Lamington và đồng hồ quả...
Fudokazuma Cá Nóc Bất Khuất
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 02 : Bat and Siren.

Chương 3.5: Căn phòng và chuột cống.

0 Bình luận - Độ dài: 2,138 từ - Cập nhật:

Cả căn phòng ngần như tối đen, chỉ có hai ba ngọn nến được dựng lên qua loa trên chiếc bàn gỗ cũ kỹ. Ánh sáng tuy chỉ lờ mờ nhưng nếu như tôi vẫn có thể nhìn thấy được mấy ngón tay trước mặt mình thì đã quá đủ. Dù sao tôi cũng đã dành hơn nửa cuộc đời mình lăn lộn trong bóng tối rồi, tất cả những gì tôi cần chỉ là một cái bụng luôn no căng mà thôi.

Ngồi trên chiếc ghế xiêu vẹo, tôi đang tháo dỡ “anh bạn Zack” ra thành từng bộ phận riêng biệt rồi dùng chiếc khăn bông nhẹ nhàng thực hiện các bước bảo dưỡng theo hướng dẫn của lão chột mắt đã trao Zack cho mình. “Chả khó lắm đâu, ngay cả một đứa nhóc ngu xuẩn như mày cũng làm được”, giọng điệu khinh khỉnh của lão mỗi khi nhớ lại khiến cho tôi tức điên người.

Trước giờ lão ta vẫn luôn nổi tiếng là ăn nói lỗ mảng và thật sự chẳng ai ưa lão ta cả. Nhưng không phủ nhận là lão già điên đó có một đôi tay tài hoa và một cái đầu to hơn cả dưa hấu. Tuy thế tôi vẫn ghét lão, ghét cay ghét đắng. Có lần tôi chỉ lỡ tay chạm vào mảnh kim loại lạ lùng nào đó trên bàn làm việc của lão mà lão lôi tôi ra mắng té tát, khiến cho anh ta còn phải hạ mình xin lỗi lão.

Cơ mà nhắc tới anh ta. Sao bây giờ anh ta vẫn chưa về nhỉ. Trước đến giờ chúng tôi vẫn luôn thực hiện các nhiệm vụ mà “con nhện” đó đưa ra cùng nhau, dĩ nhiên là chưa từng thất bại bao giờ, nếu không thì tôi chẳng còn sống mà ngồi ở đây. Tôi chợt thấy bồn chồn kinh khủng. Mỗi lần phải tách nhau ra trong vài ngày thì anh ta luôn dặn dò tôi gì đó, nhưng lần này chẳng có gì cả. Cứ như anh ta bốc hơi rồi vậy.

Tôi tự hỏi nhiệm vụ của anh ta là gì? Khả năng cao là giết ai đó. Dù sao đó là chuyện mà cả hai chúng tôi làm giỏi nhất. Nhưng không giống tôi, kẻ chỉ làm để có cái bụng no và mái nhà để nằm, với anh ta tôi cảm thấy giết chóc giống như là một lẽ sống. Dường như nếu không giết chóc thì cuộc đời anh ta sẽ kết thúc vậy.

Thế nhưng anh ta tuyệt nhiên không phải là một con thú khát máu. Anh ta còn hơn như thế. Mỗi khi ngồi cùng với nhau trên chiếc bàn này, anh ta thường nói với tôi nhiều chuyện. Không có gì kinh khủng cả, chúng như cảnh chó mèo đuổi nhau hằng ngày trên đường phố vậy. Nhưng anh ta luôn nhấn mạnh từ “bản năng”. Tôi không hiểu lắm, đôi lúc còn chán quá mà ngủ quên. Tuy thế những lời nói đó đôi lúc lại vọng lại từ góc nào đó trong tâm trí, chẳng bao giờ rõ ràng.

Thế nên tôi chẳng thể nào đánh giá anh ta được. Anh ta tốt hay xấu? Tôi không rõ. Anh ta có thể giết người, nhưng lại chẳng bao giờ làm hại bất kì con vật nào. Có lần khi đang ăn tối, một bầy kiến tha theo nửa cái bánh quy bò ngang bàn ăn, tôi toang dùng tay phủi chúng đi cho đỡ ngứa mắt thì anh ta ngay lập tức chặn tôi lại, rồi ngồi nhìn chúng hành quân quên cả bữa ăn.

Tôi đã thấy qua nhiều loại người, nhưng anh ta cứ như một kẻ ngoại đạo chẳng thuộc vào loại nào cả. Một kẻ đơn độc chẳng thể nào so sánh được với ai, đến cả đôi mắt cũng thật khó lường. Nhưng đó là khi tôi chưa chạm mặt anh trai tóc bạc kia. Dù chỉ gặp mặt và được anh ta đỡ qua một cú ngã bất ngờ vào tối hôm trước và cùng nhau dùng một bữa trưa nhẹ tại một quán ăn bên đường, tôi cảm thấy hai người này rất giống nhau, họ đều là những kẻ đơn độc. Dù có bạn bè, người thân bên cạnh, hay đi ngay giữa hàng trăm, hàng ngàn người, họ vẫn cảm thấy lẻ loi.

Chẳng khác gì những hòn đá tảng trên một dòng suối lớn.

"Ôi trời ơi là trời!" Tôi cau mày, ôm đầu, ca thán liên hồi. "Tất cả lại tại anh ta bỏ mình lại một mình! Sao mà nghĩ quái gì không vậy cái con điên này. Là tại anh ta, là tại anh ta, đợi khi anh ta về thì mình cho biết tay."

Tôi chộp lấy cái ly kim loại, ném thẳng nó vào trong góc phòng khiến tiếng lốc cốc vang lên inh ỏi. Cùng với đó là tiếng kêu chin chít đầy sợ hãi cùng một cái mũi mọn hoắc ló lên phía sau cái ly.

Con chuột chết tiệt. Tôi lại ném muỗng, nĩa, dao cùng bất kỳ thứ cứng cứng vô dụng nào đó mà tôi vớ được ném thẳng vào ngay đuôi con chuột đó, cố đuổi nó đi cho khuất mắt. 

Nó mà không đi thì tôi sẽ tóm lấy nó, xiêng thẳng từ đít đến đầu rồi nướng cả lông lẫn da trên mấy cái đèn cầy. Đám súc vật phiền phức và vô dụng, có lẽ tôi lúc nhỏ cũng đã nhận ra điều này nên toàn lấy chúng bỏ bụng qua ngày, ít ra thì nhờ đó mà sự sống của chúng cũng có ý nghĩa.

Tôi tức tối, cố kìm hãm bản thân lại trước khi mình phá nát cả căn phòng. Tuy đây không phải là nơi trú chân duy nhất mà tôi có ở London nhưng ở đây tôi mới thấy mình có thể yên tâm ngủ ngon. Cho dù nó lạnh đến run người vì chẳng có lò sưởi, cho dù mùi xú uế bên ngoài bay vào thông qua cửa sổ và các kẽ hở, cho dù chỉ có một chiếc giường cũ mèm và sàn gỗ kêu cọt kẹt  theo mỗi bước chân. Nhưng vì đã dành thời gian ở chốn này quá lâu, tôi đã quen với không khí của nó.

Không chỉ thế, đây còn là mái nhà đầu tiên của tôi. 

Chính anh ta đã đưa tôi về đây, sau khi tìm thấy tôi nằm co ro như một con thú bị thương giữa một đống chuột cống. 

Có lẽ Chúa trời đã sắp đặt cho tôi và anh ta gặp nhau. Đó cũng là lần duy nhất tôi thật lòng cảm ơn Ngài bằng cả tâm can. 

Tôi ngồi yên, cố làm cho xong công việc bảo dưỡng thường ngày. Zack như một người bạn thân của tôi vậy, tôi không thể để nó bị rỉ sét hay kẹt đạn vào những lúc cần thiết được. Nếu tôi chết thì Zack cũng sẽ chết theo và những gì còn lại chỉ là một khẩu súng vô dụng mà thôi.

Nhưng sau đó thì sao? Tôi sẽ làm gì? Cảm giác bứt rứt trong người tôi vẫn chưa hề dứt. Tôi cần phải làm gì đó. Trong căn phòng gần như trống trải này chả có gì chơi cả. Mà ra ngoài chạy lanh quanh một cách vô nghĩa thì chẳng được gì. Tôi cần một mục tiêu gì đó, nhảm nhí cũng được. Ngồi ngẩm nghĩ, dù đã lau chùi xong và ráp Zack lại nguyên vẹn tôi vẫn chưa rõ nên làm gì.

Hay là chơi trò trồng cây chuối hơn mười phút?

Nghĩ thế, tôi đứng thẳng dậy, cúi người xuống chống cả hai tay lên sàn gỗ khiến nó kêu lên vài tiếng quan ngại. Sau đó dựng cả hai chân hướng lên trần nhả, đổ toàn bộ trọng lực cơ thể lên cả hai tay. Miệng tôi lầm bầm đếm từng giây, một, hai, ba, bốn,…

Nhưng chỉ lát sau, tôi bắt đầu chán và mất luôn nhịp đếm, dù tay hay lưng hay chân vẫn chưa mỏi tí nào nhưng vài suy nghĩ bân quơ về bơ và bánh mỳ chợt lướt qua khiến tôi mất tập trung rồi đổ xuống như một nhánh cây gãy. 

Chán thật.

Chẳng buồn đứng dậy, tôi nằm áp má xuống sàn nhà, hướng mắt về phía cánh cửa ra vào. Nhìn chằm chằm vào nó, hi vọng rằng nó sẽ có dấu hiệu gì đó, nhưng cánh cửa vẫn im lặng đứng trơ ra. Những thứ cần cử động sẽ chẳng bao giờ cử động khi ta cần cả. Tôi bất giác thở ra một hơi dài làm một đám bụi nhỏ bốc lên. Nhưng khi chúng vừa tan đi thì bất chợt tôi nghe thấy vài tiếng bước chân.

Đây là một khu ổ chuột hỗn loạn, nên việc ai đó đi đi về về trong thời gian này chẳng có gì ngạc nhiên. Nhưng vấn đề là ở đó, những bước chân này quá đều đặn và thong thả, đến nỗi trong đầu tôi phải hiện ra hình ảnh một người đàn ông ăn bận gọn gàng đi tản bộ vào buổi đêm. Anh ta cũng bước đi như thế, tuy nhiên nhịp bước lại nhanh hơn và mạnh hơn. 

Đúng thế không phải anh ta.

Nhưng cũng không hẳn là người lạ.

Tiếng bước chân dừng lại khi đã đến rất gần, tôi có thể thấy bóng chiếc giày bóng của ông ta ngay ngoài khe cửa.

Tôi chẳng buồn lên tiếng, ông ta như mọi khi cũng chẳng nói lời nào. 

Lát sau ngay ở khe cửa, một tấm phong bì được đưa vào như để khẳng định cái tên mà chúng tôi vẫn dùng để gọi ông ta, “Kẻ truyền tin”. Khi vừa thấy nó, bụng tôi thắt lại, trong lòng trổi dậy một thứ hi vọng

Sau đó, tiếng bước chân rời đi, thong thả, đều đặn như lúc đến. Khi loạt âm thanh đó đã hoàn toàn biến mất, tôi liền vội vã bò tới tóm lấy bức thư.

Bao thư trắng bóc không có lấy một dòng chữ, dĩ nhiên rồi, tôi còn ngửi thấy thoang thoảng chút hương nước hoa. Quả nhiên là con mụ đó, sở thích kỳ lạ thật, nghe nói cô ta đánh dấu mỗi loại thư từ bằng mỗi loại mùi khác nhau để thay cho chữ viết. Tôi đoán “kẻ truyền tin” có cái mũi chắc chẳng kém mấy loài chó là bao. Mà ông ta có khác gì con chó đâu, mụ ta bảo gì thì làm nấy, bảo đi thì đi, bảo về thì về.

Không chờ đợi gì thêm, tôi liền mở phong thư ra. Trong thứ ánh sáng lờ mờ của đèn cầy, mắt tôi lướt qua vài dòng chữ in ngay thẳng và ngắn gọn.

Quả nhiên là có nhiệm vụ mới. Hoan hô!

Tôi mừng đến độ nhảy cẩn cả lên. Chỉ khi tiếng kêu răn rắn của một tấm ván lót sàn vang lên đầy quan ngại thì tôi mới vội vã tự giữ mình lại. May thật, suýt chút nữa thì nát cả nhà.

Nhìn lại địa điểm, giờ giấc và đặc điểm mục tiêu được ghi trên đó thêm lần nữa để khắc ghi vào trí nhớ, tôi đưa bức thư lên ngọn lửa đèn cầy rồi thả tờ giấy vào chiếc bát kim loại trên bàn, một mùi khét nhẹ bốc lên. Nhìn ngọn lửa liếm láp lấy tờ giấy đang bóc khói một chốc, tôi nhảy vào góc phòng, lôi cái hộp đựng đàn Guitar lớn ra đặt lên bàn.

Tới giờ làm việc rồi anh bạn to xác.

Tôi nhẹ nhàng đặt Zack vào bên trong rồi đóng cái hộp lại. Bước tới cây móc treo đồ, tôi nhẹ nhàng vuốt ve tấm áo choàng nâu sờn rách của mình rồi nhanh tay phủ nó lên người. Quay lại bàn, tôi đeo cái hộp đựng đàn nặng trịch chỉ có lợi ích ngụy ngang lên chéo vai sau đó bước nhanh ra cửa.

Sau khi đã khóa cửa nẻo lại cẩn thận, tôi bắt đầu nhẩm lại vài thông tin cần thiết. Cái đầu nhỏ của tôi khó mà nhớ lâu được.

Chợt có vài thứ khiến tôi phải bận tâm.

Trắng bạc sao? Liệu có phải người quen không nhỉ?

Ai mà biết được.

Sau đó tôi chụp lấy thanh xà ngang kim loại ở ngoài hành lang rồi lộn một vòng đẩy bản thân lên mái nhà.

Trên bầu trời là một vầng trăng tròn vằng vặc.

Đêm nay sẽ là một đêm dài đây. 

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận