Translator: Kouji
✫ ✫ ✫
Nhìn Klein, Leonard mắt xanh mỉm cười gật đầu: “Vậy thì anh cần họ cung cấp những gì?”
Anh ta đã hợp tác với những người như lão Neil nhiều lần, tất nhiên sẽ biết bói toán cần có vật môi giới, đặc biệt là trong tình huống nhân vật chính vắng mặt.
Klein suy nghĩ một lát rồi bảo quản gia Klee: “Tôi cần một bộ quần áo mà Elliot mặc gần đây nhưng chưa được giặt. Nếu có trang sức cậu ta thường đeo thì càng tốt.”
Anh cố gắng chọn những vật bình thường làm môi giới, thay vì những thứ có thể khiến người ta để ý.
Dù vậy, quản gia Klee vẫn ngờ vực: “Tại sao?”
Hỏi xong, ông nói thêm: “Tôi có mang theo một bức ảnh của cậu Elliot đây.”
“Vì sao ấy à? Vì chúng tôi đang định tìm tung tích của cậu ta bằng cách xem bói…” Nghĩ vậy, Klein lại không biết trả lời ra sao.
Nếu anh nói thật, chưa đề cập tới việc có vi phạm điều khoản bảo mật hay không, quá nửa là quản gia Klee sẽ lập tức bỏ đi, trực tiếp xé bỏ hợp đồng và thầm nguyền rủa: “Cái đám lừa đảo này! Nếu điều đó hữu dụng thì tao thà đi tìm ‘Người Thông Linh’ nổi tiếng nhất quận Awwa cho rồi!”
Leonard Mitchell đứng cạnh cất tiếng cười khẽ: “Ông Klee, đồng bạn, không, đồng nghiệp của tôi nuôi một con vật cưng kỳ lạ có khứu giác nhạy bén hơn cả chó săn. Vì vậy chúng tôi mới cần quần áo hoặc đồ vật mà cậu Elliot từng sử dụng. Ông biết đấy, manh mối thường tập trung trong một phạm vi đại khái nào đó. Chúng tôi cũng cần tấm hình nữa. Tôi và anh đây cũng cần biết cậu Elliot trông như thế nào.”
Quản gia Klee chấp nhận lời giải thích này, gật đầu từ tốn hỏi: “Các anh muốn chờ ở đây, hay đi cùng tôi đến tư dinh nội đô của ông Vickroy?”
“Chúng tôi sẽ đi cùng, cho tiết kiệm thời gian.” Klein đáp ngắn gọn. Anh nóng lòng muốn thử năng lực Kẻ Phi Phàm của bản thân, cũng vừa mang mong muốn cứu vớt người khác.
“Xe ngựa đang đợi dưới lầu.” Quản gia Klee nói và đưa Leonard một tấm ảnh đen trắng.
Đây là ảnh chân dung của Elliot Vickroy. Cậu bé chừng mười tuổi, mái tóc khá dài gần như che khuất đôi mắt, mặt lấm tấm tàn nhang, vóc dáng không có gì nổi bật.
Leonard liếc qua rồi truyền tay cho Klein.
Sau khi xem xét cẩn thận, Klein cất bức ảnh vào túi, cầm gậy, đội mũ, đi theo hai người kia rời khỏi Công ty An ninh Blackthorn và leo lên xe ngựa đang đậu.
Trong xe khá rộng rãi, sàn trải thảm dày, có một chiếc bàn nhỏ để đặt đồ.
Trước mặt quản gia Klee, Klein và Leonard không nói một lời. Họ lặng lẽ cảm nhận sự vững vàng của cỗ xe lăn bánh qua con đường đọng nước trong cơn mưa nhỏ dần.
“Người đánh xe rất tuyệt.” Không biết bao lâu sau, Leonard phá vỡ sự im lặng bằng một lời khen ngợi.
“Ừm.” Klein chiếu lệ một câu.
Quản gia Klee nặn ra một nụ cười, “Lời khích lệ của anh là niềm vinh hạnh của hắn. Chúng ta sắp đến nơi rồi…”
Sợ những kẻ bắt cóc phát giác, cỗ xe không đến tận tư dinh Vickroy mà dừng lại ở một con phố gần đó.
Quản gia Klee cầm ô một mình trở về. Trong lúc chờ đợi, Leonard mở miệng bảo Klein: “Lần trước tôi đưa ra phỏng đoán ấy không nhằm mục đích nào cả. Tôi chỉ muốn nhắc anh rằng cuốn sổ đó nhất định sẽ lại xuất hiện, có lẽ là sớm thôi.”
“Phỏng đoán đó thực sự không vui chút nào.” Klein hất hàm về phía người đánh xe bên ngoài, tỏ ý anh không muốn thảo luận về những chủ đề nhạy cảm khi có mặt người khác.
Leonard huýt sáo, quay đầu nhìn qua cửa sổ, quan sát những giọt mưa lấm tấm trên kính, để lại dấu vết mờ ảo, khiến thế giới bên ngoài nhòa đi.
Một lát sau, quản gia Klee quay lại cùng một túi đồ. Bởi bước đi quá nhanh, ống quần ông dính đầy bùn đất, còn trước người thì ướt đẫm.
“Đây là bộ quần áo mà cậu Elliot đã mặc hôm qua. Đây là bùa hộ mệnh Gió Bão cậu ấy từng đeo.”
Klein nhận lấy túi đồ và nhìn thấy thoáng qua. Anh phát hiện đó là một bộ lễ phục quý ông cỡ trẻ con. Áo sơ mi, gile, vest đuôi tôm hay nơ đều nhỏ. Còn chiếc bùa hộ mệnh Gió Bão có đế bằng đồng được điêu khắc biểu tượng gió lớn và sóng biển thì không hề kích thích Linh Cảm của Klein.
“Bây giờ tôi sẽ kể lại chi tiết việc cậu Elliot bị bắt cóc thế nào, để các anh có thể xác định được mục tiêu…” Quản gia Klee ngồi xuống, mô tả lại ác mộng buổi sáng, hy vọng điều đó sẽ hỗ trợ phần nào cho những người giúp đỡ mà ông phải vất vả mới tìm được.
Klein và Leonard không quan tâm đến quá trình chi tiết, họ chỉ quan tâm về số lượng kẻ bắt cóc, liệu chúng có biểu hiện bất thường nào không, có mang vũ khí hay không.
“Ba tên”, “bình thường”, “có súng”... Sau khi đạt được thông tin mình muốn, họ tạm biệt quản gia Klee rồi thuê một chiếc xe ngựa riêng hai bánh gần đó.
Khác với xe ngựa công cộng, loại xe ngựa cho thuê này có loại bốn bánh và hai bánh. Chúng tính phí theo cây số hoặc thời gian. Cước phí theo cây trong nội thành là 4 Penny một km, ngoại thành là 8 Penny một km. Cước tính theo giờ là 2 Saule một tiếng. Dưới một tiếng vẫn lấy giá như một tiếng. Sau một tiếng, cứ mười năm phút lại cộng thêm 6 Penny. Chưa tới mười năm phút vẫn tính giá như mười năm phút. Trong thời tiết khắc nghiệt hoặc các tình huống khẩn cấp cần tăng tốc thì giá sẽ tăng lên.
Klein nghe thầy Azik nói rằng những tay đánh xe kiểu này ở thủ đô Backlund nổi tiếng với việc hét giá lung tung.
Đối với Klein, đây là một sự hưởng thụ khá xa xỉ. Có điều lần này, anh không cần đắn đo về nó. Bởi Leonard đã ném 1 Saule cho người đánh xe rồi.
“Tính theo giờ.” Leonard dặn xong bèn đóng cửa xe lại.
“Hai người muốn đi đâu?” Người đánh xe cầm hai tờ tiền trong tay, vừa mừng rỡ lại vừa bối rối hỏi.
“Chờ chút.” Leonard ném ánh mắt sang Klein.
Klein khẽ gật đầu, trải quần áo của Elliot lên sàn xe rồi cuốn chiếc bùa hộ mệnh Gió Bão quanh đầu gậy chống.
Anh dựng thẳng cây gậy trên bộ quần áo.
Trong tâm trí Klein, những quả cầu ánh sáng bắt đầu ngưng tụ. Cảm xúc của anh nhanh chóng được vuốt phẳng. Đôi mắt nâu sậm dần khi anh bước vào trạng thái nửa nhập định. Anh cảm nhận “Linh” của bản thân trở nên nhẹ nhàng và lơ lửng. Khi mơ hồ trông thấy Linh Giới có mắt ở khắp mọi nơi, anh đọc thầm: “Vị trí của Elliot”.
Sau bảy lần lặp lại, anh thả tay nắm ra. Cây gậy không hề rơi xuống đất. Ngay cả khi cỗ xe hơi lắc lư, nó vẫn đứng sững tại chỗ. Xung quanh Klein xuất hiện những tiếng động tinh tế và vô hình. Dường như đang có vô số những con mắt hờ hững nhìn anh.
Gần đây, Klein thỉnh thoảng sẽ có cảm nhận tương tự khi mở Linh Thị hoặc nhập định.
Mang theo chút kinh hãi trong lòng, anh chăm chú nhìn cây gậy bằng đôi mắt đen tuyền trước khi đọc nhẩm một lần nữa: “Vị trí của Elliot”. Vừa dứt lời, cây gậy gỗ đen dát bạc đã ngả về phía trước.
“Đi thẳng.” Klein nắm gậy, nặng nề mở miệng. Giọng anh có vẻ mông lung, dường như có thể vọng tới thế giới vô định.
Đây là một trong những khả năng bói toán mà anh thành thạo. Nó có tên là “tìm đồ bằng que cảm xạ”, sử dụng đạo cụ từ gỗ, kim loại hoặc hỗn hợp của cả hai thứ trên.
Thông thường, anh sẽ cần hai que cảm xạ thực sự. Chúng có hình dạng giống như hai sợi dây kim loại thẳng có một đầu uốn gập. … Nhưng với một “Nhà Bói Toán” đã trải qua nhiều lần luyện tập như Klein, anh có thể trực tiếp sử dụng phương pháp này để tìm người, cũng như dùng gậy chống thay que cảm xạ. Hướng gậy đổ chính là hướng có thứ mà anh đang tìm kiếm.
Về phần cuốn sổ gia tộc Antigonus, Klein hoàn toàn không nhớ được hình dáng hay có ấn tượng gì. Cho nên anh không thể dùng cách này để tìm kiếm tung tích của nó.
“Đi thẳng.” Leonard lớn tiếng chỉ thị cho người đánh xe, “Lúc nào cần chuyển hướng thì tôi sẽ nói cho anh biết.”
Người đánh xe cảm thấy khó hiểu, nhưng tờ tiền trong túi cùng thái độ đưa tiền không chút do dự của đối phương khiến hắn quyết định im lặng tuân theo.
Xe ngựa chậm rãi đi hết phố này đến phố khác. Trên đường, Klein liên tục sử dụng “tìm đồ bằng que cảm xạ” để điều chỉnh phương hướng.
Khi cỗ xe vòng qua một tòa nhà, anh rốt cuộc cũng xác định được rằng Elliot đang ở bên trong. Tính từ lúc họ chào tạm biệt quản gia Klee đến giờ mới là ba mươi phút.
Người đánh xe rời đi. Lần này, Klein không dùng quần áo của Elliot nữa mà trực tiếp cắm cây gậy đang quấn bùa hộ mệnh xuống đất. Đôi mắt anh trở nên sâu thẳm, hạt mưa lất phất xung quanh đột nhiên xoay tròn tại chỗ.
Gậy chống ngả về phía trước, Klein chỉ vào cầu thang và nói: “Ở đó.”
“Đôi khi tôi rất hâm mộ lão Neil. Đồng dạng, tôi rất hâm mộ anh bây giờ.” Trước cảnh đó, Leonard thở dài với một nụ cười.
Klein liếc anh ta rồi đáp bằng giọng bình thản: “Cái này không khó đâu. Chỉ cần anh muốn thì có thể học được ngay… Linh Cảm của anh chắc phải cao lắm nhỉ?”
Leonard gật đầu cười khẽ: “Nó không phải chuyện tốt đẹp gì.” Đoạn bước nhanh qua màn mưa tới vị trí cầu thang.
Klein sợ bộ lễ phục sẽ bị ướt nên cũng theo sát phía sau.
Tòa nhà có ba tầng, tương tự chung cư trong thế giới cũ. Mỗi tầng chỉ có hai căn hộ. Khi sử dụng “tìm đồ bằng que cảm xạ” ở tầng một và hai, gậy chống hướng thẳng lên trên.
Hai người nhẹ nhàng bước lên tầng ba. Klein dựng cây gậy dát bạc xuống sàn.
Woo! Một cơn gió thoảng qua cầu thang. Đồng tử Klein đổi màu, sâu và đen đến mức có thể hút hồn kẻ khác.
Ù ù ù! Xung quanh dường như có tiếng khóc.
Klein buông tay. Cây gậy chống quấn bùa hộ mệnh Gió Bão đứng vững một cách thần kỳ.
Anh đọc nhẩm “vị trí của Elliot” một lần nữa. Gậy chống lặng lẽ hạ cánh xuống đất, chỉ hướng gian phòng bên phải.
“Hẳn là chỗ đó.” Klein vừa nhặt cây gậy lên vừa gõ nhẹ hai lần vào ấn đường.
Khi “màu sắc” đậm dần, anh hướng tầm mắt vào cửa phòng bên phải, trực tiếp nhìn thấy các “hào quang” khác nhau bên trong.
“Một, hai, ba bốn… Ba kẻ bắt cóc cộng với một con tin. Số lượng trùng khớp… Một trong số đó có hào quang nhỏ hơn, hẳn đó là Elliot… Ông Klee nói rằng chúng có hai khẩu súng săn và một khẩu súng lục…” Klein thì thầm.
Leonard cười ha hả: “Để tôi ngâm một bài thơ cho chúng nghe nào.
“Sao cứ phải làm kẻ bắt cóc vậy, làm người vui vẻ văn minh không được à?” Anh ta đặt túi quần áo của Elliot xuống rồi tiến lên hai bước. Vẻ mặt trở nên tĩnh mịch và u sầu trong nháy mắt. Giọng nói từ tính trầm thấp chậm rãi vang lên:
“Ôi
Đe doạ đầy kinh sợ
Ước mong hừng sắc đỏ
Vẫn có một sự thật
Đời trôi qua rất nhanh
Ôi sự thật duy nhất
Còn lại toàn dối trá
Sau một lần hoa nở
Xin vĩnh biệt đời này…”
Âm thanh ấy y hệt một bài hát ru, nhẹ nhàng ngân nga giữa hai cánh cửa bên trái và bên phải, vang vọng khắp cầu thang gỗ uốn lượn.
Đầu óc Klein bỗng trở nên ngẩn ngơ. Anh có cảm giác như mình đang nhìn vào ánh sáng lặng yên cùng mặt hồ gợn sóng thanh bình. Mí mắt nhanh chóng nặng trĩu, dường như có thể đứng ngủ bất cứ lúc nào.
Trong trạng thái nhận thức mơ hồ như vậy, anh còn cảm nhận được một cái nhìn vô hình, kỳ lạ, thờ ơ đến từ sau lưng mình, giống hệt lúc bản thân dạo chơi trong Linh Giới.
Cảm giác quen thuộc không thể giải thích nổi lên. Klein đột nhiên khôi phục khả năng suy nghĩ. Dựa vào Linh Cảm mạnh mẽ và thói quen nhập định, anh miễn cưỡng thoát khỏi ảnh hưởng từ “Bài thơ Nửa đêm”. Tuy nhiên, anh vẫn cảm thấy cả người trống vắng, mọi cảm xúc đều bị dập tắt.
Chẳng bao lâu sau, Leonard kết thúc bài thơ, nghiêng đầu cười: “Tôi có nên xin cấp một cây đàn Feynapotter không nhỉ. Ngâm thơ sao có thể thiếu nhạc đệm được? Haha, đùa thôi. Tôi nghe thấy chúng ngủ cả rồi.”
Kẻ Gác Đêm tóc đen mắt xanh lục có vẻ thơ mộng sải bước đến cửa phòng lũ bắt cóc. Anh ta đột nhiên lắc vai rồi tung một nắm đấm vào khóa cửa.
Răng rắc!
Cùng với tiếng rền rĩ, phần gỗ xung quanh ổ khóa vỡ tan tành.
“Điều này đòi hỏi khả năng khống chế lực chính xác.” Leonard vừa nói đùa vừa thò tay vào lỗ thủng để mở cửa.
Bấy giờ, Klein đã tỉnh táo hẳn. Không có sự tự tin như Leonard, anh đưa tay xuống dưới nách rút khẩu súng lục và điều chỉnh ổ xoay, chắc chắn rằng có thể nổ súng bất cứ lúc nào.
Cửa phòng mở ra. Anh trông thấy một người đàn ông đang ngủ gục trên bàn với khẩu súng lục bên chân. Một người đàn ông khác có vẻ thất thần đang dịu mắt, cố gắng đứng lên.
Bộp! Leonard lướt đến gần, đánh ngất kẻ bắt cóc chuẩn bị thức giấc.
Klein đang định theo vào thì đột nhiên cảm nhận được điều gì đó. Anh quay ngoắt về phía cầu thang.
Cộp cộp cộp. Tiếng bước chân vang lên từ bên dưới dần trở nên rõ ràng. Một người đàn ông mặc áo khoác nâu, không đội mũ, trong tay cầm túi bánh mì đi vòng qua góc ngoặt cầu thang dẫn lên tầng ba.
Gã đột nhiên dừng lại, nhìn nòng súng ánh kim đang chĩa xuống mình.
Trong con mắt gã hiện lên hình ảnh một chàng trai trẻ tuổi đội chiếc mũ chóp cao, mặc lễ phục đen, lẫn cây gậy chống dựa vào lan can cùng khẩu súng lục nguy hiểm của đối phương.
“Dừng mọi động tác lại. Giơ tay lên. Ba, hai…” Giọng Klein rất trầm và ung dung.
Anh nắm khẩu súng bằng hai tay, cổ gắng xem người kia là bia bắn luyện.
Giữa bầu không khí khẩn trương, người đàn ông mặc áo khoác nâu thả túi bánh mì xuống và từ từ giơ hai tay lên.
“Thưa ngài, có phải ngài đang hiểu lầm chăng?” Gã gắt gao nhìn ngón tay trên cò súng của Klein, nặn ra một nụ cười miễn cưỡng.
Klein tạm thời không xác định được gã là đồng phạm hay hàng xóm bên cạnh. Song ngoài mặt, anh không hề tiết lộ chút cảm xúc bất thường nào, chỉ trầm giọng nói: “Đừng cố giãy giụa. Chờ lát nữa chúng ta sẽ biết chuyện này là hiểu lầm hay không.”
Lúc này, Leonard đã xử lý xong bọn bắt cóc trong phòng. Anh ta bước ra rồi liếc nhìn người đàn ông đang đứng ở góc cầu thang và nhàn nhã nói: “Hóa ra lũ bắt cóc còn có một đồng bọn phụ trách tiếp ứng và mua đồ ăn nữa à?”
Câu nói ấy khiến đồng tử người đàn ông co rút. Gã đột nhiên đá túi bánh mì lên nhằm ngăn trở tầm nhìn của Klein.
Klein dường như không hề bị ảnh hưởng, anh vẫn bình tĩnh bóp cò y hệt lúc luyện tập.
Bùm! Máu trào ra từ vai trái của người đàn ông.
Gã thuận thế lăn một vòng, định chạy xuống tầng hai, nhưng Leonard đã nắm lấy lan can và nhảy xuống.
Với một tiếng phịch trầm đục, Leonard từ trên cao đáp xuống cơ thể người đàn ông, khiến gã hôn mê bất tỉnh.
Leonard vỗ vỗ chiếc áo khoác dính máu, ngẩng đầu nhìn Klein: “Bắn tốt lắm.”
“Tôi định bắn vào chân hắn cơ…” Khóe miệng Klein hơi co giật. Chóp mũi ngửi thấy mùi máu tươi nhàn nhạt.
Sau khi sử dụng Ma Dược “Nhà Bói Toán”, tuy thị giác, thính giác và xúc giác của anh không được tăng lên, Klein vẫn có thể “nhìn” những thứ bị che chắn, “nghe” được tiếng bước chân yếu ớt, giúp anh có thể sớm đưa ra quyết định.
Nó thuộc về phạm trù “Linh Cảm” sao? Klein trầm ngâm gật đầu, đưa mắt nhìn Leonard lục soát ra một con dao sắc bén trên người gã đồng phạm trước khi lôi hắn về phòng.
Anh quay về phòng lũ bắt cóc với khẩu súng và cây gậy trên tay. Hiện Elliot Vickroy đã bị tiếng súng đánh thức. Cơ thể cậu bé chậm rãi chuyển từ cuộn tròn sang ngồi thẳng.
Ba kẻ bắt cóc đầu tiên đã bị Leonard trói chặt bằng chính sợi dây thừng mà chúng dùng để trói Elliot. Anh ta còn xé quần áo trên người chúng ra để tạo thêm dây, sau đó bó chúng với nhau trước khi ném vào trong góc.
Người đàn ông bất tỉnh bị bắn vào vai đã được băng bó. Nhưng Leonard không muốn làm bẩn tay mình nên không giúp gã lấy đạn ra.
Thấy vậy, Elliot kinh ngạc lắp bắp: “Các người… các anh là ai?”
“Đúng, cậu đoán đúng rồi đấy, vô cùng chuẩn xác.” Leonard đang ngồi xổm thuận miệng đáp.
Không ngờ tên này cũng có khiếu hài hước…
Klein hạ súng xuống và nói với Elliot: “Chúng tôi là lính đánh thuê được cha cậu mời đến. Cậu có thể gọi chúng tôi là nhân viên an ninh.”
“Thật ạ? Cháu được cứu rồi ạ?” Elliot vui mừng hỏi, nhưng cơ thể lại không dám nhúc nhích.
Có thể thấy, cậu ta đã phải chịu đựng rất nhiều thứ trong suốt vài tiếng bị bắt cóc. Hơn nữa, cậu cũng không có sự bồng bột thường thấy trong độ tuổi của mình.
Leonard đứng dậy bảo Klein: “Anh hãy xuống dưới tìm cảnh sát tuần tra, nhờ họ thông báo cho tay thương nhân thuốc lá kia đến đón con về đi. Tôi không muốn phải xách theo thằng bé lẫn bốn gã này ra ngoài đâu. Thế thì khác gì lũ bắt cóc chứ.”
