Nếu không thể truy cập trang web xin vui lòng sử dụng DNS 1.1.1.1 hoặc docln.sbs

Lord of Mysteries
Ái Tiềm Thủy Đích Ô Tặc
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 01 - Tên Hề (1)《Đang Sửa》

Chương 06: Nhà Bói Toán

13 Bình luận - Độ dài: 12,428 từ - Cập nhật:

Translator: Kouji

✫ ✫ ✫

Ánh tà dương vàng óng bên ngoài cửa sổ dần tắt. Klein nhìn vào mắt Melissa, nhất thời không biết phải nói gì. Bao lời được chuẩn bị sẵn đều không thể sử dụng.

Anh ho nhẹ hai tiếng, vắt óc nói, “Melissa, đây không phải là lãng phí tiền lương. Về sau đồng nghiệp của anh hay của Benson tới chơi, chẳng lẽ chúng ta sẽ tiếp đãi họ ở nơi như thế này? Sau này anh và Benson kết hôn, cưới vợ, nhẽ nào vẫn cứ ngủ giường tầng sao?”

“Chẳng phải hai người vẫn chưa có vị hôn thê à? Có thể chờ thêm một thời gian nữa, rồi tích cóp thêm chút tiền được mà.” Melissa đáp với lập luận mạch lạc.

“Không, Melissa. Đây là quy tắc xã hội.” Klein đau đầu, đành phải dùng tới đạo lý. “Đã lấy lương 3 Bảng một tuần thì phải sống sao cho đúng mức lương ấy.”

Thành thật mà nói, kẻ từng ở ghép như anh không lạ gì điều kiện ăn ở hiện tại. Hoàn toàn thích ứng là đằng khác. Song chính vì đã trải qua nó nên anh càng thấu hiểu những điều bất tiện mà con gái có thể gặp phải trong hoàn cảnh này. Hơn nữa, mục tiêu của anh là trở thành một Kẻ Phi Phàm, nghiên cứu thần bí học, tìm ra “con đường” để trở về nhà. Vì vậy, anh chắc chắn sẽ phải thực hành không ít nghi lễ ma thuật ở nhà sau này, mà nhà trọ lắm người nhiều miệng thì rất dễ xảy ra vấn đề.

Thấy Melissa định tranh luận tiếp, Klein vội nói thêm, “Yên tâm, anh không định thuê nhà biệt lập, chỉ tính xem nhà liền kề mà thôi. Tóm lại là phải có phòng tắm riêng. Còn nữa, anh rất thích bánh mì, bánh Tingen và bánh chanh của bà Sling. Chúng ta có thể cân nhắc mấy chỗ gần phố Chữ Thập Sắt và phố Hoa Thủy Tiên trước.”

Melissa mím môi, im lặng một lát rồi chậm rãi gật đầu.

“Vả lại anh đâu định chuyển ngay. Phải chờ Benson về đã.” Klein cười khúc khích. “Không thì tới lúc anh ấy mở cửa phòng sẽ kinh hãi thốt lên: Đồ đạc nhà tôi đâu? Em trai và em gái của tôi đâu? Nhà tôi đâu? Đây có phải nhà tôi không vậy? Tôi nhầm chỗ sao? Nữ thần ơi, mau nói cho tôi biết rằng đây có phải một giấc mộng không? Tại sao tôi mới đi có vài ngày mà đã không còn nhà nữa vậy!”

Thấy Klein bắt chước giọng điệu của Benson, Melissa bất giác cong mắt, lộ ra má lúm đồng tiền.

“Không, ông Franky chắc chắn sẽ chờ ở cổng để bắt Benson giao chìa khóa ra. Anh ấy thậm chí không được lên lầu ấy chứ.” Cô gái cất lời chê bai người chủ nhà keo kiệt tham lam.

Ở nhà Moretti, ai cũng thích lấy ông chủ nhà Franky ra làm trò cười mỗi khi có dịp, một thói quen do chính anh cả Benson tạo nên.

“Đúng thế, ông ta còn lâu mới chịu đổi khóa cho khách thuê sau.” Klein mỉm cười phụ họa. Anh chỉ tay ra ngoài cửa và hóm hỉnh nói. “Thưa cô Melissa, cùng ăn mừng ở nhà hàng Vương Miện Bạc nhé?”

Melissa khẽ thở dài, “Klein, anh biết Selena không? Bạn học, cũng là bạn tốt của em ấy.”

Selena? Một cô gái có mái tóc dài màu rượu đỏ và mắt màu nâu sẫm lập tức hiện ra trong đầu Klein. Cha mẹ cô bé đều là tín đồ Nữ Thần Đêm Đen. Tên cô được đặt theo Thánh Selena như một sự chúc phúc. Cô bé còn chưa tròn mười sáu, nhỏ hơn Melissa nửa tuổi, là một người vui vẻ, sáng sủa và cởi mở.

“Anh nhớ.” Klein gật đầu tỏ vẻ nhớ Selena Wood.

“Anh trai Chris của bạn ấy là một luật sư sự vụ, hiện có mức lương gần 3 Bảng một tuần. Còn hôn thê thì làm công việc đánh máy bán thời gian.” Melissa mô tả tình huống trước khi nói tiếp. “Họ đã đính hôn được hơn bốn năm. Để đảm bảo cuộc sống ổn định và tốt đẹp sau khi kết hôn, họ vẫn chưa bước vào nhà thờ mà định chờ thêm một năm nữa và tiếp tục dành dụm tiền cho đến nay. Selena nói có rất nhiều người giống anh trai bạn ấy, thường phải đợi qua hai tám tuổi mới kết hôn. Anh nên chuẩn bị trước, chịu khó dành dụm tiền chứ đừng phung phí.”

Chỉ là đi ăn hàng thôi mà, có cần phải nói nhiều đạo lý như thế không… Klein dở khóc dở cười, suy nghĩ một lát rồi bảo, “Melissa, lương hiện tại của anh là 3 Bảng một tuần. Sau này còn được tăng lương hàng năm. Em không cần lo thế đâu.”

“Nhưng chúng ta phải chuẩn bị sẵn tiền phòng trường hợp bất trắc chứ. Nhỡ công ty an ninh đó đột nhiên đóng cửa thì sao? Em có một người bạn, bởi chỗ cha bạn ấy làm việc đột nhiên bị phá sản, chỉ có thể kiếm việc tạm thời ở bến tàu, khiến điều kiện gia đình tụt dốc không phanh nên mới phải nghỉ học.” Melissa nghiêm túc khuyên lơn anh trai mình.

Klein đưa tay che mặt, “Công ty… Công ty an ninh kia có chút quan hệ với, ừm, với chính phủ… Nó không dễ phá sản đâu.”

“Chính phủ cũng đâu có ổn định. Sau mỗi lần bầu cử, nếu đảng nắm quyền thay đổi thì hầu hết chức vụ sẽ bị thay người, trở thành một mớ lộn xộn đó thôi.” Melissa tiếp tục phản bác.

Em hiểu nhiều thật đấy… Klein vừa bực mình vừa buồn cười, đành lắc đầu, “Tốt thôi...”

“Vậy anh sẽ hầm canh bằng nguyên liệu thừa từ hôm qua. Em xuống phố mua một con cá chiên thơm, một miếng thịt bò sốt tiêu đen, một chai bơ nhỏ với một cốc bia gừng cho anh nhé. Dù sao vẫn phải ăn mừng một chút.” Klein kiên quyết nói.

Đây đều là những món ăn thường được các tiểu thương ở phố Chữ Thập Sắt chào bán. Một con cá chiên thơm có giá từ 6 đến 8 Penny, một miếng bò sốt tiêu đen cỡ vừa khoảng 5 Penny, một cốc bia gừng 1 Penny, một chai bơ nhỏ nặng khoảng một phần tư pound tầm 4 Penny, nếu mua cả cân thì chỉ mất 1 Saule 3 Penny. Vào ngày nghỉ, nguyên chủ sẽ phụ trách việc mua sắm đồ ăn thức uống cho gia đình nên không lạ gì giá cả. Trong vài giây, Klein đã tính nhẩm ra số tiền phải chi khoảng 1 Saule 6 Penny, bèn rút hai tờ 1 Saule đưa cho Melissa.

“Vâng.” Melissa không phản đối đề xuất này. Em đặt túi xách đựng đồ dùng học tập xuống và nhận lấy tiền mặt.

Nhìn em gái cầm chai đựng bơ cỡ nhỏ và giỏ đựng thức ăn nhẹ nhàng bước đến cửa, Klein nghĩ một chút rồi gọi với theo, “Melissa, dùng tiền thừa mua ít hoa quả nhé.”

Không ít người bán hàng rong trên phố Chữ Thập Sắt hay mua những hoa quả kém chất lượng hoặc để quá lâu từ nơi khác rồi mang về đây bán với giá cực kỳ rẻ. Tuy nhiên cư dân ở đây không hề tức giận. Họ chỉ cần cắt bỏ chỗ thối là có thể thưởng thức những hương vị tuyệt vời rồi. Vì lẽ đó mà nó thường được coi như một thú vui rẻ tiền.

Nói xong, Klein đi tới, móc mấy đồng Penny còn lại từ túi quần ra, dúi vào lòng bàn tay em gái.

“Dạ?” Melissa nhìn anh trai bằng đôi mắt nâu tràn đầy sự nghi hoặc và bối rối.

Klein lùi lại vài bước, mỉm cười bảo, “Nhớ đến chỗ bà Sling, tự thưởng cho mình một miếng bánh chanh nhé.”

Melissa có vẻ ngập ngừng như muốn nói. Em chớp mắt vài lần, mãi mới thốt ra một từ đơn, “Vâng.”

Em nhanh chóng quay người, mở cửa và chạy bình bịch về phía cầu thang.

.

Dòng sông chảy giữa những hàng cây bách và cây phong mọc san sát, không khí trong lành đến mức khiến người ta cảm thấy lâng lâng.

Klein đến đây để giải quyết vụ phỏng vấn. Anh giấu khẩu súng lục ổ xoay trong người, cầm gậy chống bước xuống chiếc xe ngựa công cộng có phí 6 Penny. Dọc theo con đường lát xi măng, anh đi đến tòa nhà ba tầng bằng đá thấp thoáng giữa tán cây xanh mát. Đó chính là khu hành chính của đại học Tingen.

“Quả không hổ là một trong hai trường Đại học nổi tiếng nhất vương quốc Loen…” Klein vừa đi vừa cảm thán. Đây là lần đầu tiên anh đến nơi này. So với nó thì đại học Khoy ở bên kia sông thực sự đơn sơ.

“Hây dô!”

“Hây dô!”

Những tiếng hô truyền đến khi hai chiếc thuyền đua lao tới từ thượng lưu sông Khoy. Những mái chèo gỗ quấy nước một cách trật tự và nhịp nhàng.

Hoạt động đua thuyền này rất phổ biến trong tất cả các trường đại học ở vương quốc Loen. Ngay cả người phải dựa vào học bổng mới học hết đại học như Klein cũng tham gia câu lạc bộ đua thuyền cùng đám Welch và trở thành một tay đua khá giỏi.

“Đúng là tuổi trẻ…” Klein dừng chân ngắm nhìn rồi than thở.

Cảnh tượng ấy sẽ biến mất sau một tuần nữa, bởi trường sắp được nghỉ hè.

Anh bước trên con đường râm mát rợp bóng cây xanh, đến gần tòa nhà ba tầng đá xám. Sau khi báo tên, anh thuận lợi đi vào trong, quen chân tìm đến văn phòng đã tiếp mình bữa trước.

Cốc cốc cốc! Anh gõ nhẹ lên cánh cửa khép hờ.

“Mời vào.” Một giọng nam vang lên từ sau cửa.

Thấy Klein đẩy cửa vào, người giáo viên trung niên mặc sơ mi trắng, mặc áo đuôi tôm đen hơi nhíu mày, “Còn một tiếng nữa mới đến giờ phỏng vấn.”

“Chào thầy Stone, thầy còn nhớ tôi chứ? Tôi là học trò của Phó giáo sư thâm niên Cohen, Klein Moretti. Thầy từng đọc thư đề cử của tôi rồi.” Klein mỉm cười, ngả mũ chào.

Harvin Stone vuốt bộ râu quai nón đen, nghi ngờ hỏi, “Có chuyện gì sao? Tôi không phụ trách việc phỏng vấn.”

“Là thế này, tôi đã tìm được việc, nên sẽ không tham gia phỏng vấn hôm nay nữa.” Klein thẳng thắn nói ra ý định của mình.

“Ra vậy…” Harvin Stone nghe thế bèn đứng dậy, chìa tay phải ra. “Chúc mừng cậu. Quả là một chàng trai lễ phép. Tôi sẽ báo điều đó cho ngài giáo sư và các phó giáo sư thâm niên.”

Klein bắt tay đối phương, định hàn huyên vài câu trước khi nói lời tạm biệt. Đột nhiên, anh nghe thấy một giọng nói quen thuộc vang lên từ sau lưng, “Moretti, em tìm được việc khác rồi?”

Xoay người lại, Klein bắt gặp một ông già đầu bạc với gương mặt góc cạnh mà thời gian còn chưa để lại nhiều dấu vết. Ông có hốc mắt trũng sâu, mắt xanh đậm, mặc bộ lễ phục đen phẳng phiu. Vị này chính là Quentin Cohen, phó giáo sư thâm niên của khoa Lịch sử đại học Khoy, kiêm thầy hướng dẫn của anh.

Bên cạnh Cohen là một người đàn ông trung niên đội mũ chóp cao, tay cầm một tờ báo. Người này có thân hình cân đối, nước da màu đồng cổ, gương mặt không râu với đường nét dịu dàng, mái tóc đen và đôi mắt nâu, ánh nhìn chứa đựng nỗi tang thương khó tả bằng lời, dưới tai phải là một nốt ruồi đen phải nhìn kỹ mới nhận ra được.

Klein biết ông. Đây là thầy Azik, giảng viên khoa Lịch sử đại học Khoy. Một người thường xuyên giúp đỡ nguyên chủ. Thầy và thầy hướng dẫn Cohen thường xuyên tranh cãi do có nhiều quan điểm trái ngược nhau. Thực tế thì mối quan hệ cá nhân của hai người rất tốt. Bằng không họ sẽ không thường xuyên gặp gỡ và tán gẫu với nhau nhiều đến thế.

“Chào buổi sáng, thầy hướng dẫn, thầy Azik.” Anh vội chào hỏi. “Sao hai thầy lại ở đây?”

Cohen gật đầu, ung dung bảo, “Thầy và Azik đến đây để tham gia một hội nghị học thuật. Em đã nhận được việc gì vậy?”

“Cố vấn chuyên môn ở một công ty an ninh cung cấp dịch vụ tìm kiếm, thu thập và bảo vệ cổ vật ạ. Lương mỗi tuần là 3 Bảng.” Klein lặp lại những gì mình đã nói với em gái hôm qua rồi giải thích tiếp. “Thầy biết mà, em thích khám phá lịch sử hơn là tổng kết lịch sử.”

Cohen gật nhẹ, “Ai cũng có định hướng riêng của mình. Em còn nhớ đến đại học Tingen để thông báo cho họ một tiếng thay vì bỏ luôn là thầy thấy vui rồi.”

Lúc này, Azik xen vào, “Klein, em có biết chuyện gì đã xảy ra với Welch và Naya không? Trên báo nói các trò ấy đã bị trộm cướp đột nhập vào nhà sát hại.”

Vụ án chuyển thành một vụ đột nhập cướp bóc rồi sao? Còn lên báo nhanh như vậy? Klein sửng sốt trong giây lát rồi châm chước trả lời, “Cụ thể như thế nào thì em không rõ lắm. Lúc trước, Welch có nhận được một cuốn sổ tay thuộc về gia tộc Antigonus của đế quốc Solomon ở Kỷ Thứ Tư và nhờ em giải mã cùng. Em chỉ qua được mấy ngày đầu. Sau bận tìm việc nên không đi nữa. Hai ngày trước cảnh sát mới tìm đến em.”

Anh cố ý nhắc đến “đế quốc Solomon” và “gia tộc Antigonus” để xem hai giáo viên khoa Lịch sử có biết gì không.

“Kỷ Thứ Tư…” Cohen nhíu mày lẩm bẩm.

Azik có làn da màu đồng và đôi mắt tang thương ngây người. Thầy hít vào một hơi, dùng tay trái cầm báo day huyệt thái dương và bảo, “Antigonus… cảm giác rất quen… nhưng tôi nghĩ mãi mà không ra là nghe được từ chỗ nào…”

Trong lúc lầu bầu, Azik vô thức nhìn sang Quentin Cohen, như thể muốn tìm kiếm gợi ý để lấy được linh cảm.

Cohen có đôi mắt xanh đậm và hốc mắt trũng sâu dứt khoát lắc đầu, “Tôi không có ấn tượng nào về nó.”

“... Chà, có lẽ chỉ là gốc từ giống nhau.” Azik hạ tay trái xuống và cười giễu một tiếng.

Dù khá thất vọng với kết quả, Klein vẫn gắng bồi thêm một câu, “Thầy hướng dẫn, thầy Azik. Hai thầy biết đó, em rất có hứng thú với việc khám phá và khôi phục lịch sử Kỷ Thứ Tư. Nếu các thầy có nhớ ra điều gì, hoặc tìm được tư liệu liên quan thì có thể viết thư cho em được không ạ?”

“Không thành vấn đề.” Vì chuyện hôm nay, phó giáo sư thâm niên đầu bạc Cohen khá hài lòng về Klein.

Azik cũng gật đầu bảo, “Địa chỉ của em vẫn như cũ à?”

“Tạm thời là vậy ạ, em sắp chuyển nhà rồi. Đến lúc đó, em sẽ viết thư báo các thầy.” Klein cung kính đáp.

Cohen lắc cây gậy đen của mình và nói, “Đúng là nên đổi môi trường tốt hơn.” 

Lúc này, Klein đưa mắt sang tờ báo trên tay Azik và đắn đo nói, “Thưa hai thầy, báo chí nói thế nào về chuyện Welch và Naya vậy ạ? Trước đó, em chỉ biết đôi chút từ mấy người cảnh sát phụ trách điều tra.”

Azik đang định đáp lời thì phó giáo sư thâm niên Cohen đột nhiên kéo dây chuyền vàng trên áo đuôi tôm, lôi ra một chiếc đồng hồ bỏ túi. Tách! Ông mở nắp xem giờ và chỉ gậy về phía trước, “Hội nghị sắp bắt đầu. Azik, chúng ta không thể trì hoãn thêm được nữa. Anh hãy đưa tờ báo cho Moretti đi.”

“Tốt thôi.” Azik đưa tờ báo đã đọc cho Klein. “Các thầy phải lên lầu đây. Nhớ viết thư đấy. Địa chỉ của thầy và Cohen không thay đổi, vẫn là văn phòng khoa Lịch sử đại học Khoy. Haha.”

Thầy cất tiếng cười trước khi quay người và rời phòng cùng Cohen.

Klein cởi mũ cúi chào, đưa mắt nhìn hai người thầy rời đi, rồi mới từ biệt chủ nhân văn phòng Harvin Stone. Anh thong thả xuôi theo hành lang, chậm rãi bước ra khỏi cánh cửa lớn của tòa nhà ba tầng màu xám.

Dưới ánh nắng mặt trời, anh nhấc gậy, giở tờ báo có tiêu đề "Báo Tin Tức Buổi Sáng Tingen".

Tingen có nhiều các loại báo và tạp chí khác nhau thật đấy. Nào là “Báo Sáng”, “Báo Chiều”, “Báo Người Trung Thực”, nào là “Nhật Báo Backlund”, “Báo Tasok”, “Tạp chí Gia Đình” đến “Bình luận Chuyện Xưa”… Klein vừa hồi tưởng đã nhớ ra bảy, tám cái tên. Đương nhiên, một phần trong số đó không phải báo địa phương, mà được phân phối thông qua các chuyến tàu hỏa hơi nước. Trong thời kỳ công nghệ làm giấy và in ấn được công nghiệp hóa và phát triển tiên tiến như hiện nay, giá một tờ báo đã giảm xuống chỉ còn 1 Penny, khiến số lượng độc giả ngày một đông đảo.

Klein không đọc kỹ những nội dung khác, mà lật nhanh sang bài “Đột nhập trộm cắp, ra tay giết người” trong mục “Tin thời sự”.

‹... Theo những gì Sở Cảnh sát cung cấp, hiện trường tại nhà ông Welch thực là một cảnh tượng khủng khiếp. Tiền vàng, trang sức hay bất cứ thứ gì có giá trị đều đã không cánh mà bay. Thậm chí một xu cũng chẳng còn. Cảnh sát có lý do để xác nhận rằng đây là hành động của một băng cướp tàn bạo. Chúng sẵn sàng xuống tay với những người vô tội như ông Welch và bà Naya, một khi bị bắt gặp.

