Súng, tro cốt và âm binh...
Nguyễn Văn Mười, Bé Vỉa Tôm Chiên Kùwu
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

The First Booklet: God, gunpowder and The Superpowers

Chương 07: Rặng núi gió

0 Bình luận - Độ dài: 5,303 từ - Cập nhật:

“Ê, bây giờ là mấy giờ rồi ông nhỉ?”

“Hai giờ sáng.”

“Tuyệt, chỉ còn nửa tiếng nữa là sẽ có người tới thay ca. Tôi nghĩ mình sẽ mua bia và mực nướng rồi tận hưởng ở một chốn đông người nào đó.”

“Ý tưởng hay đấy.”

Đó là cuộc tán gẫu giữa giờ làm việc của hai người lính gác trong căn cứ quân sự nằm dưới bãi biển Má Dên. Khu vực họ đang làm nhiệm vụ cách mực nước biển vài trăm mét, hoàn toàn biệt lập với thế giới bên ngoài nên thật dễ cảm thông cho ước nguyện nhỏ nhoi ấy. Đằng sau lưng hai lính gác này là một khối bê tông đúc chứa thứ tài sản đắt giá tới nỗi có đền mạng cũng khó mà bù đắp cho xuể. Nó không phải vàng bạc hay châu báu ngọc ngà gì quý hiếm, mà chính là cụm máy chủ chính - thiết bị phụ trách lưu trữ mọi thông tin liên quan đến công nghệ quân sự, các chiến dịch bí mật và cả thông tin tình báo.

Song, đó cũng chính là những thứ mà quốc gia láng giềng của Vương Quốc Âm Phủ thèm muốn, tới độ họ đã phải cất công cử một toán biệt động đi đánh cắp chúng.

Phạm Huy, một nhân viên đã có thâm niên làm việc tại căn cứ quân sự này, bất ngờ đi tới trước mặt hai lính gác và lịch sự chào hỏi.

“Tối hôm nay thế nào rồi các chàng trai? Mọi chuyện vẫn ổn chứ?”

Một người lính xem giờ trên chiếc đồng hồ đeo tay rồi đáp.

“Ừ, mọi thứ đều trong tầm kiểm soát. Mà anh đến đây để thay ca đúng không Huy, xem ra tới cũng sát giờ chuyển đổi đấy.”

“Chuẩn luôn, tôi sẽ đứng canh từ lúc này. Giờ thì các anh có thể yên tâm mà nghỉ ngơi nhé.”

Nói rồi Phạm Huy đưa tay lên chào hai người lính gác, thế chỗ của họ bằng bản thân. Đợi cho đến khi dư âm của họ đã loãng bớt trong không khí ẩm thấp, anh mới phẩy tay ra hiệu về hành lang bên trái.

Lập tức, năm đồng đội của Huy lũ lượt kéo ra, ai nấy đều đảo mắt như rang lạc để tránh bị phát hiện. Phạm Huy chìa tay ra và nói.

“Mấy ông kễnh đó thực sự khó chịu đối với tôi. Mỗi người đưa cho tôi chùm chìa khóa đi.”

Rồi ba người trong số họ đặt chùm chìa khóa cơ khí lên tay Huy. Khi đã đáp ứng đủ yêu cầu của bản thân rồi, anh biểu mọi người đứng dạt sang một bên, còn mình thì thực hiện thao tác mở khóa cửa phòng máy chủ. Nói là cửa cho sang, chứ thực chất đây là một cánh cổng làm bằng thép cán đồng nhất dày cả chục centimeter. Ở chính giữa là bảng điều khiển thao tác, Phạm Huy sẽ cắm chìa khóa vào, còn hai bên là khóa thủy lực.

“Để xem nào. Một J, Hai Q, Ba K.”

Chàng trai lẩm nhẩm nhớ lại từng bước trong quy trình. Đây không phải là một thứ dễ kiếm tìm, bởi chỉ có bộ chỉ huy của căn cứ quân sự này mới biết được hoàn chỉnh các bước. Sở dĩ Phạm Huy biết được là do anh đã gặp phải một sự cố hy hữu khi đoán mò thứ tự những chữ cái để mở khóa trong một lần canh gác đơn độc.

Xoạch.

Dải đèn LED trên bảng điều khiển sáng lên, báo hiệu mật khẩu nhập vào chính xác. Hai cần khóa thủy lực xoay ngược chiều kim đồng hồ một cách nặng nề. Tiếng kim loại chà vào nhau nghe ken két, từ hai bên bản lề có thể ngửi thấy mùi dầu máy.