Klein đang nghĩ ngợi cách xử lý chuyện sau đó gật đầu, cất súng, chống dậy đi về phía cầu thang.
Trong lúc đặt chân lên bậc cầu thang, anh bỗng có một suy nghĩ mơ hồ như thể mình đã quên một điều gì đó. Đồng thời, anh nghe thấy Leonard nói với Elliot: “Không cần căng thẳng thế đâu. Cậu sẽ sớm gặp lại cha mẹ và lão quản gia Klee thôi. Hay là chúng ta chơi một ván bài Gwent nhé?”
Klein nhịn cười bước xuống phố. Dựa vào lời chỉ dẫn của người qua đường, anh đã tìm thấy hai cảnh sát tuần tra.
Thay vì sử dụng huy hiệu và giấy chứng nhận của Bộ phận Hành động Đặc biệt, anh đã tự xưng là nhân viên an ninh chuyên nghiệp trước khi kể lại mọi sự từ đầu đến cuối.
Đối với vấn đề vũ khí, anh không lo lắng chút nào. Bởi hôm kia, Klein đã nhận được “Chứng nhận sử dụng các loại vũ khí” --- thông qua kênh nội bộ, việc xét duyệt diễn ra rất nhanh chóng.
Hai cảnh sát nhìn nhau. Một người đi gọi trợ giúp và thông báo cho gia đình Vickroy. Người kia theo Klein đến chỗ kẻ bắt cóc.
Sau hơn bốn mươi phút chờ đợi, nhân lúc cảnh sát không chú ý, Leonard nháy mắt ra hiệu với Klein, ý bảo anh lẻn khỏi phòng với mình.
“Tin tôi đi. Chuyện đến đồn cảnh sát phí thời gian lắm. Chúng ta đi trước thôi.” Kẻ Gác Đêm thơ mộng giải thích với vẻ thoải mái.
Klein mang trong mình tâm lý “trời sập cũng có người chống đỡ” theo sát Leonard mà không phản đối.
Khoảng năm phút sau, một vài chiếc xe ngựa lao đến tòa nhà này. Lão quản gia Klee bước xuống xe ngựa cùng người chủ mập mạp Vickroy.
Cho đến giờ phút này, Klee vẫn có chút hoang mang, không thể tin rằng tin vui sẽ đến nhanh như thế, vụt tới hệt như một giấc mơ. Bất chợt, ông nghe thấy một âm thanh giòn giã, bèn quay đầu lại theo bản năng ----
Một cỗ xe ngựa hai bánh phóng qua. Cửa sổ mở toang. Leonard tóc đen mắt xanh lục búng tay thành tiếng.
Bỏ lại nhà Vickroy sau lưng, Leonard đóng cửa sổ rồi quay lại nhìn Klein.
Anh ta mỉm cười vươn tay phải ra: “Hợp tác vui vẻ!”
“Hình như chúng ta không thân…” Klein thầm mắng trong lòng khi lễ phép vỗ vào tay đối phương.
Klein vẫn không ngờ vụ bắt cóc sẽ được giải quyết nhanh chóng đến vậy. Anh chỉ có thể ngầm cảm khái rằng năng lực của Kẻ Phi Phàm quả thực tương xứng với cái tên của nó. Đến một tên gà mờ Danh Sách 9 như mình cũng có thể làm được rất nhiều điều không thể tưởng tượng nổi.
“Đây là cử chỉ ăn mừng của quý tộc sau khi kết thúc trận đấu kiếm.” Leonard mỉm cười giải thích.
“Tôi biết.” Klein có nhiều bạn học là quý tộc.
Anh chuyển mắt ra ngoài cửa sổ, lông mày hơi nhíu lại: “Chúng ta không cần xác nhận lại với ông Klee sao? Nếu ông ta cho rằng cảnh sát đã cứu Elliot thì tiền thù lao sẽ bị giảm bớt một nửa đấy.” Nguyên 100 Bảng đấy!
Cuộc gặp gỡ vừa nãy đủ để chứng minh họ là người tìm ra hang ổ của những kẻ bắt cóc rồi.
“Bận tâm làm gì. Tiền bạc không có nghĩa gì với cuộc sống của chúng ta.” Leonard khoanh tay nói.
“Với tôi thì nó quan trọng lắm!” Với suy nghĩ đó, Klein gượng cười lịch sự: “Có nhiều nhà thơ đã mất sớm vì nghèo khó!”
Leonard bật cười: “Tôi tin Elliot sẽ không nói dối. Cậu ta còn hồn nhiên lắm. Nếu chúng ta có lấy được 200 Bảng thì anh cũng không nhận được mấy đâu.”
“Tôi được chia bao nhiêu?” Klein hỏi ngay.
“Theo luật bất thành văn trong đội, một nửa thù lao phải giao cho bà Orianna sung công. Phần còn lại chia đều cho những người tham gia nhiệm vụ. Thật không may, anh không phải thành viên chính thức, nên chỉ có thể được nhận tầm 10% thôi.”
10 Bảng? Tạm ổn… Không có được thù lao như thành viên chính thức, Klein giả vờ mình không hề đau lòng và hỏi ngược lại: “Anh không lo lũ bắt cóc phát hiện chúng đã bị ảnh hưởng bởi sức mạnh phi phàm khi tỉnh giấc à?”
“Không đâu. Chúng sẽ cho rằng tất cả là do thời tiết quá tốt, quá thích hợp để đánh một giấc nên mới không kiềm chế được cơn buồn ngủ. Thậm chí chúng sẽ nghĩ tiếng ngâm kia chỉ là thứ chúng tưởng tượng ra ấy chứ. Chuyện này chúng tôi đã kiểm chứng trước rồi.” Leonard tự tin đáp, “Chính viên đạn săn ma của anh mới là thứ khiến người ta đặt câu hỏi đấy. Tất nhiên, chúng ta có thể đưa ra một lý do hợp lý kiểu anh là một kẻ lập dị yêu thích thần bí học chẳng hạn.”
“Ừm.” Klein buông xuống lo âu. Điều duy nhất khiến anh còn băn khoăn là cảm giác như mình đã quên hoặc bỏ qua một điều gì đó.
.
Quay lại phố Zouteland, Klein không chờ Klee đến. Anh tiếp tục đi bộ đến nhà Welch rồi quay về nhà theo một con đường khác. Trên đường, anh nhân tiện mua một thịt bò, cải xoăn và một số nguyên liệu nấu ăn khác cho bữa tối.
Sau bữa ăn vui vẻ, ba anh em cùng nhau học tập và tán gẫu như thường lệ. Song lần này họ có thêm một vị khách gõ cửa.
Đó là công nhân đến thu lại các đồng 1 Penny trong máy tính phí ga.
Khi đêm dần khuya, ba anh em chúc nhau ngủ ngon rồi lần lượt quay về phòng riêng.
Klein đang say ngủ đột nhiên bị đánh thức bởi tiếng sột soạt bên ngoài. Anh nghi ngờ mở cửa bước ra hành lang, đi tới căn phòng ngủ vốn không có người ở. Đẩy cánh cửa loang lổ sang bên, Klein trông thấy một chiếc bàn màu xám.
Trên bàn đặt một cuốn sổ tay bìa cứng màu đen nhánh.
Cảm giác quen thuộc khó hiểu bỗng trỗi dậy trong lòng. Klein đến gần và mở cuốn sổ ra. Trang anh lật tới có một bức tranh. Đó là hình ảnh “Kẻ Khờ” mặc quần áo lộng lẫy và đeo trang sức lấp lánh!
Dưới bức “Kẻ Khờ” có một dòng chữ viết bằng tiếng Hermes: “Tất cả mọi người sẽ chết, kể cả tôi.”
Klein không khỏi sửng sốt, chợt nhận ra khóe miệng “Kẻ Khờ” đang cong lên!
Anh giật mình ngồi dậy. Trông thấy ánh trăng đỏ thẫm xuyên qua rèm cửa cùng căn phòng ngủ quen thuộc, Klein mới biết mình vừa gặp phải ác mộng.
Thân là một “Nhà Bói Toán”, anh hiểu những giấc mơ luôn bộc lộ điều gì đó, bèn tỉ mẩn nhớ lại từng chi tiết.
Klein đột nhiên sững người. Bởi anh nhận ra hôm nay mình đã bỏ qua những gì!
Lúc đắm chìm trong tiếng ngâm của Leonard, mình đã cảm nhận được một ánh mắt vô hình, thờ ơ từ phía sau lưng. Nó rất khác trải nghiệm khi sử dụng Linh Thị và nhập định, nhưng lại mang đến cho mình cảm giác như đã từng quen biết!”
Theo đội trưởng Dunn, một khi cảm giác deja vu xuất hiện thì thường mang nghĩa là…
Klein bất ngờ ngồi dậy: “Đúng, chính là nó, là cuốn sổ kia! Cuốn sổ ghi chép của gia tộc Antigonus!”
Cuốn sổ ấy nằm trong căn phòng đối diện phòng kẻ bắt cóc!
Dẫu điều đó quá mức trùng hợp, Klein vẫn tin tưởng vào trực giác.
Anh lập tức rời giường, cởi bỏ bộ đồ ngủ đã cũ chỉ bằng hai động tác, cầm chiếc áo sơ mi trắng cạnh đó mặc vào, nhanh chóng cài cúc từ dưới lên.
Một cúc, hai cúc, ba cúc. Anh chợt nhận thấy thiếu một cúc, mà tà áo hai bên có vẻ không cân xứng.
Cẩn thận quan sát kỹ hơn, Klein mới phát hiện mình đã cài lệch ngay từ chiếc cúc đầu tiên, khiến chiếc áo sơ mi trở nên lệch lạc.
Anh bất đắc dĩ lắc đầu, hít một hơi thật sâu rồi từ từ thở ra, sử dụng một số kỹ xảo nhập định để lấy lại sự bình tĩnh nhất định. Mặc xong quần áo, Klein đã đủ vững vàng để đeo đai an toàn dưới nách, đặt khẩu súng giấu dưới gối mềm vào trong bao.
Không quan tâm tới việc thắt nơ, Klein khoác lễ phục lên người, một tay cầm mũ một tay nắm gậy bước về phía cửa.
Anh đội mũ chóp lên đầu, nhẹ nhàng vặn tay nắm, mở cửa đi vào hành lang.
Klein cẩn thận đóng cửa gỗ phòng ngủ lại, rón rén đặt chân xuống cầu thang tựa như một tên trộm. Anh dùng bút máy và giấy trong phòng khách viết hai dòng nhắn nhủ, tỏ ý tối qua mình quên nói công ty có việc, hôm nay cần phải đi làm sớm.
Ra khỏi nhà, Klein lập tức cảm nhận được làn gió mát mẻ, xoa dịu tâm trạng anh.
Con đường trước mặt anh tối om và thanh vắng. Chỉ có những chiếc đèn đường khí ga đang lặng lẽ tỏa sáng.
Klein lấy đồng hồ quả quýt từ trong túi áo, bật chốt mở, mới sáu giờ sáng. Ánh trăng đỏ thẫm vẫn còn chưa rút đi, song ánh bình minh đã bắt đầu ló dạng từ phía chân trời.
Đang định tìm một cỗ xe ngựa riêng đắt tiền, anh bất ngờ trông thấy một chiếc xe hai ngựa bốn bánh tuyến không cố định đang tiến đến.
“Sớm thế này đã có xe ngựa công cộng rồi sao?” Klein không khỏi kinh ngạc. Anh tiến lên vẫy gọi nó dừng lại.
“Chào buổi sáng, thưa anh.” Người đánh xe ghìm cương một cách tài tình.
Nhân viên thu phí cạnh đó vừa đưa tay lên miệng vừa ngáp.
“Đến phố Zouteland.” Trong lúc nói, Klein lấy ra 2 Penny và 4 đồng ½ Penny.
“4 Penny.” Nhân viên thu phí đáp gọn.
Klein trả tiền rồi bước lên xe. Bên trong không có một vị khách nào, lộ rõ sự quạnh quẽ.
“Anh là người đầu tiên.” Người đánh xe cười bảo.
Hai con ngựa nâu cất móng, nhanh nhẹn chạy về phía trước.
“Thú thực, tôi không ngờ lại có xe ngựa công cộng sớm đến vậy.” Klein ngồi gần người đánh xe, thuận miệng đáp lại một câu để đánh lạc hướng sự chú ý và giải tỏa căng thẳng trong lòng.
Người đánh xe tự giễu:”Ngày nào cũng từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối. Nhưng lương tuần của tôi chỉ có 1 Bảng.”
“Không có ngày nghỉ sao?” Klein ngạc nhiên hỏi thăm.
“Chúng tôi sẽ thay phiên nhau nghỉ một ngày trong tuần.” Giọng người đánh xe trở nên nặng nề.
Nhân viên thu phí bên cạnh chen vào: “Chúng tôi làm ca từ sáu giờ sáng tới mười một giờ trưa. Sau đó đi ăn, nghỉ trưa. Sau giờ ăn tối, tầm sáu giờ, thì lại thay ca cho đồng nghiệp… Dù chúng tôi không cần nghỉ thì lũ ngựa vẫn cần.”
“Trước đây làm gì có chuyện như vậy. Chỉ khi xuất hiện trường hợp một người đánh xe quá mệt, mắc phải sai lầm không đáng có, khiến ngựa mất kiểm soát và xe bị lật thì họ mới áp dụng việc thay ca… Đám quỷ hút máu đó sao có thể đột nhiên trở nên tốt bụng chứ!”
Người đánh xe chế nhạo.
Dưới ánh sáng ban mai, chiếc xe ngựa lăn bánh đến phố Zouteland, dọc đường chỉ bắt được thêm bảy, tám hành khách khác.
Khi căng thẳng đã vơi bớt, Klein không tiếp tục cuộc trò chuyện nữa. Anh nhắm mắt, hồi tưởng lại những việc đã trải qua trong ngày hôm qua, xem mình còn quên gì hay không.
Vào lúc mặt trời hừng hực mọc lên hoàn toàn, bầu trời thực sự bừng sáng, chiếc xe ngựa dừng chân trước phố Zouteland.
Klein ấn mũ bằng tay trái rồi nhảy xuống xe.
Anh sải bước đến số nhà 36, dọc theo cầu thang lên Công ty An ninh Blackthorn.
Cửa đóng chặt.
Klein gỡ chùm chìa khóa treo bên hông, nhét chiếc chìa màu đồng tương ứng với lỗ khóa rồi vặn “răng rắc”.
Cánh cửa chậm rãi mở ra. Đằng sau nó là Leonard Mitchell tóc đen mắt xanh lục đang cầm một điếu thuốc lá thịnh hành gần đây đưa lên mũi ngửi.
“Nói thật, tôi thích xì gà hơn. Sao anh có vẻ vội vàng thế?” Kẻ Gác Đêm giống nhà thơ thư thái hỏi thăm.
“Đội trưởng đâu?” Klein đáp bằng một câu hỏi khác.
Leonard chỉ vách ngăn: “Trong văn phòng riêng. Một Kẻ Phi Phàm theo Con Đường ‘Kẻ Không Ngủ’ như ông ấy chỉ cần nghỉ ngơi hai tiếng ban ngày thôi. Tôi nghĩ đó chắc chắn là loại Ma Dược mà đám chủ nhà máy, chủ ngân hàng ưa thích nhất.”
Klein gật đầu, bước nhanh qua vách ngăn, trông thấy Dunn Smith vừa mở cửa vào văn phòng và chuẩn bị bước ra hành lang.
“Chuyện gì?” Ông mặc áo khoác đen, cầm gậy chống nạm vàng, vẻ mặt rất bình tĩnh và nghiêm túc.
“Tôi có cảm giác deja vu. Chắc hẳn là do cuốn sổ kia. Cuốn sổ ghi chép của gia tộc Antigonus.” Klein cố gắng kiểm soát bản thân để trả lời trật tự và rõ ràng.
“Ở đâu?” Biểu cảm trên mặt Dunn không mấy thay đổi.
Nhưng Linh Cảm đã nói cho Klein biết đối phương đang dao động, một dao động rõ ràng và vô hình. Đó có thể là Linh đang nhấp nháy, cũng có thể là một sự thay đổi trong cảm xúc.
“Nơi tôi và Leonard giải cứu con tin hôm qua. Đối diện phòng kẻ bắt cóc. Lúc đó tôi không để ý, đến khi nằm mơ mới nhận ra.” Klein không giấu giếm chút nào.
“Xem ra hôm qua tôi đã bỏ lỡ một công lao rất lớn.” Không biết từ lúc nào, Leonard đã đi đến cửa ngăn và cất tiếng cười khẽ.
Dunn hơi gật đầu, nghiêm nghị nói: “Cậu hãy kêu Kenley tới trông kho vũ khí thay lão Neil đi, để lão Neil và Frye đi cùng chúng ta.”
Leonard không tỏ ra phù phiếm nữa. Anh ta lập tức đi thông báo cho “Kẻ Không Ngủ” Kenley và “Người Nhặt Xác” Frye đang trong phòng giải trí.
Năm phút sau, cỗ xe hai bánh thuộc về tiểu đội Kẻ Gác Đêm nhanh chóng phi nước đại trên con phố thưa người đi bộ buổi sáng.
Leonard đội mũ nỉ, mặc sơ mi và gile tạm thời đảm nhiệm vị trí đánh xe. Thỉnh thoảng, anh ta lại vung roi vào không khí, khiến nó kêu lên giòn vang.
Trong xe ngựa, Klein và lão Neil ngồi một bên. Đối diện họ là Dunn Smith cùng Frye.
Frye “Người Nhặt Xác” có làn da trắng nõn như thể lâu ngày không tiếp xúc với ánh mặt trời hoặc bị thiếu máu trầm trọng. Anh ta chừng ba mươi tuổi, tóc đen, mắt lam, mũi cao, môi mỏng, trông có vẻ lạnh lùng tối tăm, mang theo một mùi hương thoang thoảng như thường xuyên phải tiếp xúc với xác chết.
“Cậu hãy kể lại tỉ mỉ tình huống một lần nữa đi.” Dunn chỉnh lại cổ áo khoác đen.
Klein vuốt ve viên thạch anh vàng đính trên sợi dây chuyền giấu trong tay áo. Anh bắt đầu kể lại từ lúc tiếp nhận nhiệm vụ đến lúc gặp phải giấc mơ.
Lão Neil bỗng cười khúc khích: “Hình như cậu cùng cuốn sổ tay của gia tộc Antigonus có một loại duyên phận nào đó thì phải. Vậy mà cũng gặp được.”
“Đúng vậy. Điều này quá trùng hợp! Nếu ban nãy, Leonard không nói rằng kết quả điều tra sơ bộ vụ bắt cóc Elliot đã cho thấy không có bất kỳ thế lực tiềm ẩn hay lực lượng thần bí nào mà chỉ là một vụ túng quá hóa liều. Tôi chắc chắn sẽ hoài nghi rằng ai đó đang cố tình sắp đặt mọi thứ…” Klein cũng cảm thấy chuyện này thật kỳ quặc.
Quá mức trùng hợp!
Dunn không phát biểu ý kiến. Dường như đang bận trầm tư một điều gì đó. “Người Nhặt Xác” Frye thì vẫn trầm mặc.
Mãi đến lúc xe ngựa dừng lại trước tòa nhà mà Klein nhắc đến, sự im lặng mới bị phá vỡ.
“Chúng ta đi thôi. Klein, cậu và lão Neil hãy đi sau cùng. Cẩn thận. Nhất định phải cẩn thận đấy.” Dunn xuống xe, lấy một khẩu súng lục kỳ quái có nòng hơi dài và thô từ đai súng dưới nách trước khi nhét nó vào túi áo bên phải.
“Vâng.” Klein nào dám liều lĩnh xông lên trước tiên chứ.
Sau khi Leonard tìm được người trông xe, năm Kẻ Phi Phàm nối đuôi nhau, rón rén bước lên cầu thang.
“Chỗ này à?” Leonard chỉ vào căn hộ đối diện phòng kẻ bắt cóc ở tầng ba.
Klein gõ nhẹ vào ấn đường hai lần để kích hoạt Linh thị. Ở trạng thái này, Linh cảm được tăng cường nhắc nhở anh rằng cánh cửa kia rất quen thuộc. Cứ như thể chính anh đã từng bước qua nó.
“Đúng.” Anh gật đầu khẳng định.
Lão Neil cũng bật Linh thị, quan sát cẩn thận rồi nói: “Bên trong không có ai. Cũng không có quầng sáng ma pháp.”
“Người Nhặt Xác” Frye nói thêm bằng giọng khàn khàn: “Không thấy ác linh.” Anh ta không cần mở Linh thị cũng có thể trông thấy Linh thể, bao gồm cả ác linh lẫn oan hồn.
Leonard tiến thêm một bước, giáng một cú đấm vào ổ khóa cửa giống hệt ngày hôm qua.
Lần này, không chỉ những tấm gỗ xung quanh vỡ vụn mà ngay cả khóa cửa cũng bật tung, văng xuống đất. Klein bỗng cảm thấy một loại kết giới niêm phong vô hình nào đó vừa biến mất. Ngay sau đó, anh ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc.
“Xác chết. Một xác chết đang mục ruỗng.” Frye lạnh lùng nói mà không chút buồn nôn.
Dunn chậm rãi đẩy cửa bằng bàn tay phải đeo găng. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt họ là một lò sưởi âm tường. Giữa tiết trời đầu tháng bảy, cái nóng bất thường tràn ngập trong phòng.
Trước lò sưởi đặt một chiếc ghế bập bênh. Ngồi trên đó là một bà lão mặc váy đen trắng đang rũ thấp đầu.
Cơ thể bà trương phình. Làn da bà đã chuyển sang màu xanh đen, phồng lên và phát sáng, như thể chỉ cần chọc một cái là sẽ vỡ tung, phun ra mùi thối rữa. Lũ giòi bọ và ký sinh trùng vùng vẫy giữa máu và thịt, giữa dịch hôi và nếp gấp quần áo. Trong Linh thị, chúng hiện lên như những đốm sáng đang bao quanh một điểm ‘đen’ đã tắt.
Cơn buồn nôn dâng trào. Không thể chịu nổi ảnh hưởng từ mùi hôi thối được nữa, Klein cúi xuống nôn thốc nôn tháo.
8 Bình luận
Trong Hyoka là bà biên kịch đấy chọn ra các vụ án ko có ng chết để tham khảo vì bả thích kết thúc có hậu
Chứ trong Sherlock Holmes thì gần như vụ éo nào chả có ng chết