Đây rõ ràng là hành vi khinh nhờn luật pháp vương quốc! Là lời thách thức đến an ninh cộng đồng! Không một ai mong muốn chuyện tương tự xảy đến với mình cả. May mắn thay, Sở Cảnh sát đã tìm ra kẻ sát nhân và bắt được thủ phạm chính. Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để tiếp tục cập nhật tin tức trong thời gian sớm nhất.

Người đưa tin: John Browning. ›

Đã xử lý và che đậy… Klein hơi gật đầu, bước đi trên con đường rợp bóng. Anh tiện tay lật trang, vừa đi vừa đọc tin tức cùng các câu chuyện dài kỳ khác. Đột nhiên, tóc gáy anh dựng đứng như bị vô số mũi kim nhỏ đâm vào.

Ai đó đang nhìn chòng chọc vào mình? Quan sát mình? Theo dõi mình? Những ý nghĩ ấy bỗng nảy sinh, Klein mơ hồ nhận ra điều gì đó.

Khi còn ở Trái Đất, anh từng cảm nhận được ánh mắt vô hình theo dõi, đến cuối cùng mới tìm ra nguồn gốc của nó, nhưng chưa bao giờ có phản ứng rõ ràng và cảm giác chắc chắn như bây giờ!

Chuyện tương tự từng xảy ra trong mảnh vỡ ký ức của nguyên chủ!

Phải chăng việc xuyên không hoặc nghi lễ đổi vận kỳ quái kia đã làm giác quan thứ sáu của anh mạnh hơn?

Klein cố nén thôi thúc tìm kiếm kiếm kẻ quan sát. Anh học theo những gì mình đã thấy trong tiểu thuyết, phim truyền hình và điện ảnh, chậm rãi dừng bước, gấp tờ báo lại rồi phóng tầm mắt về phía sông Khoy. Tiếp theo, anh giả vờ như đang ngắm cảnh, từ từ quay đầu một cách tự nhiên và cố bao quát xung quanh. Ngoại trừ cây cối, bãi cỏ và đám sinh viên đi bộ ở đằng xa, nơi đây không có bất kỳ ai khác.

Tuy vậy, Klein vẫn chắc chắn rằng có người đang dõi theo mình!

Chuyện này... Tim Klein đập dồn dập, máu chảy rần rật theo từng nhịp đập dữ dội. Anh mở tờ báo để che nửa khuôn mặt, sợ người khác phát hiện biểu cảm bất thường. Đồng thời, anh siết chặt cây gậy, sẵn sàng rút súng.

Một bước, hai bước, ba bước, Klein chậm rãi bước về phía trước hệt như lúc đầu. Cảm giác bị dòm ngó vẫn còn đó, nhưng nguy hiểm chưa thình lình xuất hiện. Với dáng vẻ hơi cứng đờ, anh rời khỏi con đường rợp bóng cây, tiến đến điểm chờ xe ngựa công cộng. May mắn thay, đúng lúc ấy, một cỗ xe đang lăn bánh tới.

“Chữ… Zoute… Không, phố Champagne.” Klein liên tục bác bỏ ý nghĩ của mình.

Anh vốn định về thẳng Chữ Thập Sắt, nhưng lại sợ sẽ dẫn kẻ theo dõi có mục đích không rõ kia đến nhà. Sau đó, anh nghĩ đến việc tìm đến phố Zouteland để cầu cứu Kẻ Gác Đêm hoặc đồng nghiệp, rồi lại lo đối phương đang cố tình đánh cỏ động rắn khiến anh tự lộ diện. Cuối cùng anh đành chọn đại một địa điểm.

“6 Penny.” Người thu phí trả lời một cách thành thạo.

Hôm nay Klein không mang theo Bảng Vàng ra ngoài, mà để chúng ở chỗ cất tiền quen thuộc, chỉ cầm theo hai tờ tiền 1 Saule. Khi đến đây, anh cũng đã trả khoản tiền xe tương tự, trên người lúc này vừa khéo còn lại 1 Saule và 6 Penny. Thế là anh móc hết số tiền lẻ ra, đưa cho người thu phí.

Anh lên xe ngựa, tìm chỗ ngồi xuống. Ngay khi cánh cửa xe khép lại, Klein nhận thấy cảm giác bị rình rập cuối cùng đã tan biến. Anh từ từ thở ra, phát hiện chân tay mình vẫn còn run nhẹ.

Nên làm gì bây giờ? Phải làm gì tiếp theo đây? Klein nhìn ra ngoài cửa sổ, cật lực nghĩ biện pháp.

Khi chưa biết mục đích của kẻ rình rập là gì thì cứ coi là có ác ý đã!

Những ý tưởng lần lượt hiện lên trong đầu. Từng cái đều bị Klein gạt bỏ. Vì chưa từng rơi vào cảnh tương tự, anh phải đắn đo vài phút mới tìm ra hướng giải quyết: báo tin cho Kẻ Gác Đêm. Họ là những người duy nhất có thể xử lý triệt để vấn đề này! Song anh không thể đến thẳng đó, làm vậy sẽ bị lộ ngay, rất có thể đây chính là điều đối phương mong muốn...

Theo hướng này, Klein nghĩ ra những phương án thô sơ, giúp ý tưởng dần dần rõ ràng hơn.

Phù! Anh trút một hơi dài, tìm lại chút bình tĩnh, dành sự tập trung cho phong cảnh đang lướt qua vùn vụt bên ngoài cửa sổ.

Mãi đến khi xe ngựa dừng lại ở phố Champagne, mọi thứ vẫn bình yên vô sự. Tuy nhiên, ngay khi vừa xuống xe, cảm giác bất an vì bị theo dõi lại tràn về. Anh giả vờ như không hay biết gì, cầm tờ báo, xách gậy chống, lững thững đi hướng phố Zouteland. Tuy nhiên, anh không rẽ vào con phố đó mà đi vòng sang phố Ánh Trăng Đỏ ở mặt sau, nơi có một quảng trường trắng tuyệt đẹp cùng một nhà thờ lớn với mái nhọn - nhà thờ Thánh Selena, trụ sở chính của Giáo hội Nữ Thần Đêm Đen tại Tingen!

Là một tín đồ, việc đến tham gia thánh lễ và cầu nguyện vào ngày nghỉ chẳng có gì lạ.

Nhà thờ lớn này có phong cách tương tự như phong cách Gothic ở Trái Đất. Toàn bộ công trình mang sắc đen huyền bí. Mặt tiền nổi bật với một tháp chuông cao vút loang lổ dấu vết thời gian, vươn thẳng lên trời xanh. Tháp nằm ngay phía trên hệ thống trụ chống đồ sộ ở trung tâm, xen giữa hai khung cửa sổ kính màu đỏ và xanh lam.

Klein bước vào giáo đường, men theo hành lang tiến về phía đại sảnh cầu nguyện. Trên đường đi, từng tia sáng xuyên qua những ô cửa sổ nhỏ hẹp khảm hoa văn vụn vỡ màu xanh lam và đỏ, làm chúng nhiễm lên những sắc màu khác, khiến xanh đậm gần như đen, đỏ tựa như trăng máu, biến không gian xung quanh trở nên u tối lạ thường.

Cảm giác bị theo dõi biến mất một lần nữa. Klein vẫn ung dung như thường lệ, chậm rãi tiến đến sảnh cầu nguyện rộng mở.

Nơi đây không có những ô cửa sổ cao. Bóng tối sâu thẳm trở thành nhân vật chính. Tuy nhiên, phía sau đài thánh hình vòm, trên bức tường đối diện cửa ra vào là hàng chục lỗ tròn kích cỡ bằng nắm tay thông ra bên ngoài để đón nhận ánh sáng mặt trời chói lọi và tinh khiết. Những lỗ tròn ấy tạo nên các luồng sáng rực rỡ thuần khiết, khiến ta có cảm giác như một lữ khách đi đêm chợt ngước nhìn bầu trời đầy sao và bắt gặp ánh sáng từ muôn vàn tinh tú — thật cao cả, trong sáng và thiêng liêng biết bao.

Dẫu luôn tin rằng thần thánh có thể bị phân tích và lý giải, Klein vẫn không khỏi cúi đầu. Giữa âm thanh giảng đạo nhẹ nhàng và trầm thấp của người giám mục, anh lặng lẽ bước trên con đường giữa hai hàng ghế, tìm một chỗ trống sát lối đi và chậm rãi ngồi xuống.

Gác gậy chống vào lưng ghế trước, Klein tháo mũ, để chung với tờ báo trên đùi. Đoạn, anh đan hai tay vào nhau, chống lên phần trán cúi xuống. Từng cử chỉ đều chậm rãi và có trật tự, giống như người thực sự đến để cầu nguyện.

Klein nhắm mắt, lặng lẽ lắng nghe giọng nói của người giám mục trong bóng tối:

“Bọn họ mình trần không áo mặc, trời lạnh giá mà chẳng có gì che thân.

“Mưa bão làm họ ướt đẫm, họ phải bám vào đá, vì không chỗ trú thân.

“Họ là những đứa trẻ bị cướp mất bầu sữa mẹ, là những trẻ mồ côi đã đánh mất hy vọng, là những kẻ nghèo khổ bị buộc rời khỏi đường ngay.

“Đêm Đen không hề từ bỏ họ, mà vẫn quan tâm tới họ.” (1)

Tiếng vọng trùng trùng điệp điệp rót vào tai anh. Klein yên lặng trải nghiệm cảm giác tâm hồn như được gột rửa cùng màn đêm đen đặc trước mắt cho đến khi người giám mục hoàn thành bài giảng và kết thúc thánh lễ.

Khi giám mục mở cánh cửa tòa giải tội kế bên, các quý ông quý bà lần lượt đứng thành hàng. Klein mở mắt, đội mũ lên đầu rồi cầm lấy cây gậy và tờ báo. Anh đứng dậy, hòa vào hàng người đang xếp hàng một cách trật tự.

Sau hơn hai mươi phút, cuối cùng cũng đến lượt anh. Klein bước vào, duỗi tay đóng cánh cửa sau lưng, khiến tầm mắt lại rơi vào bóng tối.

“Con ta, con muốn nói điều gì?” Tiếng giám mục vang lên từ phía sau vách ngăn bằng gỗ.

Klein lấy trong túi ra huy hiệu của Đội đặc nhiệm số bảy rồi đẩy nó qua khe hở cho người giám mục.

“Có người đang theo dõi con. Con muốn gặp Dunn Smith.” Tựa như bị ảnh hưởng bởi bầu không khí u tối, giọng anh cũng trở nên nhẹ nhàng.

Vị giám mục nhận lấy huy hiệu và cất lời sau vài giây im lặng, “Con hãy dọc theo bên phải tòa giải tội, đi đến cuối đường sẽ thấy một cánh cửa bí mật ở bên cạnh. Bên trong sẽ có người dẫn đường.”

Trong lúc nói chuyện, ông đưa tay kéo một sợi dây thừng trong tòa giải tội để cho một vị linh mục nào đó có thể nghe thấy tiếng chuông ngân.

Klein lấy lại huy hiệu, cởi mũ, áp vào ngực, hơi cúi đầu trước khi xoay người đẩy cửa bước ra ngoài.

Sau khi xác nhận rằng cảm giác bị theo dõi không còn xuất hiện, Klein mới đội mũ chóp đen lên. Với gương mặt không chút biểu cảm, anh chống gậy, quẹo sang bên phải, đi đến đài thánh hình vòm. Khi tìm thấy cánh cửa bí mật ở bức tường bên cạnh, anh lặng lẽ mở cửa bước vào.

Cánh cửa bí mật lẳng lặng khép lại. Trong ánh sáng của chiếc đèn khí, một người đàn ông luống tuổi mặc áo chùng thâm xuất hiện trước mắt Klein.

“Chuyện gì?” Linh mục trung niên hỏi ngắn gọn.

Klein đưa huy hiệu và lặp lại những gì mình đã nói với vị giám mục.

Người linh mục trung niên không hỏi gì nữa. Ông xoay người, lặng im tiến về phía trước.

Klein gật đầu, chỉnh lại mũ, cầm gậy, im lặng theo sau.

Rozanne từng nói rằng, phía bên trái của ngã tư đến Cổng Chains là nhà thờ Thánh Selena.

Cộp, cộp, cộp. Tiếng bước chân vang vọng khắp hành lang chật hẹp tối tăm, truyền tới khoảng yên tĩnh xa xa, không lẫn chút tạp âm nào.

Klein giữ thẳng lưng, bám theo vị linh mục trung niên bằng tốc độ không nhanh không chậm. Anh không đặt câu hỏi, không trò chuyện vu vơ, trầm mặc như mặt hồ lặng gió.

Ngang qua lối đi được canh gác cẩn mật, người linh mục dùng chìa khóa mở một cánh cửa bí mật, chỉ vào cầu thang đá dẫn xuống bên dưới, “Tới ngã tư rẽ trái là đến Cổng Chains.”

“Nguyện Nữ Thần phù hộ cho ngài.” Klein điểm bốn phía trên ngực, vẽ ra hình mặt trăng đỏ thẫm. 

Thế tục dùng nghi lễ thế tục, tôn giáo dùng nghi thức tôn giáo.

“Ngợi ca Nữ Thần.” Người linh mục đáp lại bằng một cử chỉ tương tự.

Klein không nói gì thêm. Anh nương theo ánh đèn khí ga tinh xảo được gắn ở hai bên tường để bước xuống, từng bước tiến vào bóng tối. Nửa chừng, anh vô thức quay đầu, trông thấy vị linh mục trung niên kia vẫn đứng nguyên ở cánh cửa trên đỉnh cầu thang. Ở nơi ánh đèn không thể vươn tới ấy, trông ông chẳng khác nào một bức tượng sáp bất động.

Klein rời mắt, tiếp tục đi xuống. Không lâu sau, anh đặt chân lên mặt đất lát đá lạnh băng, rồi tiến thẳng tới ngã tư.

Anh không rẽ về phía Cổng Chianese, bởi Dunn Smith vừa mới hết ca trực, giờ chắc chắn không còn ở đó nữa.

Men theo con đường quen thuộc bên phải, Klein lại leo lên một cầu thang khác, xuất hiện bên trong Công ty An ninh Blackthorn. Thay vì xông vào những cánh cửa đóng kín hoặc khép hờ một cách thô lỗ, anh bước ra sảnh tiếp tân, trông thấy cô gái tóc nâu có nụ cười ngọt ngào đang mải mê đọc một quyển tạp chí.

“Chào, Rozanne.” Klein đến bên cạnh cô, cố ý gõ nhẹ xuống bàn.

Rầm! Rozanne đột ngột đứng dậy, xô ngã chiếc ghế và bối rối nói, “Chào, hôm nay thời tiết đẹp nhỉ? A... anh... Klein, sao anh lại tới đây?”

Cô vừa vỗ ngực vừa thở hổn hển, tựa như một cô nhóc sợ bị cha bắt gặp khi đang lười biếng.

“Tôi có việc cần tìm đội trưởng.” Klein trả lời vắn tắt.

“... Làm tôi sợ muốn chết, cứ tưởng đội trưởng ra đây chứ.” Rozanne lườm Klein. “Anh không biết gõ cửa à?! Hừ, may mà tôi là một quý cô rộng lượng, nhân từ đấy. À, tôi thích từ thiếu nữ hơn… Anh tìm đội trưởng làm gì vậy? Ông ấy đang ở trong phòng đối diện phòng bà Orianna.“

Dẫu cho tinh thần có chút căng thẳng, Klein vẫn bị Rozanne chọc cười. Anh cân nhắc một chút rồi nói, “Bí mật.”

“… Gì cơ?” Mắt Rozanne trợn to, có vẻ không tin được. Trong lúc đó, Klein đã hơi cúi đầu và nói lời tạm biệt.

Anh quay lại cánh cửa thông với sảnh tiếp tân rồi gõ cửa văn phòng đầu tiên bên tay phải.

“Mời vào.” Giọng nói trầm ấm và điềm đạm của Dunn Smith vang lên.

Klein đẩy cửa bước vào, trở tay khép cửa lại, ngả mũ chào, “Chào buổi sáng, thưa đội trưởng.”

“Chào buổi sáng, có việc gì à?” Chiếc áo khoác đen và mũ được treo trên giá áo gần đó, để lộ cơ thể chỉ mặc áo sơ mi trắng và áo gi-lê đen. Bất chấp đường chân tóc hơi cao cùng đôi mắt xám sâu thẳm, vẻ ngoài như vậy khiến Dunn trông gọn gàng và sáng sủa hơn nhiều.

“Có người đang theo dõi tôi.” Klein thành thật đáp lại, không hề tô vẽ thêm bất kỳ điều gì.

Dunn ngả người vào ghế tựa và đan hai tay với nhau. Đôi mắt xám sâu thẳm bình thản nhìn vào mắt Klein. Ông không tiếp tục chủ đề theo dõi mà hỏi ngược lại, “Cậu đến từ nhà thờ?”

“Vâng.” Klein khẳng định.

Dunn nhẹ nhàng gật đầu, không nói tốt hay xấu, chỉ quay lại đề tài chính, “Có lẽ cha của Welch không tin tưởng báo cáo nguyên nhân tử vong mà chúng ta đưa ra, nên đã thuê một thám tử tư từ thành phố Gió tới điều tra.”

Thành phố Gió là tên khác của thành phố Conston thuộc hạt Gian Hải. Đó là một khu vực có ngành công nghiệp khai thác than và sản xuất thép cực kỳ phát triển, cũng là một trong ba thành phố hàng đầu trong vương quốc Loen.

Không đợi Klein phát biểu ý kiến, Dunn tiếp tục, “Hoặc có thể do ngọn nguồn của cuốn sổ kia. Phải rồi. Chúng tôi đang điều tra xem Welch đã nhận cuốn sổ của gia tộc Antigonus từ đâu. Đương nhiên, không thể loại trừ trường hợp có cá nhân hoặc tổ chức nào đó cũng đang truy tìm cuốn sổ ấy.”

“Tôi nên làm gì?” Klein trầm giọng hỏi. Hiển nhiên, anh hy vọng đây là trường hợp thứ nhất.

Dunn không đáp ngay. Ông bưng cốc cà phê lên uống một ngụm, tròng mắt xám không chút dao động khi bảo, “Trở về theo đường cũ, sau đó làm bất cứ điều gì cậu muốn.”

“Điều gì cũng được?” Klein hỏi ngược lại.

“Bất cứ chuyện gì.” Dunn gật đầu khẳng định. “Miễn là đừng vi phạm pháp luật hay khiến đối phương chạy mất.”

“Được.” Klein hít một hơi thật sâu rồi cất lời tạm biệt. Anh rời khỏi phòng và xuống hầm một lần nữa.

Dưới ánh sáng lờ mờ của những ngọn đèn khí lắp cách quãng ở hai bên, anh rẽ trái ở ngã tư, lặng lẽ bước đi trên hành lang trống trải, u ám và lạnh lẽo.

Bốn phía không một bóng người, âm vang “cộp, cộp” của tiếng bước chân càng làm tăng cảm giác cô liêu và sợ hãi.

Chẳng mấy chốc, Klein đã tới gần cầu thang, leo lên từng bước, gặp lại vị linh mục trung niên đứng trong bóng tối ở cửa ra vào. Hai người nhìn nhau mà chẳng nói một lời. Linh mục trung niên lặng lẽ quay người, nhường đường cho anh.

Klein âm thầm về tới sảnh cầu nguyện. Ánh sáng từ những lỗ tròn sau đài thánh hình vòm vẫn thuần khiết như thế, căn phòng bên trong vẫn tối tăm và yên lặng, hàng người đứng bên ngoài phòng xưng tội vẫn còn đó, chỉ là đã vơi đi rất nhiều.

Anh đợi một lúc, rồi cầm gậy chống và tờ báo, chậm rãi rời khỏi sảnh cầu nguyện và bước ra khỏi nhà thờ Thánh Selena như thể không có chuyện gì xảy ra.

Mới trông thấy ánh mặt trời chói chang, anh lại có cảm giác bị theo dõi quen thuộc, chẳng khác nào con mồi đang nằm trong tầm ngắm của diều hâu.

Đột nhiên, một nghi vấn lóe lên trong đầu anh: Tại sao kẻ theo dõi kia không theo anh vào giáo đường? Tuy rằng nhờ vậy, anh mới có thể dựa vào hoàn cảnh tối tăm cùng sự giúp đỡ từ linh mục để lừa gạt đối phương và biến mất trong một thời gian ngắn. Chỉ là, chuyện giả vờ đến cầu nguyện nhằm tiếp tục giám sát khó lắm sao? Nếu không làm chuyện gì xấu, đàng hoàng đi vào là được mà? Trừ phi đối phương từng có tiền án tiền sự, e sợ giáo hội, e sợ giám mục, biết bên giáo hội có thể có năng lực phi phàm… Như vậy, khả năng kẻ nhìn lén là thám tư tử rất thấp…

Hà! Klein thở ra một hơi, không còn căng thẳng như trước nữa. Anh thong thả cất bước, vòng sang phố Zouteland ngay đằng sau.

Bước chân dừng lại trước một tòa nhà cổ kính với những bức tường loang lổ vết thời gian. Đó là số nhà “3”, có biển hiệu “Câu lạc bộ bắn súng Zouteland”. Nhằm tăng nguồn kinh phí, một phần trường bắn dưới lòng đất của Sở Cảnh sát đã được mở cửa cho những công dân đáp ứng đủ điều kiện về giấy phép sử dụng súng.

Cảm giác bị dòm ngó tức khắc biến mất khi Klein tiến vào trong. Anh tranh thủ đưa huy hiệu Đội đặc nhiệm số bảy cho người phục vụ phụ trách việc tiếp đón. Sau công đoạn xác minh, người phục vụ dẫn anh đến một trường bắn nhỏ khép kín nằm dưới tầng ngầm.

“Mục tiêu mười mét.” Klein dặn dò nhân viên phục vụ, đoạn rút khẩu súng lục ổ xoay từ bao súng dưới nách, rồi bỏ hộp đạn màu đồng để trong túi quần áo ra.

Việc đột nhiên bị ai đó theo dõi đã khiến khát khao tự vệ chiến thắng chứng trì hoãn, làm Klein nóng lòng đến đây luyện tập bắn súng.

Xoạch! Sau khi người phục vụ rời khỏi, anh hất nhẹ ổ xoay, tháo hết các viên đạn săn ma màu bạc ra, rồi cầm lấy những viên đạn thường màu đồng thau, nhét từng viên một vào ổ đạn. Lần này, anh không chừa bất kỳ ô trống nào để phòng trường hợp cướp cò, cũng không cởi lễ phục hay bỏ mũ chóp cao xuống. Anh quyết định luyện tập khi mặc thường phục. Bởi anh đâu thể hét “Đợi chút, để tôi thay bộ khác gọn nhẹ hơn” mỗi khi gặp kẻ địch hay nguy hiểm được.

Cạch! Klein đóng ổ xoay, dùng ngón cái xoay một vòng. Anh bất thình lình nắm chặt khẩu súng bằng cả hai tay, giơ thẳng lên, nhắm vào tấm bia ngắm cách đó mười mét. Thay vì bóp cò ngay, anh cẩn thận hồi tưởng những lần bắn trượt trong khóa huấn luyện quân sự cùng quy tắc cơ bản như “ba điểm một đường thẳng” và độ giật của súng khi khai hỏa.

Giữa tiếng loạt xoạt khi lớp vải cọ xát với nhau, Klein tập đi tập lại động tác ngắm bắn và tư thế cầm súng, nghiêm túc chẳng khác nào một học sinh chuẩn bị bước vào kỳ thi đại học. Sau nhiều lần luyện tập như thế, anh lùi về sát tường, thả người xuống băng ghế dài mềm mại, đặt khẩu súng lục ổ xoay sang một bên, xoa bóp cánh tay và nghỉ ngơi một lúc.

Anh mất vài phút để hồi tưởng quá trình, rồi lại cầm khẩu súng lục có báng bằng gỗ cùng ổ xoay ánh đồng tới vị trí bắn, thực hiện tư thế tiêu chuẩn trước khi siết cò.

Pằng!

Cánh tay anh rung lên, cơ thể hơi ngả ra sau, viên đạn chệch khỏi bia ngắm.

Pằng, pằng, pằng!

Rút kinh nghiệm, anh nã từng phát một, lần mò cảm giác qua thực tiễn cho đến khi bắn hết sáu viên đạn

Bắt đầu trúng mục tiêu rồi… Klein lùi lại, ngồi xuống băng ghế và hít sâu vài hơi.

Xoạch! Anh mở ổ xoay, để sáu vỏ đạn rơi xuống đất, tiếp tục nhét từng viên đạn đồng còn lại vào với nét mặt bất biến.

Vận động nhẹ một lúc cho giãn cơ tay, Klein lại đứng lên, vừa tổng kết kinh nghiệm vừa quay lại vị trí bắn.

Pằng, pằng, pằng! Tiếng súng vang vọng, bia ngắm rung rung. Klein liên tục luyện tập và nghỉ ngơi cho đến khi xài hết ba mươi viên đạn mới được phát và năm viên đạn thừa. Khi đường đạn dần chuẩn xác hơn, anh bắt đầu nhắm vào các vòng tròn gần tâm hơn.

Vung vẩy cánh tay mỏi nhừ, Klein trút năm vỏ đạn cuối cùng ra, cúi đầu xuống, lắp những viên đạn săn ma màu bạc có hoa văn phức tạp vào ổ, đồng thời chừa ra một vị trí chống cướp cò.

Anh nhét khẩu súng quay vào bao da dưới nách, phủi phủi lớp bụi thuốc súng trên người, nhẹ nhàng rảo bước ra khỏi sân tập bắn riêng và quay về phố.

Cảm giác bị dòm ngó một lần nữa thoáng hiện, song lòng Klein đã bình tĩnh hơn trước rất nhiều.

Thủng thẳng đi đến phố Champagne, anh chi 4 Penny đi xe ngựa có ray về phố Chữ Thập Sắt và trở về căn hộ của mình.

Khi cảm giác bị dòm ngó kia lặng lẽ biến mất, Klein móc chìa khóa ra mở cửa. Bước vào trong, anh nhìn thấy một người đàn ông gần ba mươi tuổi với mái tóc cắt ngắn, mặc áo sơ mi vải lanh đang ngồi trước bàn học.

Lòng Klein thắt lại rồi lập tức thả lỏng. Anh mỉm cười chào, “Chào buổi sáng, à không, chào buổi trưa, Benson.”

Người đàn ông này chính là anh trai của Klein và Melissa — Benson Moretti. Năm nay Benson mới hai nhăm, nhưng cái trán hói khiến anh trông già hơn tuổi thật khá nhiều, tưởng như đã ba mươi vậy. Anh cũng có mái tóc đen, mắt nâu, nét mặt khá giống Klein nhưng lại không có phong thái trí thức.

“Chào buổi trưa, Klein, phỏng vấn sao rồi?” Benson đứng dậy, nét cười thoáng hiện nơi khóe môi.

Chiếc áo khoác đen và mũ chóp nửa cao của Benson đều được treo trên phần lồi ra của chiếc giường tầng.

“Cực kỳ tệ.” Klein đáp lại với khuôn mặt vô cảm.

Thấy Benson sửng sốt, Klein cười khúc khích và nói tiếp, “Thực tế thì em hoàn toàn không tham gia buổi phỏng vấn chút nào. Bởi em đã tìm được việc rồi. Lương tuần 3 Bảng…”

Anh lặp lại những lời mình đã nói với Melissa.

Nét mặt Benson dịu đi. Anh lắc đầu cười, “Cảm giác như nhìn đứa con của mình lớn lên vậy... Ừm, công việc này cũng khá đấy." Anh thở nhẹ một hơi. "Sau bao ngày bôn ba mà nghe được tin tốt như vậy, quả là không tệ chút nào. Tối nay chúng ta phải ăn mừng mới được, mua ít thịt bò nhé?”

Klein cười đáp, “Được chứ, mà em chỉ sợ Melissa tiếc tiền thôi. Chiều anh cùng đi mua đồ ăn với em nhé? Cần ít nhất 3 Saule nhỉ? Thú thực, hệ thống tiền tệ 1 Bảng đổi 20 Saule, 1 Saule đổi 12 Penny, còn 1/2 Penny và 1/4 Penny này quả là phi logic, quá phiền phức. Em nghĩ nó nhất định là một trong những hệ thống tiền tệ ngu xuẩn nhất thế giới.”

Klein dứt lời thì thấy vẻ mặt Benson đanh lại, trong lòng lập tức có chút bất an, hoài nghi mình đã nói sai điều gì.

Phải chăng trong những mảnh ký ức đã mất của nguyên chủ, Benson là một người ủng hộ vương quốc thuần túy, cực đoan đến mức không thể chấp nhận bất kỳ lời phê phán nào?

Benson tiến lên vài bước, nghiêm túc phản bác, “Không phải là một trong, mà là duy nhất mới đúng.”

Duy nhất… Klein ngẩn người, nhanh chóng phản ứng lại. Anh nhìn Benson. Cả hai cùng phá lên cười.

Benson thực sự rất am hiểu trò trào phúng hài hước.

Benson nhếch miệng, nghiêm nghị bảo, “Em nên hiểu rằng, để đặt ra một hệ thống tiền tệ hợp lý và đơn giản thì cần có một điều kiện tiên quyết, đó là phải biết cách đếm và nắm vững hệ thập phân. Tiếc thay, trong số các ông nghị tai to mặt lớn kia, lại chẳng có mấy người sở hữu tài năng đó.”

Chua cay thật đấy… Klein bật cười. Bằng kinh nghiệm phong phú trong cuộc sống cũ, anh góp thêm một câu chê bai, “Trên thực tế thì không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy các vị ấy có não cả.”

“Hay! Hay lắm!” Benson bật cười và giơ ngón cái lên. “Klein, em hài hước hơn nhiều so với trước đây rồi đấy!”

Anh hít sâu một hơi rồi nói tiếp, “Chiều nay anh còn phải đến bến cảng. Ngày mai mới được nghỉ, đến lúc đó… chúng ta sẽ cùng nhau đến Công ty Cải thiện Nhà ở thành phố Tingen xem bọn họ có căn liền kề cho thuê nào vừa tốt vừa rẻ không. Ngoài ra còn phải đến thăm ông Franky nữa.”

“Ông chủ nhà?” Klein thắc mắc hỏi lại. Chẳng lẽ ông Franky còn sở hữu những căn nhà liền kề có vị trí tốt trong khu phố sao?

Benson liếc nhìn em trai mình, cười bảo, “Đừng bảo là em quên rằng chúng ta đã ký hợp đồng thuê nhà một năm nhé? Đến giờ mới được sáu tháng thôi.”

“A…” Klein chợt rùng mình. Anh hoàn toàn quên khuấy chuyện này!

Mặc dù tiền thuê được trả theo tuần, nhưng thời hạn hợp đồng lại kéo dài đến một năm. Giờ mà chuyển đi sẽ bị coi là vi phạm. Nếu bị kiện ra tòa thì sẽ phải bồi thường một khoản tiền lớn!

“Coi bộ em vẫn còn thiếu nhiều kinh nghiệm xã hội lắm.” Benson sờ sờ phần hói ở trước đầu, thở dài nói. “Trước đây anh đã phải cố lắm mới giành lấy được điều khoản ấy, bằng không ông Franky chỉ định ký ba tháng một thôi. Đối với người giàu, các chủ nhà thường sẵn lòng cho thuê một năm, hai năm, thậm chí ba năm cho ổn định. Song với chúng ta… Với chúng ta ngày xưa và hàng xóm xung quanh mà nói, đám chủ nhà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ người thuê gặp chuyện bất trắc, không trả nổi tiền thuê, nên chỉ muốn ký hợp đồng ngắn hạn.”

“Như thế thì họ mới có thể tăng giá tùy theo tình hình.” Klein tiếp lời, dựa trên những mảnh vỡ ký ức của nguyên chủ và kinh nghiệm đi thuê phòng của bản thân.

Benson thở dài, “Đây chính là bộ mặt thật tàn nhẫn của xã hội bây giờ. Được rồi, em đừng lo, chuyện hợp đồng dễ giải quyết mà. Thực ra, chúng ta chỉ cần khất nợ tiền thuê nhà một tuần là ông Franky sẽ lập tức đá chúng ta ra ngoài, tiện thể giữ lại những gì có giá trị ngay. Xét cho cùng thì trí thông minh của ông ta còn không bằng một con khỉ đầu chó lông xoăn, không cách nào xử lý những chuyện quá phức tạp.”

Nghe câu này, Klein đột nhiên nhớ đến câu châm ngôn của Sir Humphrey nào đó, bèn nghiêm túc lắc đầu, “Không, Benson, anh sai rồi.”

“Hả?” Benson bối rối hỏi lại.

“Trí thông minh của ông Franky vẫn cao hơn khỉ đầu chó lông xoăn một chút.” Klein với vẻ mặt nghiêm nghị tuyên bố. Khi thấy Benson nở nụ cười hiểu ý, anh liền bồi thêm một câu. “Nếu ông ta ở trong trạng thái tốt.”

“Ha ha.” Benson không nén nổi tiếng cười.

Cười xong, Benson chỉ vào Klein, nhưng tạm thời không tìm được từ nào để nói, đành phải quay lại chủ đề chính, “Đương nhiên, là quý ông, chúng ta không nên dùng những biện pháp vô liêm sỉ như vậy. Ngày mai chúng ta sẽ đến gặp trực tiếp ông Franky để bàn bạc. Cứ tin anh, ông ta dễ bị thuyết phục lắm.”

Về điều này thì Klein hoàn toàn tin tưởng. Sự tồn tại của ống dẫn khí ga chính là minh chứng rõ ràng nhất.

Hai anh em tán gẫu một hồi, rồi cho ít thịt cá rán còn lại từ tối qua vào nồi hầm rau củ và dùng hơi nước nghi ngút làm mềm bánh mì lúa mạch đen. Sau khi phết chút bơ lên bánh mì, Klein và Benson đánh chén một bữa ăn giản dị. Tuy vậy, họ vẫn cảm thấy vô cùng thỏa mãn. Bởi hương sữa và vị ngọt thường đọng lại rất lâu trên đầu lưỡi.

Chờ Benson rời khỏi nhà, Klein mới mang theo ba tờ 3 Saule và mấy đồng Penny đến chợ Rau và Thịt. Anh mua một pound thịt bò với giá 6 Penny, một con cá Tasok lớn chắc thịt và ít xương giá 7 Penny. Ngoài ra, anh còn mua thêm các nguyên liệu như khoai tây, đậu ngọt, củ cải trắng, đại hoàng, rau diếp, củ cải đường cùng các loại gia vị như hương thảo, húng quế, thì là và dầu ăn.

Suốt quá trình ấy, Klein vẫn cảm nhận được ai đó đang âm thầm quan sát mình, nhưng đối phương vẫn chưa thực sự tiếp cận anh.

Klein nán lại một lúc ở tiệm bánh mì Sling trước khi quay về nhà và bắt đầu luyện cơ tay bằng những vật nặng như chồng sách. Anh vốn định tập thêm mấy động tác quyền thuật của quân đội để rèn thân thể, nhưng lại chẳng có ký ức nào về động tác thể dục theo đài chứ đừng nói đến những thứ chỉ được tiếp xúc khi tham gia huấn luyện quân sự. Bất đắc dĩ, Klein đành sử dụng phương pháp tập luyện đơn giản nhất có thể.

Anh không ép bản thân vận động quá sức. Điều đó sẽ khiến cơ thể trở nên mệt mỏi, kéo theo nguy hiểm gia tăng. Khi đạt tới giới hạn, anh dừng lại, tranh thủ đọc giáo trình và ghi chép của nguyên chủ nhằm ôn lại mớ kiến thức liên quan tới Kỷ Thứ Tư.

Đến chập tối, Benson và Melissa ngồi ngay ngắn trước bàn như những đứa trẻ cuối cấp tiểu học, mắt dán chặt vào thức ăn bày biện trên bàn.

Hương thơm từ các món ăn hòa quyện tạo nên một khúc nhạc dạo đầy quyến rũ. Từ mùi thịt bò hầm nồng nàn lan tỏa trong không khí, mùi khoai tây nghiền vừa đậm đà vừa dai dẳng đầy kích thích, đến mùi súp đậu ngọt nấu đặc béo ngậy, mùi đại hoàng hầm hài hòa và thanh tao cùng hương bơ thanh ngọt vờn quanh bánh mì lúa mạch đen.

Benson nuốt nước miếng, ngoảnh đầu nhìn Klein lúc này đang gắp miếng cá chiên giòn vàng ruộm ra đĩa. Mùi thơm ấy men theo sống mũi, len thẳng vào cổ họng, dọc xuống thực quản rồi chui tọt dạ dày.

Ùng ục! Bụng anh kêu lên một tiếng rõ to.

Klein xắn ống tay áo sơ mi lên cao, bưng đĩa cá chiên đặt vào giữa bàn học đã được dọn dẹp sạch sẽ. Tiếp theo, anh xoay người lấy hai cốc bia gừng to để trong tủ bát, đặt xuống trước mặt Benson và chỗ mình ngồi.

Anh cười với Melissa và biến ra một chiếc bánh flan chanh như một nhà ảo thuật, “Bọn anh có bia, em có cái này.”

“Cảm ơn anh.” Melissa nhận bánh, nhỏ nhẹ nói.

Thấy thế, Benson nâng cốc lên, mỉm cười bảo, “Nào, chúc mừng Klein đã tìm được một công việc tốt.”

Klein cũng giơ cốc cụng nhẹ với Benson và đĩa bánh flan chanh của Melissa, “Ca ngợi Nữ Thần!”

Ùng ục. Anh ngửa đầu nốc một ngụm. Vị cay nồng như muốn đốt cháy thực quản mang đến một dư vị tuyệt vời. Bia gừng, tên đầy đủ là bia nước gừng, thực chất lại không chứa chút cồn nào. Nó là hỗn hợp pha trộn giữa nước ép gừng cay và nước chanh chua, tạo ra cảm giác như đang uống bia thật. Đây là loại thức uống mà ngay cả phụ nữ hay trẻ em cũng uống được. Có điều, Melissa không thích hương vị ấy cho lắm.

“Ca ngợi Nữ Thần!” Benson cũng uống một chút bia. Melissa cắn một miếng bánh hấp chanh nhỏ, nhấm nuốt một lát nhưng không nỡ nuốt xuống.

“Hai người ăn thử xem.” Klein đặt cốc xuống, cầm thìa và dĩa, chỉ vào thức ăn bày đầy trên bàn.

Trong số các món ở đây, món làm anh không tự tin nhất là súp đậu ngọt — thứ lạ lùng mà anh chưa bao giờ ăn khi còn ở Trái Đất. Anh chỉ có thể tái tạo nó dựa theo những mảnh vỡ ký ức của nguyên chủ.

Thân là anh cả, Benson không hề khách sáo, múc luôn một thìa khoai tây nghiền nhét vào miệng. Khoai tây được ninh nhừ và nghiền nhuyễn, hòa quyện với vị mỡ lợn nhẹ nhàng và vị mặn vừa phải, khiến nước miếng anh tiết ra điên cuồng, kích thích vị giác

“Không… tồi… Không tồi.” Benson vừa nhồm nhoàm nhai vừa mở lời khen ngợi, “Ngon hơn món mà anh từng ăn ở công ty rất nhiều, lần đó có bơ.”

“Đây có thể coi là món sở trường của em…” Klein thoái mái đón nhận lời khen, “Tất cả là nhờ công chỉ bảo của ông đầu bếp nhà Welch.”

Melissa thì nhìn bát canh thịt bò. Lá húng quế xanh đậm, rau diếp tươi xanh lơ cùng những miếng củ cải màu trắng như ẩn như hiện giữa bát canh trong, miếng thịt bò đã hầm nhừ lấp ló bên dưới. Màu sắc của bát canh không chỉ tươi mát mà còn tỏa ra mùi thơm nức mũi. Em xiên một miếng, bỏ vào miệng nhai kỹ. Thịt mềm song vẫn giữ được một chút độ dai vừa phải. Vị muối nhẹ và vị ngọt thanh từ củ cải trắng, hương vị hơi nồng của húng quế càng tôn lên hương vị của miếng thịt bò.

“Ưm…” Melissa lẩm bẩm như muốn khen ngợi điều gì đó nhưng lại không thể ngừng miệng.

Klein nếm thử một miếng. Dù khá ngon nhưng anh không khỏi cảm thấy tiếc nuối. So với tiêu chuẩn tốt nhất của mình, món này vẫn còn kém một bậc. Vì nơi này thiếu một số gia vị, chỉ có thể dùng những thứ khác thay thế, nên hương vị có chút kỳ lạ. Tất nhiên, ngay cả những món tốt nhất anh có thể nấu cũng chỉ ở mức tạm được. Đột nhiên, anh cảm thấy xót xa cho Benson và Melissa vì họ chưa có cơ hội được trải nghiệm nhiều.

Nuốt miếng thịt bò xuống bụng, Klein tiếp tục gắp một miếng cá Tasok chiên giòn rắc thì là và hương thảo. Ngoài giòn, trong mềm. Vàng ruộm, thơm ngon. Vị mặn phối hợp nhịp nhàng với vị dầu chiên.

Khẽ gật đầu, Klein thử một miếng đại hoàng hầm, cảm thấy món này cũng tạm, có thể giúp giảm ngấy cho thịt.

Cuối cùng, anh lấy hết can đảm để múc một thìa súp đậu ngọt. Quá ngọt, quá chua… Klein không khỏi nhíu mày.

Thấy vẻ hài lòng của Benson và Melissa sau khi nếm thử làm Klein có chút hoài nghi vị giác của bản thân. Anh vội vã uống thêm ít bia gừng để rửa lưỡi.

Bữa này, ba anh em đều ăn no căng, mãi không thể nhấc người khỏi ghế.

“Chúng ta hãy cùng ca ngợi Nữ Thần một lần nữa!” Benson nâng cốc bia chỉ còn một ngụm cuối lên, giọng đầy mãn nguyện.

“Ca ngợi Nữ Thần!” Klein uống cạn hớp cuối cùng.

“Ca ngợi Nữ Thần.” Melissa bỏ miếng bánh flan chanh còn sót lại vào miệng rồi cẩn thận nhấm nháp.

Klein thấy thế bèn nương cảm giác ngà ngà say để cười bảo, “Melissa à, em cứ vậy thì không tốt đâu. Món ngon nhất, thích nhất là phải ăn ngay từ đầu. Như vậy mới có thể thưởng thức được trọn vẹn hương vị tuyệt hảo của nó. Đến khi em no rồi, không còn muốn ăn nữa mà vẫn cố thì sẽ thấy nó hết ngon đấy.”

“Không.” Melissa đáp lại bằng giọng kiên quyết pha chút bướng bỉnh. “Nó vẫn ngon.”

Ba anh em vừa cười đùa vừa nghỉ ngơi tiêu thực, rồi cùng nhau dọn dẹp bàn ăn, dao nĩa và đổ dầu chiên cá vào bình cũ.

Sau khi dọn dẹp xong xuôi, một người ôn bài, một người tự nghiên cứu kiến thức kế toán, một người tiếp tục lật xem giáo trình và sổ ghi chép, cùng trải qua một quãng thời gian trọn vẹn đầy thỏa mãn.

Đến mười một giờ đêm, ba anh em nhà Klein tắt đèn khí đốt, chia nhau đi tắm rồi đi ngủ.

Trong màn đêm tối tăm mịt mờ, tâm thức chìm trong cảm giác u mê lú lẫn, Klein bất thình lình trông thấy Dunn Smith mặc áo khoác màu đen dài đến đầu gối, đầu mang một mũ chóp nửa cao.

“Đội trưởng!” Klein lập tức tỉnh táo, biết rõ mình đang ở trong mộng.

Dunn có đôi mắt xám không chút gợn sóng cất giọng bình thản, “Có người đã lẻn vào phòng cậu. Hãy cầm súng, ép hắn chạy ra hành lang. Chúng tôi sẽ lo nốt phần còn lại.”

Có người lẻn vào phòng mình? Kẻ theo dõi cuối cùng đã ra tay? Klein giật mình, không dám hỏi nhiều, chỉ gật đầu đáp, “Vâng!”

Cảnh tượng trước mắt anh thay đổi trong tức khắc. Những màu sắc rối loạn hiện ra rồi lần lượt vỡ tan như bọt biển.

Klein mở mắt, cẩn thận nghiêng đầu nhìn về phía cửa sổ, trông thấy một bóng lưng gầy gò và xa lạ đang đứng trước bàn học, lặng lẽ tìm kiếm thứ gì đó.

Thình thịch! Thình thịch! Thình thịch! Trái tim Klein bắt đầu đập dữ dội. Nó thắt lại thành một cục rồi đột ngột đập mạnh, khiến cả người anh cũng run rẩy theo. Trong tích tắc, anh gần như quên mất mình phải làm gì, nên làm gì. Tình trạng ấy kéo dài cho đến khi bóng dáng kẻ đột nhập đột ngột dừng lại, hơi nghiêng tai, như thể vừa nghe thấy điều gì đó khác thường.

Máu từ não dồn xuống đã giúp Klein giành lại khả năng tư duy cơ bản. Anh đưa tay mò xuống gối, cầm lấy báng súng bằng gỗ của khẩu súng lục ổ xoay. Cảm giác cứng cáp và trơn láng của khẩu súng truyền đến tay anh. Klein lấy lại bình tĩnh gần như ngay lập tức. Bằng những động tác nhẹ nhàng không một tiếng động, anh rút khẩu súng lục ra, nhắm thẳng vào đầu kẻ đột nhập.

Thành thật mà nói, anh không chắc mình có thể bắn trúng đối phương hay không. Ngay cả khi anh đã quen với việc bắn bia thì một người đang di chuyển và một mục tiêu cố định vẫn là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Klein còn chưa tự đại đến mức coi cả hai là một. Anh chợt nhớ mang máng đến một câu nói từ kiếp trước. Đại ý là uy lực lớn nhất của bom hạt nhân chỉ tồn tại vào khoảnh khắc trước khi nó được phóng đi. Quy tắc đó cũng áp dụng được cho tình huống này - sức mạnh đe dọa lớn nhất của viên đạn luôn nằm ở thời điểm nó còn trong nòng súng. Miễn là không bóp cò hay bắn mù quáng, đối phương sẽ không nhận ra mình chỉ là tân binh. Hắn sẽ lo lắng, bị sợ hãi chi phối và phải cân nhắc đủ điều, để rồi tự mua dây buộc mình!

Trong chớp mắt, hết ý tưởng này đến ý tưởng khác lóe lên trong đầu Klein. Anh lập tức đưa ra quyết định. Klein không phải loại người có thể thản nhiên đối mặt với hiểm nguy. Sự bình tĩnh này đến từ việc anh đã mường tưởng trước cảnh chạm trán kẻ theo dõi và quyết định dùng biện pháp đe dọa thay vì tấn công.

Dù sao thì ‘Đất Nước Ăn Hàng’ cũng có câu thành ngữ là: Lo trước khỏi họa!

Khi họng súng nhằm vào kẻ đột nhập, người đàn ông gầy gò bỗng khựng lại như thể cảm nhận được điều gì đó. Ngay sau đó, gã nghe thấy một giọng nói xen lẫn âm cười, “Này anh bạn, chào buổi tối.”

Người đàn ông gầy gò khẽ nắm chặt hai tay. Cơ thể gã dường như căng cứng. Klein ngồi ở giường tầng dưới, chĩa súng thẳng vào đầu gã, cố giữ giọng nhẹ nhàng và tự nhiên, “Mời anh đây giơ hai tay lên, xoay người lại cho, cố gắng làm chậm chậm thôi. Thú thật, tôi là một kẻ nhát gan, rất dễ khẩn trương. Nếu anh mà làm nhanh quá, tôi sẽ bị giật mình mất. Lúc đó thì tôi khó lòng đảm bảo rằng súng sẽ không bị cướp cò đâu. Đúng rồi, như vậy đấy!”

Người đàn ông gầy gò nâng hai tay lên ngang đầu, chậm rãi quay người lại. Điều đầu tiên đập vào mắt Klein là bộ đồ đen bó sát với những chiếc cúc được cài cẩn thận, sau đó là hai hàng lông mày rậm sắc bén màu nâu vàng. Klein không tìm thấy dấu vết sợ hãi nào trong đôi mắt xanh thẳm của đối phương. Ngược lại, anh có cảm giác như mình đang ở trong tầm mắt của một con thú dữ. Như thể anh chỉ cần lơ đãng một giây thôi là nó sẽ lao tới và xé xác anh thành từng mảnh.

Anh siết chặt cán súng, cố gắng hết sức để giữ vẻ mặt bình thản và thờ ơ.

Chờ đến khi người đàn ông gầy gò hoàn toàn đối diện với mình, anh hơi hất cằm ra hiệu về phía cửa và cất giọng từ tốn, “Mời anh ra ngoài nói chuyện nào. Chúng ta không nên quấy nhiễu giấc mộng đẹp của người khác. Ừm, động tác chậm một chút, bước chân khẽ khàng thôi. Đây là phép lịch sự cơ bản nhất của một quý ông…”

Đôi mắt lạnh lùng của người đàn ông gầy gò đảo quanh. Gã liếc nhìn Klein trong khi giơ hai tay ngang người và từng bước tiến về phía cửa. Trong tầm ngắm bắn của khẩu súng ổ xoay, gã vặn tay nắm, chậm rãi mở cửa. Ngay khi cánh cửa hé mở được nửa chừng, gã bất ngờ ngồi thụp xuống và lăn người về phía trước. Cánh cửa như bị kéo lại bởi một cơn gió mạnh. Nó đóng lại kèm theo một tiếng 'sầm' vang dội.

“Ưm…” Benson nằm ở giường tầng trên bị tiếng động lớn đánh thức, có vẻ mơ màng sắp tỉnh.

Ngay lúc đó, một âm điệu du dương và thanh bình từ bên ngoài vọng vào căn phòng. Kèm theo là giọng ca trầm ấm, nhẹ nhàng:

“Ôi. Đe doạ đầy kinh sợ. Ước mong hừng sắc đỏ!

Vẫn có một sự thật: Đời trôi qua rất nhanh.

Ôi sự thật duy nhất, còn lại toàn dối trá,

Sau một lần hoa nở, xin vĩnh biệt đời này…” (2)

Dường như bài thơ này sở hữu sức mạnh trấn an lòng người. Benson ngủ ở giường trên và Melissa ở phòng trong đều mơ màng thiếp đi.

Thân tâm Klein cũng trở nên tĩnh lặng. Anh còn suýt ngáp một cái.

Động tác vừa rồi của người đàn ông gầy gò thực sự rất nhanh, đến mức anh không kịp phản ứng.

Nhìn cánh cửa đóng chặt, anh mỉm cười và tự nhủ, “Nói ra chắc anh không tin, thực ra khẩu súng này không hề có đạn.”

Súng không đạn để phòng trường hợp bắn nhầm đó!

Tiếp theo, Klein lắng nghe bài thơ lúc nửa đêm và kiên nhẫn đợi trận chiến bên ngoài kết thúc. Không quá một phút đồng hồ, giai điệu an bình như mặt hồ dưới trăng đã chấm dứt, đêm đen lấy lại sự tĩnh lặng sâu thẳm nhất của mình.

Klein lặng lẽ trượt ổ xoay, di chuyển vị trí đạn trống trong lúc chờ đợi kết quả.

Sự chờ đợi ấy kéo dài suốt mười phút. Trong lúc anh đang lo lắng bất an và phân vân không biết có nên ra ngoài xem xét tình hình hay không thì giọng nói trầm ổn và ôn hòa của Dunn Smith vọng vào từ ngoài cửa, “Đã giải quyết.”

Phù. Klein thở phào nhẹ nhõm, cầm lấy khẩu súng lục và chìa khóa. Anh đi chân trần, rón rén mở cửa mà không gây ra tiếng động nào. Bên ngoài, anh thấy Dunn Smith đang đứng đối diện mình. Ông ta mặc chiếc áo gió đen dài đến đầu gối, đội mũ chóp nửa cao và có đôi mắt xám sâu thẳm.

Anh trở tay đóng cửa lại, đi theo Dunn đến cuối hàng lang, đứng dưới ánh trăng đỏ thẫm mờ ảo.

“Mất chút thời gian để tiến vào giấc mơ của gã.” Dunn bình tĩnh nói khi nhìn mặt trăng đỏ bên ngoài cửa sổ.

“Ông biết lai lịch của gã chưa?” Klein cảm thấy thư thái hơn nhiều.

Dunn hơi gật đầu và nói, “Gã đến từ một tổ chức cổ xưa có tên là Hội Mật Tu, được thành lập vào Kỷ thứ Tư, có liên quan đến đế quốc Solomon cùng một bộ phận quý tộc sa đọa thời ấy. Hừm, cuốn sổ tay của gia tộc Antigonus đến từ chúng. Do sơ suất của một thành viên, cuốn sổ đã lọt vào thị trường đồ cổ và rơi vào tay Welch, khiến chúng buộc phải cử người đi khắp nơi để tìm kiếm.”

Dunn dừng lại một thoáng. Trước khi Klein kịp đặt câu hỏi, ông đã nói tiếp, “Chúng tôi sẽ dựa vào manh mối để lùng bắt một số thành viên của chúng. Kết quả chưa chắc đã khả quan. Đám này trốn giỏi như lũ chuột cống vậy. Nhưng ít ra, chúng sẽ biết rằng chúng tôi có thể đã tìm được hoặc nắm được manh mối quan trọng về cuốn sổ của gia tộc Antigonus. Trừ phi đây là một món đồ cực kỳ quan trọng và thiết yếu, còn không thì chúng sẽ hoàn toàn từ bỏ hành động này. Đó là triết lý sinh tồn của chúng.”

“…Nếu cuốn sổ tay đó thực sự quan trọng và thiết yếu thì sao?” Klein lo lắng hỏi.

Dunn Smith chỉ cười chứ không đáp. Ông chuyển sang chủ đề khác, “Chúng tôi có rất ít thông tin về Hội Mật Tu. Lần này có thể thành công là nhờ sự nhanh trí của cậu. Đây là công lao thuộc về cậu. Xét đến những nguy hiểm tiềm ẩn có thể xảy ra cũng như việc cậu có thể hỗ trợ tìm kiếm cuốn sổ khi linh cảm được đề cao, cậu sẽ có cơ hội được chọn lựa.”

“Cơ hội chọn lựa?” Klein mơ hồ đoán được điều gì đó, hô hấp bất giác trở nên nặng nề.

Nụ cười trên mặt Dunn vụt tắt. Ông nói bằng giọng trang nghiêm, “Cậu có muốn trở thành một Kẻ Phi Phàm không? Chỉ có thể chọn khởi đầu từ các Danh Sách không hoàn chỉnh.”

“Đương nhiên, cậu cũng có thể từ bỏ cơ hội này và chọn cách tích góp công lao cho đến khi đủ điều kiện trở thành 'Người Không Ngủ', chính là cấp đầu tiên mà Nữ thần ban cho các thủ vệ bóng đêm, khởi đầu của Danh Sách hoàn chỉnh mà giáo hội nắm giữ.” Dunn bổ sung.

Quả nhiên… Klein mừng thầm. Anh giấu sự do dự và chủ động hỏi, “Tôi có thể chọn từ những Danh Sách 9 nào?”

Phải có thông tin chi tiết hơn thì anh mới có thể quyết định lấy hay bỏ, cũng như chọn cái nào!

Dunn xoay người lại, trông như thể khoác trên mình một tấm lụa được dệt từ ánh trăng đỏ thẫm. Ông nhìn thẳng vào mắt Klein và chậm rãi nói, “Ngoài ‘Người Không Ngủ’, giáo hội còn có ba phương pháp phối chế Ma Dược của Danh Sách 9. Một loại tên là ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Mật’, cũng chính là Danh Sách của già Neil. Hừm, Rozanne hẳn đã nói với cậu rồi. Nhóc ấy chẳng bao giờ biết giữ mồm giữ miệng cả.”

Klein cười trừ. May mà Dunn không thèm để ý. Ông tiếp tục, “Chúng tôi đã đạt được công thức Ma Dược ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Mật’ và một số công thức rời rạc khác từ Hội Khổ Tu Morse. Nghe nói vào thời điểm đó, họ còn chưa sa đọa, vẫn giữ vững giới hạn đạo đức và tuân thủ giới luật, luôn kiên trì theo đuổi tri thức và bảo vệ bí mật một cách nghiêm ngặt. Tất cả những người tham gia Hội sau khi trở thành ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Mật’ đều bị cấm nói trong năm năm, học cách im lặng để tu luyện và nâng cao sự tập trung. Câu châm ngôn “Làm gì thì làm nhưng chớ tổn thương ai” xuất phát từ họ.”

“ ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Mật’ có kiến thức cơ bản nhưng bao quát trong nhiều lĩnh vực thần bí như ma pháp, thuật phù thủy và thuật chiêm tinh. Họ thông thạo nhiều nghi lễ ma thuật và dễ dàng cảm nhận được sự hiện diện của một số tồn tại bí ẩn nấp sau vạn vật. Vì thế họ luôn giữ thái độ hết sức thận trọng và lòng kính sợ với sức mạnh phi phàm. Chúng ta thiếu hầu hết các công thức của Danh Sách này. Chẳng hạn như Danh Sách 8. Điều đó khiến thông tin trở nên rời rạc và không thể ghép lại thành một chuỗi hoàn chỉnh. Tất nhiên, cũng có khả năng Thánh Đường có đủ.”

Điều này gần như đáp ứng mọi yêu cầu của anh… Klein khẽ gật đầu, có xúc động muốn chọn ngay lập tức.

May thay, anh còn nhớ những cái khác, “Hai loại còn lại thì sao?”

“Loại thứ hai gọi là ‘Người Nhặt Xác’. Không ít tín đồ tà giáo sùng bái Tử Thần ở Lục địa Nam chọn Con Đường này. Người uống Ma Dược này sẽ được các vong linh vô tri nhận lầm là đồng loại nên không bị chúng tấn công. Họ có khả năng chống chịu sự ăn mòn của giá rét, mục ruỗng và tử khí. Không chỉ có vậy, họ có thể trực tiếp nhìn thấy một số ác linh, nắm bắt được đặc điểm và điểm yếu của nhiều sinh vật bất tử. Ngoài ra thì thể chất cũng được cải thiện đáng kể. Chúng tôi có Danh Sách 8 và Danh Sách 7. Chắc cậu cũng đoán ra Danh Sách 7 là gì rồi nhỉ? Phải, đó chính là ‘Người Thông Linh’! Đây chính là lựa chọn ban đầu của Daly.” Dunn miêu tả khá chi tiết.

“Người Thông Linh” có vẻ vừa ngầu vừa bí ẩn. Nhưng tôi muốn nắm giữ kiến thức thần bí hơn… Klein không chen ngang, chỉ im lặng lắng nghe.

Dunn Smith nghiêng đầu nhìn ánh trăng đỏ thẫm và nói, “Về loại thứ ba thì chúng ta chỉ có một Danh Sách 9. Tôi không biết Thánh Đường có cất giữ những phần khác hay không. Nó được gọi là ‘Nhà Bói Toán’.”

Nhà Bói Toán? Đồng tử Klein co lại. Anh nghĩ đến những lời tiếc nuối mà Roselle Đại Đế để lại trong nhật ký.

— Hối hận vì lúc trước không chọn “Người Học Việc”, “Ăn Trộm” hoặc “Nhà Bói Toán”!

#Chú thích:

1- Được cải biên từ đoạn trích trong chương 24 - "Sách của Gióp" thuộc bộ Kinh Thánh Cựu Ước.

2- Được cải biên từ đoạn thơ trích trong bản dịch "Rubaiyat of Omar Khayyam" của nhà thơ, nhà văn người Anh Edward FitzGerald.

Bình luận (13)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

13 Bình luận

TRANS
AI MASTER
Đoạn 276: Hai anh em tán gẫu một hồi, rồi cho ít thị cá rán còn lại từ hôm qua vào nồi hầm rau củ và dùng hơi nước nghi ngút làm mềm bánh mì lúa mạch đen.
thị cá > thịt cá
Xem thêm
Thank trans
Xem thêm
Lão mực có vẻ thích trăng nhỉ? Sau này kbt main có đc nhận ma dược liên quan đến trăng giống Lucien k nhỉ
Xem thêm
Ko dc ma dược con đường mặt trăng
Nhưng dc mang thai con của "Mẫu thân vĩ đại" (mặt trăng đỏ, đọc COI để bt thêm):)))
Xem thêm
@Wrath.: wtf mang thai...?
Xem thêm
TRANS
Giờ đọc lại mới để ý:
Trong tôn danh của Đêm tối có dòng "xa xưa hơn cả vĩnh hằng". Công nhận lão tác ghê thật, hint từ tận đây luôn 😳
Xem thêm
Đầu tôi nảy số cái cục này nó giống như tổ chức SCP ở một vũ trụ khác vậy
Xem thêm
Các vật phẩm nguy hiểm kiểu này khá giống với bọn SCP nhỉ
..AMEN..
Xem thêm
Chỉ là ở đây chúng nó k có cấp độ không thể quản thúc thôi
Xem thêm
Hay quá
Xem thêm