“Thì ra… đây là phòng máy chủ. Không hổ danh là công nghệ lõi, lắm thứ lạ kỳ thật, khéo nhầm sang đồ của người ngoài hành tinh.”

Anh chàng điệp viên cùng những người đồng đội của mình mắt chữ a, mồm chữ o trước nội thất bên trong. Ở chính diện, một cụm máy chủ to bằng ba cái giá sách xếp liền nhau, đang phả ra hơi nóng kèm âm thanh đặc trưng. Hai chiếc tủ kính to tướng hướng đối diện máy chủ là nơi trưng bày một số mẫu vật quân sự như súng, dao và cả ống chích.

“Mọi người nhớ vơ vét nhiều nhất có thể các mẫu nhất nhé, tôi sẽ làm việc với cỗ máy khổng lồ này.”

Dặn dò tổ đội xong, Huy lao vào tìm cách lấy tài liệu mật trong máy tính. Phải, nó không hề dễ như trong mấy bộ phim hành động kiểu Mỹ, hoặc ít nhất là theo trí tưởng tượng của anh chàng. Đầu ra của máy chủ là một màn hình lồi của Nhật Bản sản xuất từ thời kỳ cuối Chiến tranh Lạnh, còn hệ điều hành nó sử dụng cũng cũ kĩ và lạc hậu chẳng kém, mọi thao tác đều phải sử dụng các dòng mã lệnh. “Chết tiệt” và “đáng nguyền rủa” là hai cụm từ mà Phạm Huy muốn thề thốt lên lúc này hơn bao giờ hết.

Đương lúc bí thì may mắn thay, anh chàng phát hiện ra một cuốn sổ kê dưới chân màn hình, trên bìa có khắc mộc đỏ và tựa đề bằng tiếng Âm Phủ và tiếng Việt “Hướng dẫn vận hành hệ thống máy chủ Synthetic cho nhân viên”. Huy mừng rơn, vội khiêng màn hình qua một bên và mở nó ra đọc. Bằng khả năng của một điệp viên đã qua đào tạo nhiều năm, anh đã nhanh chóng nắm được các thao tác để tiếp cận tệp tin trong máy chủ.

Tuyệt vời, vào việc luôn cho nóng.

Phạm Huy lần lượt nhập mười dòng mã và thâm nhập được vào danh sách của Bộ Tư lệnh các Lực lượng Hoàng gia. Chúng chứa rất nhiều các chiến dịch sắp tới, vốn nhắm vào những địa điểm trọng yếu của quân Cộng Hòa và có liệt kê các vũ khí dự kiến triển khai. Lúc này, anh mới vạch ống quần của mình và lấy ra một cái đĩa mềm loại mật độ cao, sau đó đút nó vào đầu đọc để sao chép toàn bộ danh sách đó ra.

Tranh thủ lúc chờ các tệp được ghi lại trong đĩa, Huy tranh thủ đứng lên ngắm nhìn từng góc cạnh của căn phòng, tiện cài luôn máy quay gián điệp nhằm chuẩn bị cho về lâu về dài. Đột nhiên, đôi mắt chàng trai phát hiện ra một hộp nhỏ đựng đầy các đĩa mềm ở góc bàn. Khi mở hộp ra xem thì anh lại càng vui sướng hơn, vì những chiếc đĩa dẹt hình vuông này lại chứa đựng cả ngân sách quốc phòng và sự hợp tác với nhà thầu quân sự Freedom Fighter. Huy khẽ reo lên trong thích thú.

“Trúng mánh rồi!”

Sau một hồi sục sạo khắp căn phòng, cả tổ đội biệt động, dẫn đầu bởi Phạm Huy đã thu thập được một lượng lớn các tài liệu tuyệt mật, các mẫu vật quân sự như súng ống và đạn dược. Một người thuộc cấp của anh ta liền nghiêm chỉnh báo cáo.

“Thưa ngài, tất cả các bao da và túi quần của chúng tôi đã chật cứng rồi ạ!”

“Các cậu đã vất vả rồi…”

Đoạn Huy chỉnh lại thiết lập máy chủ về trạng thái ban đầu. Một lúc sau, anh hí hửng giơ hộp đĩa mềm lên khoe với mọi người trong phòng rằng đó là phép màu của thần thánh.

