúng vào khoảnh khắc tưởng chừng mọi thứ sắp bùng nổ, kẻ bí ẩn đột nhiên rút kiếm khỏi cổ tên du hành - giờ đây đang run rẩy đến ướt cả quần. Tiện chân hắn cũng đá tên lực lưỡng dưới chân, tra kiếm ra sau lưng, giật lấy túi tiền của tên đó rồi gằn giọng “Cút!” Giọng nói mang đầy sát khí, cảm tưởng như lời nói đó được phát ra từ một tên sát nhân máu lạnh coi thường mạng sống. Hắn cởi mũ trùm đầu xuống, gương mặt hốc hác, đầy bụi và máu lộ rõ trong ánh sáng, mái tóc bù xù, rối rắm toả ra một mùi hương khó chịu và tanh tưởi bốc ra, lan toả và át đi hương thơm nồng nàn của rượu và thịt lợn nướng. Thế nhưng, giữa đống hoang tàn đó, đôi mắt màu ánh dương sáng lấp lánh hiện rõ ở đó, kèm theo vết sẹo dài dọc trên mắt khiến ta ngay lập tức nhận ra - Trist. Trist bước đến, ném vào lòng Aldric túi tiền anh mới cướp của tên du hành vẫn còn đang run rẩy trong góc kia, hỏi “Phòng tắm, phòng nghỉ, lúc sau chúng ta sẽ cùng uống rượu.” Aldric bật cười nói với anh “Ta không có phòng ngủ, nhưng phòng tắm thì có.” Rồi ông gọi to “Zephyr! Xuống đây cha bảo.”
Zephyr, vẫn còn đang loay hoay với đống sắt thép và gỗ trên gác mái, giật bắn mình khi nghe thấy tiếng hét đầy uy mãnh đấy. Ngay tức thì, cậu chạy ra một góc, cầm một sợi dây thừng mà giật mạnh, tấm gỗ bên dưới chân cậu lập tức bật mở như một cánh cửa sập. Cậu ngay lập tức rơi xuống, không phải vào khoảng không vô định, mà là vào một đường ống trơn nhẵn, uốn lượn như một con rắn khổng lồ. Lực hút kéo cậu trượt nhanh xuống dưới, và rồi bụp! Cậu rơi thẳng xuống tầng một, kéo tấm rèm ra, nở một nụ cười với Aldric “Con đã có mặt!” Aldric mỉm cười, tính đưa tay ra xoa đầu cậu, nhưng chợt ông cảm thấy ảnh động đấy quá ủy mị. Ông vẫn đưa tay theo đà, nhưng lại chỉ vào hướng nhà tắm của nhà họ “Đưa chàng trai này vào phòng tắm đi.” Zephyr búng tay, ra hiệu với Trist “Đi nào.” Trist, với gương mặt hờ hững, cất thanh kiếm trên bàn rồi bước theo bước chân của cậu nhóc.


0 Bình luận