Quyển 01: Thế giới muôn màu
Chương 30: Đời này có tiếc không
1 Bình luận - Độ dài: 5,373 từ - Cập nhật:
Tôi là Hirsch Llama.
Sinh ra ở một gia đình tiểu thương ở ngoại ô Winsor, tôi sớm thể hiện tài năng ma thuật vượt trội so với những đứa trẻ đồng trang lứa. Khi mới ba tuổi, tôi đã có thể cảm nhận và điều khiển những luồng mana xung quanh mình. Đến năm năm tuổi, tôi thi triển được phép thuật đầu tiên. Và vào năm tám tuổi, tôi đạt được tấm chứng nhận Pháp sư danh giá - một thành tựu mà nhiều người lớn phải hằng đêm khao khát.
Điều đó nhanh chóng đưa tôi vào tầm ngắm của giới thượng lưu Winsor. Winsor luôn được biết đến như là thánh địa của các pháp sư, nó biết cách nuôi dưỡng và tạo nên những thiên tài xuất chúng. Cuộc sống của cha mẹ tôi thay đổi chóng mặt, chuyện làm ăn ngày càng thuận lợi nhờ sự ưu ái từ những tên quý tộc. Thỉnh thoảng, họ còn gửi đến nhà tôi những món quà xa xỉ, hòng lôi kéo một mối quan hệ với tôi.
Các tiến sĩ, giáo sư ma pháp danh tiếng cũng không đứng nhìn. Họ liên tục gửi những lời mời vô cùng hấp dẫn, thế là tôi đã đồng ý. Và tôi đã đúng, tài năng thô sơ của tôi được mài giũa và thăng hoa, chẳng mấy chốc, giới ma thuật bắt đầu gọi tôi bằng một danh xưng đầy kiêu hãnh: Ngôi sao sáng của Winsor.
Mười hai tuổi, tôi chính thức nhập học tại Học viện Victoria, một ngôi trường danh tiếng mà bất kỳ pháp sư nào cũng mơ ước được đặt chân đến. Chính tại đây, tôi gặp được Giles Corey (một người mà sau này sẽ trở thành bạn thân của tôi!). Giles đến từ Daventry, một đất nước khá xa xôi. Cậu xuất thân từ một gia đình quý tộc danh giá nơi đó, hiển nhiên rồi, nếu không sao lại đủ điều kiện đến du học ở tận Victoria chứ.
Ban đầu, tôi cứ đinh ninh rằng Giles là một người rất lạnh lùng. Cậu hiếm khi chịu mở miệng nói chuyện, thậm chí thường xuyên lườm người khác với ánh mắt sắc lạnh. Giờ nghĩ lại, hình như cậu ấy chỉ đối xử như vậy với riêng mình tôi thôi, ha ha… Nhưng phải thừa nhận, thiên phú ma thuật của cậu ấy rất đáng gờm. Suốt những năm học đầu tiên, hai chúng tôi luôn thay phiên nhau chiếm giữ hai vị trí đầu bảng thành tích của mỗi học kỳ.
Khoảng thời gian đó, tôi không có nhiều bạn bè… Được rồi, nói thẳng ra là tôi không có bạn. Nhưng tôi khá chắc vấn đề không nằm ở tôi. Những học sinh khác dường như chỉ quan tâm đến mấy chuyện vô thưởng vô phạt như những cuốn tiểu thuyết lãng mạn, phiêu lưu (vô cùng nhàm chán) hay là các món ăn sành điệu nào đó (với cái giá cắt cổ). Đôi lần, tôi thử bắt chuyện với vài người. Nhưng mỗi khi tôi hào hứng đề cập với họ về nghiên cứu mới nhất của ông René hay phát minh độc đáo của ông Isaac, họ chỉ đáp lại bằng những nụ cười đầy gượng ép rồi quay về với mấy chủ đề tầm phào kia.
Mười lăm tuổi, bài kiểm tra cuối năm ba tại Học viện Victoria yêu cầu học sinh phải hoàn thành một nhiệm vụ được đăng ký ở Hội Mạo Hiểm Giả. Học sinh được chia nhóm bởi các giáo viên, và mỗi nhóm sẽ nhận nhiệm vụ với độ khó được chọn lọc kỹ càng. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi biết mình cùng nhóm với Giles Corey. Trong cái trường toàn người kỳ quặc này, cậu là người bình thường duy nhất sẽ đáp lời khi tôi đề cập đến mấy bài nghiên cứu ma thuật.
Giáo viên sẽ không tham gia nhiệm vụ cùng học sinh, vì cái lý do gọi là trải nghiệm chân thực gì đó. Nghĩ lại, nghe thật ngốc nghếch mà, sao lại xem thường sinh mạng con người đến như vậy được chứ. Nhóm chúng tôi có bốn người, ít hơn các nhóm khác. Lý do mà giáo viên đưa ra khá đơn giản: cả bốn đều là những pháp sư xuất sắc mà. Ngoài tôi và Giles, nhóm còn có Martha và Watson, hai học sinh thuộc top đầu của trường. Với đội hình xịn sò như vậy, chẳng có nhiệm vụ nào làm khó được chúng tôi.
Nhiệm vụ của nhóm chúng tôi là săn một con wyvern non ở ngoại ô Venna. Wyvern thường chỉ sống ở Nam lục hoặc phía nam của Tây lục. Việc có một con wyvern xuất hiện ở Daventry khá là bất thường, nên chúng tôi được yêu cầu săn hạ và khuyến khích rằng nếu có thể, điều tra xem lý do nó lạc đến Daventry. Wyvern non có kích thước chỉ tầm 2 đến 3 mét và lớp da dày của chúng chưa phát triển hoàn thiện nên dễ dàng có thể bị xuyên qua bởi những phép đơn giản. Tuy nhiên, nhiệm vụ này để treo vài tháng mà chưa có mạo hiểm giả nào hoàn thành. Nếu để lâu quá thì con wyvern sẽ trưởng thành và lúc đó, chuyện sẽ phiền phức hơn rất nhiều.
Giles tỏ ra hào hứng hơn hẳn khi đến Venna. Tôi nghe loáng thoáng cậu và hai người khác trong nhóm trò chuyện, có vẻ như đây là quê nhà của cậu. Chúng tôi dành 2 ngày đầu để đi dạo quanh Venna, một ngày để thu thập thông tin về con wyvern và mất nửa ngày để đánh hạ nó. Việc này đơn giản hơn tôi tưởng, nhóm chúng tôi có vẻ phối hợp với nhau khá ăn ý.
Thời hạn của nhiệm vụ là hai tuần, thế nên sau khi hoàn thành xong quá sớm, chúng tôi quyết định ở lại Venna tận hưởng kỳ nghỉ tạm thời này. Ba người bọn họ bắt đầu trò chuyện với tôi nhiều hơn, họ dần chịu lắng nghe tôi nói và tôi hy vọng rằng sớm thôi, họ sẽ hiểu vẻ đẹp trong học thuyết mà ông Talbot đưa ra. Đùa thôi, khó khăn lắm mới có mấy người bạn, tôi sẽ tạm thời cất giấu cái ý tưởng đó đi, sau này thân hơn chút thì tôi sẽ kể cho họ nghe về ông Talbot sau.
Vào ngày thứ mười của kỳ nghỉ, Giles bất ngờ tuyên bố cậu đã tìm được manh mối cho sự xuất hiện của con wyvern. Watson và Martha có vẻ chẳng mấy hứng thú, nhưng tôi thì khá là tò mò. Tôi quyết định đi xem manh mối mà Giles nói, hai người kia thấy vậy cũng đành tạm gác kỳ nghỉ lại và tham gia cùng. Dù sao, một chuyến phiêu lưu trinh thám đầy kịch tính thế này cũng chẳng phải điều gì tồi tệ.
Hóa ra, con wyvern non đó từng bị một tổ chức nghiên cứu động vật trái phép giam giữ. Vài tháng trước, nó đã xổng chuồng bỏ chạy, tuy nhiên thay vì báo cáo sự việc, tổ chức này quyết định chọn cách giữ im lặng. Giles tỏ ra cực kỳ phẫn nộ khi biết chuyện. Cậu bảo không thể dung túng cho một tổ chức nguy hiểm như vậy ngang nhiên hoạt động ngay giữa lòng Venna được.
Chúng tôi lẻn vào tổ chức phi pháp này để điều tra và thu thập chứng cứ. Một lần nữa, nhóm lại thể hiện khả năng phối hợp hoàn hảo cùng thiên phú ma thuật đỉnh cao của mình. Nhưng càng tiến sâu vào bên trong, chúng tôi càng nhận thấy nhiều manh mối kỳ lạ khiến người ta sởn tai gai ốc, và chúng dần kết nối lại thành một bức tranh hoàn chỉnh đầy khủng khiếp: tổ chức này là một phần của giáo hội Cerriluna.
Ngay trước khi chúng tôi kịp đem chứng cứ rút lui, một tên giáo sĩ Cerriluna chặn đường chúng tôi lại. Tên giáo sĩ sử dụng những phép thuật kỳ dị mà tôi chưa bao giờ thấy đến, không có trong những bài giảng hay bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào. Như thể hắn nắm giữ chìa khóa dẫn lối đến một thế giới ma thuật hoàn toàn mới. Mặc dù khởi đầu hơi chật vật và choáng ngợp trước ma thuật kỳ lạ của tên giáo sĩ, chúng tôi nhanh chóng lấy lại tinh thần và một lần nữa (lần thứ ba rồi) thể hiện khả năng chiến đấu tuyệt vời của mình… Lần này không được hoàn hảo cho lắm.
Giles đã tung cú kết liễu xuyên thẳng lồng ngực của gã giáo sĩ khiến gã gục ngã ngay tại chỗ. Sau đó, chúng tôi ngay lập tức chạy lại chỗ Martha, người đã lấy thân mình cản lại cái phép thuật quái gở của tên giáo sĩ. Nửa bên người của cô đã tan chảy thành một thứ chất lỏng đặc sệt, đen đúa, lúc nhúc như thể có sự sống. Dù chúng tôi cố gắng hết sức nhưng không lâu sau cô ấy đã ngừng thở. Tôi không thể rời mắt khỏi cảnh tượng kinh hoàng trước mặt. Thứ bùn đặc quái dị vẫn ngọ nguậy, dần nuốt chửng lấy thân xác Martha.
Chúng tôi đã đốt xác cô ấy, đúng theo những gì giáo trình Phòng chống tà thuật đã dạy. Cuối cùng thì cảnh vệ của Venna cũng xuất hiện. Họ dọn dẹp chiến trường và giam giữ những tên thuộc tổ chức nghiên cứu động vật trái phép. Chúng tôi cũng bị giữ lại để tra hỏi, hôm sau lại có thêm vài vị giáo viên từ Victoria đến. Bọn họ trao đổi với nhau vài điều gì đó rồi mấy ngày sau chúng tôi được một vị giáo viên hộ tống trở về.
Trên đường về, bầu không khí trong toa xe ngựa ngột ngạt đến khó thở. Watson ngồi co mình vào một góc, ánh mắt trống rỗng. Thỉnh thoảng, tiếng nấc khe khẽ vọng ra từ chỗ cậu. Giles thì khác, đôi mắt cậu đỏ ngầu, nhưng không hề rơi một giọt nước mắt nào. Thay vào đó, cậu cứ lặp đi lặp lại những lời trách móc, giọng khàn đi vì kiệt sức và phẫn nộ.
Ban đầu, cậu trách nhà trường, rằng họ làm việc tắc trách, rằng hệ thống kiểm tra ngu ngốc và nguy hiểm này đáng ra phải bị dẹp bỏ từ lâu. Rồi cậu lại trách Venna, trách họ làm cái quái gì mà lại để Cerriluna xuất hiện ngay giữa thành phố, dưới mũi mình một cách ngang nhiên như vậy. Trách người chán chê, cậu lại tự trách mình, sao lại cố tìm hiểu mấy cái manh mối đó làm gì chứ., sao lại tự phụ và ngu dốt như vậy chứ, nếu không cố xen vào mà cứ thế về luôn thì Martha đã không sao rồi.
Tôi chỉ ngồi im lặng, khoanh chân ngồi trong một góc, mắt dán chặt xuống sàn. Tôi không dám lên tiếng, chỉ mong cho mọi người quên đi sự tồn tại của mình. Ngồi trong khoang xe, tôi lắng nghe tiếng bánh xe nghiến trên đường, tiếng vó ngựa đạp đất và tiếng gió rít qua khe hở, nghe sao mà sầu quá. Nếu âm thanh bên ngoài vốn đã buồn vậy rồi, tôi còn biết cất tiếng gì hơn chứ.
Mười tám tuổi, tôi tốt nghiệp Victoria, khép lại quãng đời học sinh chẳng biết có đẹp đẽ chăng. Sau đó, tôi vẫn thường giữ liên lạc với Watson và Giles, dù mỗi người đã có con đường riêng của mình. Watson trở thành một pháp sư công chức ở Bộ Ma thuật. Giles thì quay về Daventry và tham gia một phòng nghiên cứu ở Matica. Hai người họ đã thay đổi khá nhiều kể từ sau sự kiện đó.
Watson trước đây rất tinh nghịch, táo bạo, thích trêu chọc mọi người xung quanh, cậu luôn nghĩ ra những trò chơi khăm quái lạ. Giờ thì cậu lại luôn tỏ ra nghiêm túc, lúc nào cũng giữ cái tông giọng đều đều, từng bước đi dáng đứng đều từ tốn, nhẹ nhàng, như thể chúng đều phải được cân nhắc kỹ lưỡng. Giles thì từ sau vụ đó gần như chẳng bao giờ tôi thấy cậu cười nữa, lúc nào cũng ru rú trong thư viện, thi thoảng lại nằm gục mặt xuống bàn. Được cái là cậu ấy cởi mở với tôi hơn, tôi thậm chí còn kể với cậu ấy sự ngưỡng mộ của tôi đối với ông Talbot. Thay vì chế nhạo hay phớt lờ, cậu chỉ mỉm cười rồi nói ông Talbot quả là một nhà lý thuyết vĩ đại. Chắc lần tới tôi sẽ kể cho cậu nghe về mấy cái tà thuật tôi đang nghiên cứu, việc này thì nhạy cảm hơn nhiều.
Ba mẹ tôi bắt đầu ngã bệnh, hai người thường xuyên phải đi nhiều nơi để buôn bán, tuổi ngày càng lớn, cơ thể họ dần không chịu nổi nữa mà phát bệnh liên miên. Họ phải làm việc cật lực như vậy để kiếm tiền gửi cho tôi đóng học phí, và dù tôi có đạt được học bổng thì số tiền vẫn là quá lớn. Tôi tìm kiếm việc làm, cái đam mê ma thuật gì đó chẳng còn quan trọng nữa rồi, dù có bán thân bán mạng cũng phải kiếm được nghề nào nhiều tiền để còn gửi về nhà cho ba mẹ. Tôi thử qua nhiều việc, từ phòng nghiên cứu, sản xuất ma cụ, khai thác ma thạch rồi cuối cùng tôi trở thành công chức Bộ Ma thuật. Sở dĩ chọn trở thành công chức vì nghề này có được nguồn lương ổn định và có dư dả thời gian để tôi làm thêm việc bán thời gian khác.
Trong lúc tôi đang loay hoay với vấn đề tiền bạc thì một lời mời bất ngờ được gửi đến. Một phòng nghiên cứu tà thuật ở Ventrica muốn tôi tham gia bọn họ. Tôi có nghe nhắc qua nghề này, một nghề đầy nguy hiểm khi phải làm việc với tà thuật. Nhưng tôi cũng hiểu một điều, càng nguy hiểm thì thù lao càng cao. Họ liên lạc tôi bởi vì tôi có kinh nghiệm trong việc nghiên cứu tà thuật. Chà, do tôi có thực hiện vài nghiên cứu nhỏ lúc còn trong trường, hơn nữa mọi người cũng phản đối rất là gay gắt nên tôi cũng bỏ lâu rồi. Tôi có nói thử việc này với Watson và Giles, hai người bọn họ đều khuyên tôi không nên tham gia, tôi lại gọi về nhà, ba mẹ tôi càng phản ứng dữ dội hơn. Họ bảo họ vẫn sống rất tốt, không cần tôi phải đánh đổi sự an toàn của mình như vậy đâu.
Bốn mươi tuổi, tôi nhận tin dữ: bố tôi mắc bệnh ma thạch xâm lấn. Phí điều trị rất tốn kém. Thế là tôi gạt bỏ mọi lời khuyên, quyết định tham gia phòng nghiên cứu kia. Mọi việc diễn ra suôn sẻ hơn dự kiến. Lương thưởng bổng lộc thì cứ tăng đều đều, mà tôi lại được làm việc trong môi trường yêu thích của mình. Dần dà, tôi có cảm giác như mình đang dần lấy lại cái cảm giác sống đúng với đam mê.
Một hôm, phòng nghiên cứu triển khai một dự án mới. Dựa trên giả thuyết tà thuật đến từ sức mạnh của một vị ngoại thần nằm ngoài 12 thần, chúng tôi thử đào sâu vào căn nguyên của tà thuật. Tôi là trưởng dự án, tôi sẽ là người trực diện với căn nguyên trong khi những người xung quanh thì ghi chép lại. Đúng lúc này, Giles có gửi điện báo cho tôi, cậu bảo rằng cậu đã trở thành pháp sư Salem đời tiếp theo, tôi có thể cảm thấy niềm vui ngập tràn trong từng câu chữ của cậu, tôi thật lòng thấy mừng thay cho cậu.
Dự án thành công, cũng thất bại. Tất cả những người tham gia đều mắc vấn đề thần kinh nghiêm trọng sau đó do nhiễm tà thuật. Sau sự cố hi hữu ấy, một loạt quy chuