Việc thái tử Arslan quay lại thành Peshawar thực ra không phải tin mừng. Chỉ 1 tháng trước, họ vừa mới khởi hành từ chính pháo đài này. Sau khi chiếm được 2 thành của quân Lusitania trên Đại lục vương lộ, họ đã đi được hơn nửa đường tới kinh đô Ecbatana, để rồi lại phải bắt đầu từ con số 0.
“Phí công vô ích rồi.”
Arslan cảm thấy nỗi tiếc nuối và chán nản bao trùm, nhưng chàng biết mình không thể vì thế mà bỏ cuộc.
“May là Peshawar không thất thủ. Không có nhiều người hy sinh, tất cả là nhờ sự nỗ lực của các vị. Cũng nhờ vua Rajendra của Shindhura nên mọi việc diễn ra thuận lợi.”
Sau khi Arslan công bố tin tốt, tinh thần tướng sĩ được củng cố phần nào, tình hình trước mắt cũng trở nên lạc quan hơn. Trên thực tế, quân Turan đang hạ trại trên Đại lục vương lộ. Nếu không đánh bại họ thì không thể hành quân đến kinh đô Ecbatana.
Kể từ lúc vào thành, quân sư Narsus cứ trầm ngâm mãi. Bị Dariun ép hỏi, vị họa sĩ cung đình tương lai mới nhỏ giọng đáp.
“Ta hơi lo tình hình ở kinh đô Ecbatana.”
“Sao vậy?”
“Ta nghĩ phản ứng của quân Lusitania chậm chạp một cách đáng ngờ. Quân ta rút lui mà họ thậm chí còn chẳng di chuyển một bước.”
“Hả? Giờ ngươi lại thắc mắc chuyện đó à?”
Dairun trố mắt nhìn bạn mình. Chẳng phải lý do quân Lusitania không có động tĩnh gì khi Pars lui quân là bởi họ sợ có mưu đồ khác sao? Người Lusitania nghĩ rằng chừng nào họ còn ở thành Ecbatana thì họ không thua quân Pars dễ dàng, cho nên không đem quân truy kích. Dariun cũng cho là như thế, nhưng chẳng lẽ có gì không ổn? Có lý do nào khác khiến quân Lusitania không tấn công? Nhìn vẻ mặt Dariun, Narsus lên tiếng.
“Đúng vậy, ta đang nghĩ tới, liệu có thứ gì khác đang làm chậm chân quân Lusitania.”
“Ý ngươi là có chuyện gì xảy ra ở kinh đô Ecbatana à?”
Narsus gật đầu rồi khẽ nghiêng mình. Một âm thanh chát chúa vang lên ngay bên cạnh, mũi tên bật ra khỏi tường thành, ngay chỗ Narsus mới tựa lưng vào. Quân Turan đóng ở dưới thành vừa bắn ra.
“Nếu bắn trúng là ngươi thay đổi lịch sử rồi đấy!”
Chế nhạo xong Narsus còn cố tình vẫy tay với kẻ địch. Hành động dửng dưng này khiến quân Turan tức tối chửi rủa om sòm, nhưng anh bỏ ngoài tai, tựa lưng vào tường tiếp tục suy nghĩ.
Quân Lusitania đã chinh phục được một quốc gia và phân nửa một quốc gia khác. Chắc chắn lúc này họ đang vô cùng tự tin vào sức mạnh của mình. Khó hình dung được là có mâu thuẫn nội bộ nào đó xảy ra . Dariun cũng nghĩ theo chiều hướng ấy, nhưng Narsus thì nghĩ sâu hơn.
Dariun không dám hỏi thêm vì không muốn cắt ngang dòng suy tư của bạn mình. Trong mấy ngày tới, Narsus sẽ đưa ra kế hoạch đối phó với kẻ thù trước mắt, quân Turan. Nhưng bất chợt, vị quân sư lên tiếng.
“Nếu quân Turan đại bại, chúng có thể liên kết với Lusitania.”
“Nhưng người Lusitania coi Turan là dân ngoại đạo. Chúng có khả năng hợp lực không?”
“Chẳng phải giờ ta cũng liên minh với Sindhura đấy sao? Vua Rajendra đâu có tin các vị thần của Pars.”
“Cũng phải.”
“Không sao, cách đây ba bốn năm cũng từng xảy ra chuyện như thế rồi. Không khó tìm ra một lỗ hổng để khai thác giữa những liên minh nửa vời như vậy. Hơn nữa, gần đây chúng ta lại kiếm được món hời rồi.”
Narsus đang nói đến Kubard. Kubard là một chiến binh anh dũng vô song, cũng là người quen cũ của Dariun, Narsus và Kishward. Arslan chào đón anh ta vô cùng nồng hậu ở pháo đài, nhưng kể từ lúc vào thành, Kubard chỉ mải mê uống rượu rồi lăn ra ngủ. Gặp lại các đồng đội cũ, anh ta cũng bớt căng thẳng đôi phần nhưng anh muốn tránh rắc rối nên không giao lưu nhiều với những người khác.
“Chiến lược gia lẫy lừng của chúng ta cũng khốn đốn nhỉ.”
“Nghệ sĩ như ta đây không hợp với chốn trần tục này. Ta chỉ muốn giải quyết xong cho nhanh mọi việc rồi quay về thế giới hội họa tươi đẹp muôn màu.”
“Thế giới hội họa không hoan nghênh ngươi.”
Dariun lẩm bẩm.
Tiếng chửi rủa của quân Turan theo gió truyền vào thành. Dù không phá vỡ được tường thành Peshawar kiên cố nhưng họ vẫn tấn công không hề nản chí. Trong lúc đó, quân Sindhura đã tới biên giới đất nước và chỉ canh chừng để quân Turan không gây thiệt hại cho mình. Đó là kiểu mưu mô điển hình của vua Rajendra. Khó ở chỗ Arslan tin tưởng hắn ta, nên Dariun cực kỳ lo lắng. Biết tâm trạng của Dariun, Narsus nhận xét về thái tử trẻ.
“Một nhà lãnh đạo nên suy nghĩ như điện hạ, còn việc bẩn thỉu cứ giao cho chúng ta. Nếu không có khả năng tỏa sáng trong bóng tối, giữ mình trong sạch giữa vũng lầy hôi tanh thì không thể lập ra một kỷ nguyên mới đâu.”
Trấn an bạn mình xong, Narsus lại nhớ đến một người đồng đội đã lâu không gặp.
"Gần đây không có liên lạc gì từ anh chàng hát rong. Anh ta không phải kiểu người chết đường chết chợ khi đi làm nhiệm vụ, nhưng rốt cuộc thì đang ở đâu vậy nhỉ?”
Phía tây bắc pháo đài Peshawar, tại một góc núi hiểm trở, chàng hát rong tiếp tục hành trình đơn độc của mình. Ngay cả với người Pars vốn là giỏi khiển ngựa cũng không dễ dàng di chuyển trên địa hình khó khăn thế này. Tuy nhiên, anh tràng đẹp trai với cặp mắt xanh hết sức linh động này lại là bậc thầy của những bậc thầy về kỵ mã. Anh thong thả dong ngựa dọc theo đường mòn hẹp ven vách đá, băng qua đèo, vượt qua sông mà không có cầu, tiến sâu vào núi Demavand với chiếc đàn oud buộc trên lưng ngựa.
Anh tự gọi mình là kẻ hát rong Gieve.
Sau khi chia tay nhóm Arslan, tính tò mò bẩm sinh cùng nhiều động cơ khác thúc đẩy anh bắt đầu chuyến thám hiểm này. Với người dân xứ Pars, núi Demavand là một nơi còn khủng khiếp hơn địa ngục.
Vậy nhưng Gieve vẫn can đảm tiến vào cấm địa. Trong khi Arslan và thuộc hạ hay tin khẩn cấp và tức tốc quay về Peshawar, Gieve lại dấn thân vào một mối nguy khác.
Các sử gia viết về tiểu sử Vua Arslan sau này đã dành rất nhiều công sức để kể về những sự kiện trong năm 321. Nhìn chung, tháng 6 năm 321 theo lịch Pars được đánh giá là mốc thời gian xảy ra vô số sự kiện quan trọng, không dễ để nói hết trong vài lời.
Một phần trong số đó là do Gieve. Số câu chữ của các sử gia chắc đã giảm bớt nếu như anh chàng liều lĩnh này không nảy ra ý định mò đến núi Demavand.
Tất nhiên, Gieve giờ vẫn chưa hay biết những rắc rối anh gây ra cho hậu thế.
Con ngựa tiến xa dần, các màu sắc cũng theo đó mà rời khỏi thế gian. Những đám mây treo lơ lửng trên đỉnh núi, che khuất ánh sáng. Cây cối thưa thớt, những vách đá xám xịt nhô ra, mặt đất lởm khởm gồ ghề. Tiếng chim hót chuyển từ âm thanh líu lo thành kiếng kêu rát tai. Khói độc phun ra từ khe đá, chướng khí nổi lềnh bềnh trên mặt đầm lầy. Những ngọn núi và đồng cỏ xứ Pars đâu đâu cũng rực rỡ đầy sức sống, nhưng sao ở Demavand, mọi vẻ đẹp đều tan biến, chỉ còn lại cảm giác ngột ngạt, hoang tàn.
Có lẽ Gieve cũng nhận ra điều đó. Anh nhún vai chán nản.
“Bực thật. Ba ngày rồi mà chẳng thấy nổi một bóng người nào. Nếu gặp một cô nàng xấu xí ở đây, chắc mình sẽ tưởng lầm cô ấy là mỹ nữ mất. Thế thì danh tiếng lâu nay còn đâu.”
Gieve luyên thuyên nói chuyện một mình. Phạm vi núi Demavand trải rộng trên 7 farsang. Từ trước khi vào núi, anh đã mua đủ rượu và thức ăn ở thị trấn gần đó, cũng như áo choàng da cừu để chịu lạnh. Dù đang giữa mùa hè nhưng ban đêm ở miền núi vẫn rất khắc nghiệt.
Lúc đến gần Demavand, Gieve cảm ta thấy có gì đó kỳ lạ trên đường núi khi hoàng hôn dần buông. Quả nhiên đó là những vết vó ngựa còn mới, không chỉ một mà là hàng chục kỵ sĩ đã tới trước anh ta chỉ vừa mới đây thôi.
“Lạ nhỉ, chẳng có người nào đến núi Demavand mà có ý định tốt, trừ ta. Thế phải chăng đám người này là sơn tặc? Dù là ai cũng không dễ đối phó rồi.”
Sau khi nhận định, Gieve khẽ chạm vào chuôi kiếm bằng tay trái. Anh dũng cảm nhưng không liều lĩnh, chắc chắn không có ý định một mình đấu lại cả đám đông. Sau khi cẩn thận đi thêm nửa farsang nữa, Gieve dừng ngựa, ngủ lại trong bụi rậm. Anh đốt lửa giữa màn đêm dày đặc, biết chắc sẽ rất nguy hiểm nếu mình đi tiếp.
0 Bình luận