Xong xuôi, chàng điệp viên lại mở cánh cổng dày nặng cho cả đội ra hành lang bộ. Họ tiếp tục men theo con đường cũ ở phía tay trái, sử dụng thang máy chở hàng nhằm tránh bị phát hiện.

Chẳng mấy chốc, cả đội đã lên tới khu vực chấm công. Huy thu lại toàn thẻ của đội, trả lại cho máy xác nhận rồi cùng năm người đồng đội lên bãi đỗ xe. Cứ như thế, chiếc Land Cruiser công vụ đã rời cổng căn cứ, rồi đi khỏi tầm mắt của toàn thể nhân sự làm việc tại cảng biển Má Dên trong im lặng. Chiến dịch Sioux Falls đã thành công ngoài mong đợi.

Ngày 10-09-2045.

Thị trấn Tây Thành, cách tỉnh lỵ của tỉnh Uông Vệ mười cây số về phía Nam.

Nguyễn Phạm Gia Phú tỉnh dậy trên một chỗ ngủ dựng bằng đệm ba khúc và gối lông ngỗng. Chung quanh căn phòng rộng bốn mươi mét vuông này chỉ có một cái tủ lạnh nhỏ và tủ âm tường để đựng quần áo, gọi là tạm bợ. Nơi anh đang tạm trú đây có thể nói là thuộc hàng “nhất phẩm” trong số các nhà khách tại thị trấn hậu phương xinh đẹp này. Hầu hết các khách sạn đẹp, sang trọng bậc nhất và ở vị trí đắc địa nhất lại nằm trong vùng chiến sự giữa quân đội hoàng gia và quân phiến loạn, buộc lòng tòa soạn phải đặt ở nơi này. Cách duy nhất để tiếp cận với nguồn tin là thuê xe tự lái lên đó.

Đôi mắt Phú hé mở, để thấy thật rõ khung cảnh bên ngoài khung cửa sổ. Cách xa cái thung lũng ngập mặn này vài chục cây số chính là dãy núi Uông Vệ hùng vĩ, cao một cách hiên ngang để tạo nên bức màn ngăn cách chân trời. Tuy đã lốm đốm những chấm đen mùi pháo cối, nhưng xem ra không gì có thể vặt trụi được lớp phủ xanh rờn quanh sườn núi. Đồng thời, đó cũng chính là trung tâm hành chánh của vùng địa lý này.

Khi tâm hồn đã được tiếp thêm năng lượng từ mẹ thiên nhiên cao cả rồi, Phú mới đổi điểm nhìn sang phía ban công kia. Một cặp đùi trắng nõn nà, một mái tóc dài và một thân hình đẫy đà đương kỳ trổ mã của con gái. Không gì khác, chính là Loan, người đồng sự của Phú trong bộ váy ngắn cũn cỡn rất mực khiêu dâm.

Ườn mình trong chiếc chăn mỏng làm từ tấm ga giường cũ, anh chậm rãi bước đi về phía ban công. Cứ mỗi bước chân đi, Phú càng thấy mùi hương của dầu gội tỏa ra ngào ngạt hơn, như thể một đóa hoa râm bụt đang mời gọi con người đến vậy. Anh cứ thế với với hai cánh tay của mình hòng chiếm hữu vật thể quý giá này.

Chúa, hãy cho con một khoảnh khắc để lộ bản tính hoang dại này.

Bất thình lình, Loan quay sang làm Phú ngã ngửa xuống. Thấy anh trông có vẻ khác lạ so với thường ngày, cô liền ngồi bệt xuống sàn mà hỏi.

“Tối qua anh có uống phải thuốc gì không, sao sáng nay lại như thế này?”

Anh nhà báo điềm tĩnh đáp.

“Không, tôi hoàn toàn ổn. Chỉ là hôm nay trời đẹp quá nên tôi muốn ra ngoài ngắm mà thôi.”

“Hở? Anh có thành thật với bản thân không đó, hay phải để thằng đệ trả lời?”

Loan nhíu mày. Phú tự hỏi về cái thứ gọi là “thằng đệ” được đề cập đến trong câu nói vừa rồi của cô. Anh nhìn mọi thứ chung quanh nhưng chẳng có gì liên quan cả, ấy là cho tới khi điểm nhìn của chàng trai hướng xuống đũng quần.

“Thôi toang rồi, toang thật rồi”. Anh chàng Phú phủ phục, mặt chuyển sắc xanh như tàu lá chuối. Dù cho anh đã gân cổ lên bảo vệ cái luận điểm của mình, nhưng cái xúc xích thịt nhỏ trong quần anh lại cố gắng giữ vững lập trường cá nhân, tạo ra sự mâu thuẫn không đáng có này. Phú đã bị chính cơ thể của mình phản bội, lúc này anh chỉ muốn đội mười cái quần rồi chui vào cái hố ga cho xong.

Bằng nỗ lực và chút liêm sỉ còn sót lại, Phú cố gắng bào chữa cho bản thân trước “chủ tọa”.

“À không, cái này là nó chỉ là chuyện thường ở phố huyện đối với cánh mày râu chúng tôi thôi, ê hê hê hê…”

May mắn đã mỉm cười với chàng nhà báo hai mươi tám tuổi, khi cuối cùng thì Loan cũng thở dài…

“Ủa vậy hả? Thế là tôi đã hiểu lầm cho anh rồi. Đã là tám giờ sáng rồi đó, chúng ta chuẩn bị xuống sảnh dùng bữa sáng đi.”

“Được thôi, cô hãy chờ tôi một lát.”

Nói rồi Phú chạy vào phòng tắm ngay cạnh đó. Năm phút sau, anh bước ra với bộ thường phục gồm áo phông đen và quần bò, bởi anh không muốn đồng phục cấp bởi cơ quan bị rách hay bẩn, để rồi lại phải mất công giặt tay. Tuy vậy, Phú vẫn mặc đầy đủ áo giáp và mũ chống đạn, kèm theo cái máy ảnh chuyên dụng và vài món đồ, nom khá lỉnh kỉnh.

Tất cả các nhà báo đều đã tập hợp đông đủ dưới tầng trệt, nơi được chủ khách sạn tận dụng làm quán cóc phục vụ đồ uống. Trên chiếc bàn pha chế lúc nào cũng gần như trống không vì thiếu cả nguyên liệu và ấm chén. Ấy vậy mà giá thành cứ ngày một leo thang, khiến chủ quán chỉ xếp vài ba bộ bàn ghế bằng mây, chứ chưa dám đầu tư mạnh tay hơn cho khoản trang trí.

Nhâm nhi tách cà phê buổi sáng, đoàn nhà báo cùng nhau bàn kế hoạch cho một ngày làm việc mới. Bên cạnh những câu chuyện phiếm, mỗi người đều có một cái máy tính cho riêng mình để nhận thông báo về những cuộc tập kích của quân đội, tránh trường hợp vô tình lạc giữa làn đạn của hai phe.

Phú gọi một cốc bạc xỉu đá, kèm theo ổ bánh mì hoa cúc rồi mở máy tính xách tay lên xem thông báo từ Tổng chỉ huy các Lực lượng Hoàng gia gửi tới hòm thư điện tử. Sau đó, anh tiếp tục thói quen thường ngày của mình, đọc báo mạng để nắm bắt được thông tin từ khắp mọi miền của xứ sở linh hồn, bao gồm cả “cố quốc” láng giềng Cộng Hòa Liên Bang Âm Phủ.

Bất chợt, Loan huých vai anh.

“Sao chỗ này lại có thể nguy hiểm đến vậy chứ? Thật là đáng sợ đối với giới phóng viên chúng ta!”

“Thì tất nhiên rồi, nếu nó không đáng sợ thì giờ này chúng ta đã phải chạy sô đến rụng giò, lấy đâu thời gian để thư giãn như thế này!”

Anh chàng nhăn mặt, còn cô nàng nổi tiếng đỏng đảnh trong tòa soạn chỉ biết cúi đầu mà làm việc. Dường như Loan đã nhận ra rằng đó là câu hỏi ngốc nghếch nhất trên đời. Cô lặng lẽ nhường lượt cho các đồng nghiệp khác hỏi Phú.

“Chúng ta có nên hợp lại thành các nhóm để đảm bảo an toàn chung không?”

Ngay lập tức, Phú đã gạt phăng lời đề nghị đó ra.

“Không được, nếu vậy thì khi gặp phiến quân sẽ còn nguy hiểm hơn nữa. Bộ các anh không sợ bị chúng thủ tiêu trong lúc vợ và con thơ đang ngóng chờ hay sao?”

Rồi phía bên kia cũng phản bác lại với luận điểm sẵn có của mình.

“Bản thân chúng ta đã chọn cái nghề này rồi, nên cũng chẳng thể chống lại được cái định mệnh ấy. Tôi biết anh chưa có vợ con gì ở đây cả, nhưng đừng vì thế mà…”

“Tào lao! Sắp tới tôi sẽ đi cưa cho đổ mấy mỹ nhân trong công ty, nhất là mấy con nhỏ bánh bèo ấy!”

Chẳng để người ấy nói hết, Phú đã chặn họng luôn rồi. Thế là anh ta cũng quay trở về với quỹ đạo tiêu chuẩn của một nhà báo. Loan dù ngoài mặt không thể hiện gì, nhưng bên trong cũng ngầm hiểu Phú đang ám chỉ ai.

Sau cùng, các đồng nghiệp của Phú đã thảo xong lịch trình di chuyển ngày hôm nay. Điểm đến chủ yếu của họ vẫn là những làng, xã nằm trong vùng giao tranh, song có chút khác biệt. Vẫn là sự phối hợp chặt chẽ với nhau, nhưng họ sẽ chỉ quay khung cảnh chiến đấu trực diện ở các khu vực an toàn, thường là chi nhánh của Hội Chữ thập đỏ hay đài phát thanh. Việc này có thể được thực hiện bằng một bức điện kiểu mẫu.

Về phần Phú, anh đã thảo xong kế hoạch cho cả ngày dài vào một cuốn sổ nhỏ, dựa trên thông báo mới đưa vào sáng sớm từ phía quân đội hoàng gia. Tổng cộng, hôm nay sẽ có ba cuộc càn quét nhắm vào các xóm thuộc tỉnh lỵ. Qua đó, Phú có thể dự đoán được khi nào sẽ là thời điểm vàng cho những pha “phó nháy” và ghi nhận tin tức giữa chiến trường rực lửa. Nhưng dĩ nhiên, anh vẫn luôn luôn đặt tính mạng của bản thân lên hàng đầu.

Uống xong cốc bạc xỉu, Phú đứng dậy khoác tư trang rồi đi về phía cửa nhà khách, bắt đầu chuyến săn tin. Ánh nắng chói chang muôn nẻo. Cơn gió nóng của miền khí hậu nhiệt đới vỗ vai chúc phúc cho chàng trai trẻ nhiệt huyết ấy.

Phố phường ở đây “xôi thịt” hơn hẳn so với cái thành phố Hải Mộ “bơ sữa”. Những cột đèn xiêu vẹo vì rung chấn chưa được sửa, các dãy nhà lụp xụp nối liền kề nhau ở hai bên quốc lệ, đôi lúc thoang thoảng mùi lá thuốc và nước điếu hôi rình. Đường xá cũng chả khá khẩm là bao, cứ một hai cây số là xuất hiện ổ gà trên quốc lộ 15C - huyết mạch nối cả tỉnh với phần còn lại của vương quốc. Trên đường đi, đôi lúc Phú có ghé vào vài sạp hàng để mua đồ.

Điểm đến đầu tiên của Phú là tổng kho chuyển phát nhanh. Anh đến đây không phải để gửi, mà là nhận một gói hàng nặc danh gửi từ chốn đô thành.

“Kính chào quý khách!”

Giọng đon đả của nhân viên đã cất lên từ lúc Phú bước vào. Dù trên danh nghĩa là kho chứa, nhưng nơi này vẫn được tích hợp thêm bộ phận nhận và làm công tác vận chuyển. Trên trần, điều hòa thổi hơi lạnh xuống phà phà, đánh bay cái nóng đến cháy họng. Phú đưa bản sao của tờ vận đơn cho nhân viên ở quầy chăm sóc khách hàng xem, còn mình thì ra hàng ghế phía đối diện ngồi chờ.

Một lúc sau, nhân viên gọi anh ra lấy đồ. Một cái hộp hình vuông được bọc gói vô cùng kỹ càng, cầm lên thấy nặng tựa chì đúc. Phía trên, tem chỉ ghi độc tên người nhận, còn mục người gửi thì điền như cho có vậy. Dĩ nhiên, ẩn danh là đối với đơn vị vận chuyển, còn Phú thì lạ gì về nguồn gốc và thông tin về người gửi món đồ này.

“...Đúng là hết khôn dồn đến dại.”

Đúng vậy, điệp viên Coma đã thừa lệnh của Tổng Cục Tình báo Hải ngoại thuộc chi nhánh trần gian mà gửi tận tay chàng trai món hàng này. Nhưng còn nội dung bên trong thì phải tự tay Phú mở mới biết được. Anh ôm gói hàng hướng về phòng vệ sinh.

“Thề với chúa, lần sau mình sẽ không nhận đồ linh tinh nữa. Quả là tốn kém về sức lực và thời gian.”

Anh chàng đặt gói hàng lên bệ rửa tay rồi bắt đầu khui nó, mặt trông khá chán nản. Bên trong là một cái hộp sắt hình chữ nhật khác, trên có dán một tờ giấy nhỏ. Chẳng chút ngần ngại gì, Phú đọc nội dung thành từng tiếng rất to và rõ ràng.

“Một cái cho anh, cái còn lại dành cho Phong ở căn cứ làng Lãnh.”

Cho dù có vẻ khá nghi ngại, nhưng Phú vẫn tiếp tục mở chiếc hộp sắt kia. Anh trố mắt lên đầy bất ngờ trước những gì bên trong đó. Hai khẩu súng lục được tháo rời ra và sắp xếp ngăn nắp, mỗi bộ phận đều được bọc xốp bảo vệ dày cui. Góc dưới cùng ở bên phải được dành riêng cho một lọ dầu bôi trơn nhỏ, mảnh giấy hướng dẫn sử dụng và bảo trì.

Lúc này, hàng tá câu hỏi hiện ra trong đầu Gia Phú. Khẩu súng này tên là gì, xuất xứ của nó từ đâu? Phong là thằng cha nào? Tại sao anh lại phải đưa một cây súng cho hắn ta? Mọi thứ cứ rối tinh rối mù cả lên, khiến anh nhà báo bối rối vô cùng tận. Thôi thì cứ tuân theo vậy, biết sao bây giờ, vứt nó đi cũng có được ích lợi gì đâu.

Để bắt đầu chuyến hành trình này, trước hết Phú cần phải nắm được vị trí của làng Lãnh. Đây thực sự là một điều quá quắt khi nó lại nằm ngay trong vùng quân nổi dậy đang chiếm đóng, hầu như ngày nào báo mạng cũng đưa tin về số người thương vong cao kỷ lục. Hơn nữa, đây cũng là làng lớn nhất khu vực, với số lượng chòi gác và điểm đóng quân dày đặc theo ảnh từ vệ tinh, kiếm sao nổi ông quân nhân tên Phong kia?

“Tiên sư bố đứa chết dẫm nào nhờ tao đưa thứ này lên chiến tuyến.”

Hàm răng của Phú nghiến ken két đến lạnh sống lưng. Chàng trai lại rút cuốn sổ tay cá nhân và thảo nhanh bản đồ địa hình của làng Lãnh. Anh quyết định chọn cách tiếp cận từ làng Hắc Hàn, từ khi nơi này có chung một dải ngăn cách chừng hai đến ba cây số phía Tây Bắc. May mắn là trên tờ giấy dán ở cái hộp có ghi mã liên lạc SecretText của Phong nên Phú có thể hẹn gã này ở một điểm nào đó, Hội chữ Thập đỏ chẳng hạn.

Không thể đợi thêm được nữa, Phú lấy điện thoại ra gọi thẳng tới Phong luôn. Rất nhanh chóng, một giọng nói đã xuất hiện, đi kèm với tiếng hò la ầm ĩ của đám đông sát đó.

“Xin chào, đây là Phong. Ai ở đầu dây bên kia đấy?”

Phú nghiêm túc đáp lại.

“Tôi là người giao súng cho anh đây.”

“À, phải rồi, ngài đại sứ của nước láng giềng đã gửi cho tôi tin nhắn như vậy. Chúng ta có thể gặp nhau ở đâu đây, thưa anh?”

“Trụ sở Hội chữ Thập đỏ tỉnh Uông Vệ thì sao?”

Đầu dây bên kia có vẻ khá chần chừ trước đề nghị của Phú.

“Hừm.. cũng được, nhưng sẽ mất khá nhiều thời gian cho tôi đây. Khi đến, hãy mời tôi một ly nước nhé, từ sớm tới giờ gào thét đến cháy cổ rồi.”

“Được.”

Phú gằn giọng rồi cúp máy. Chàng nhà báo thở dài rồi thẫn thờ nhìn hai khẩu súng bị tháo tung.

“Lắp thôi nào, còn chờ chi nữa?”

Nói rồi anh mở tờ hướng dẫn bảo trì của súng. Mã hiệu “Phase 1” ghi bằng bút lông cho thấy chúng là những nguyên mẫu rất mới, còn chưa kịp đem ra thử nghiệm. Dường như Phạm Huy và tổ đội do anh ta trực tiếp chỉ huy đã đánh cắp từ xó nào đó của căn cứ quân sự Má Dên, Phú thầm nghĩ.

Đột nhiên, trong đầu anh ký giả lóe lên một ý tưởng. Anh ta nheo mắt lại, miệng dứt khoát hô.

“Overload!”

Tức thì, cả hai mắt Phú đỏ rực lên, đồng tử thì thu phóng với tần suất điên rồ. Anh chậm rãi lắp từng bộ phận vào với nhau, trước mỗi lần cố định phải sờ lướt qua để định hình chất liệu và cấu trúc của nó. Kết hợp với trí nhớ hình ảnh sẵn có, Phú có thể ghi nhớ chi tiết hình dáng, chất liệu và thậm chí là cả thông số cơ khí của bộ phận anh đã sờ qua.

Ba mươi phút sau, hai khẩu súng lục đã được lắp ráp hoàn thiện. Nòng súng được thiết kế với một đầu che tia lửa nhô ra, bộ vỏ được làm nhám để cải thiện độ cầm nắm của xạ thủ. Khẩu súng với mã hiệu AP-45 này sử dụng cơ cấu nạp đạn bằng độ giật, khá ngược đời với những loại vũ khí nổi tiếng. Ngay cả loại đạn nó sử dụng cũng vô cùng đặc biệt, với đầu đạn chuyên dùng cho việc xuyên và công phá, không gây tiếng động khi khai hỏa và có thể bắn được dưới nước.

Vừa mới ráp xong ống ngắm hồng ngoại đi kèm, Phú đã thử chơi đùa với món vũ khí này. Anh đã cười toe toét như một đứa trẻ khi thử tạo tư thế của một sát thủ cùng khẩu súng. Cũng phải lâu lắm rồi, Phú mới tự tay lắp ráp một món vũ khí nào đó, kể từ hồi còn tham gia gìn giữ hòa bình ở châu Phi. Một khẩu giắt vào mắt cá chân, khẩu còn lại đựng trong chiếc túi đeo chéo nhỏ mới mua được dọc đường, anh đã sẵn sàng cho điểm đến tiếp theo.

Ra khỏi nhà vệ sinh, Phú dõng dạc hỏi nhân viên của kho vận chuyển về nơi thuê xe tự lái. Người đó bèn đáp.

“Ồ, xa lắm khách hàng ơi, anh cần phải bắt xe buýt đi lên quận Đông thì may ra mới có chỗ cho thuê. Mấy nay chiến sự ác liệt, quân sĩ toàn bắn nhầm tài sản của dân thôi, chán đời lắm.”

“Th - thật vậy sao? Cảm ơn anh nhiều lắm, tôi phải đi đây.”

Cảm thấy xấu hổ không chịu được, Phú đành thất thểu đi ra. Hóa ra định vị đã cập nhật trễ về nơi anh có thể thuê xe, bởi phần lớn trong số chúng đã bị tàn phá nặng nề nên buộc phải ngưng phục vụ. Hết cách, anh ký giả liền ra trạm chờ xe buýt gần đó, miệng lẩm bẩm chửi thề giữa nắng gắt.

Lát sau, có một chiếc xe buýt cũ kỹ chậm rãi dừng lại trước mặt Phú. Nhìn vẻ ngoài rỉ sét, bên thân thủng một lỗ lớn làm cho dung môi làm mát tràn ra ngoài như suối, anh không khỏi lo lắng. Không cần phải bàn cãi thêm nữa, đây quả thực là một chiếc xe bất ổn. Tuy vậy, chàng ta vẫn cứ lên xe như thường, trong lòng chỉ ước đừng xảy ra điều gì bất thường.

Môi trường trong chiếc xe này quá đỗi khác biệt so với bên ngoài. Bụi đường, mùi da giả xộc lên cùng món quà khuyến mãi là độ rung lắc kinh khủng đủ làm bất cứ ai có tiền đình tốt cũng đều phải xây xẩm mặt mày. Về phần Phú, anh không dám ngồi xuống ghế, thay vào đó là nắm chặt thanh sắt trên trần xe bằng cả hai tay.

Địa hình dần dần thay đổi. Từ đường nhựa, nay chiếc xe khách đã đến với cung đường đầy sỏi đá, mang theo vài chục mạng. Những bóng cây rừng mọc dựng đứng nơi vách núi, còn phía dưới là sương mù bao phủ vực thẳm tử thần. Song, bù lại cho sự đáng sợ ấy là nhiệt độ mát mẻ và luồng không khí ẩm thấp, mang lại cảm giác dễ chịu cho đoàn khách trên con thú nhún di động.

Sau cùng thì chiếc xe buýt xập xệ đã hoàn thành chuyến đi của nó tại đỉnh Uông Vệ. Phú lảo đảo bước xuống, trong người cảm thấy vô cùng nôn nao. Anh ngồi thụp xuống nền cỏ xanh tươi, dựa vào biển chỉ dẫn cạnh đó mà thở dốc.

“Ôi tía má ơi, chắc con chết mất. Đây là hành kinh chứ có phải lữ hành đâu.”

Chợt nhớ đến bình tông đeo bên vai, chàng ký giả vội mở nó ra rồi tu đến cạn hơi. Cảm thấy cơ địa có vẻ ổn định hơn, anh khó nhọc đứng dậy và đến điểm dừng chân đã định.

Nếu thung lũng dưới kia là một cái chảo rang, thì trên này lại hoàn toàn ngược lại. Được Diêm Vương ban cho khí hậu mát mẻ, đây là nơi hiếm hoi có thể thấy cây trái mọc um tùm, đến độ lũ trẻ con có thể ngồi vắt vẻo trên cành mà thưởng thức hoa quả. Dân cư ở đây ăn mặc cũng thoáng hơn hẳn, khác với cái cảnh trùm khăn kín mít như người Hồi giáo dưới thung lũng. Đi đến đâu, Phú cũng lôi máy ảnh ra làm một tấm.

Làng Hắc Hàn đã hiện ra trước mắt Phú sau vài phút cuốc bộ. Dù nằm sát vùng chiến sự, nhưng phần lớn các công trình tại đây còn tương đối nguyên vẹn. Ngay trước cổng làng đã có nguyên dàn lính bảo an án ngữ, mặt ai nấy đều nghiêm nghị. Phú thừa hiểu mình không nên dây dưa vào bọn họ nên chỉ xuất trình thẻ nhà báo rồi lặng lẽ tiến vào làng.

Từng ngôi nhà ở trong làng Hắc Hàn đều được căng băng rôn và khẩu hiệu cảnh báo. Con đường bê tông đã nứt vụn vì phải chịu trọng tải của xe quân dụng. Không khí sặc mùi bom đạn và sự sợ hãi của quần chúng nhân dân. Càng đi sâu bên trong, Phú càng cảm tưởng như mình đang ở miền Nam Việt Nam hồi trước giải phóng.

Sát làng Lãnh chính là tòa nhà Hội chữ Thập đỏ địa phương - điểm dừng chân cuối cùng của Phú. Tuyến giao thông duy nhất tại đây đã bị bom đạn cày xới cho tơi tả, phương tiện khó mà di chuyển nổi. Chàng nhà báo phải khó khăn lắm mới giữ được cho gấu quần không bị lem nhem vì nước bùn. Nơi ngã tư cuối làng Hắc Hàn, Phú vô tình bắt gặp một người đàn ông đang nhàn nhã châm xì gà. Gu ăn mặc của anh ta khá xộc xệnh, với bộ áo bà ba đen và chiếc nón lá đã mốc vành. Đương lúc Phú định vượt lên thì kẻ lập dị đó đã níu tay anh lại.

“Ê, nhớ tôi chứ?”

Người đàn ông è cổ một cái. Phú cũng chẳng biết rõ anh ta là ai, nhưng vẫn dám buột miệng.

“Tôi biết, anh là Phong phải chứ?”

Thật may mắn cho anh ký giả, đó lại chính là câu trả lời đúng.

“Chuẩn như Lê Duẩn! Đi thôi nào, trước khi đám lính phát hiện ra chúng ta.”

Dứt lời, người đàn ông đó kéo Phú đi về phía cái biển hiệu chữ thập đỏ to tướng như một bóng ma.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận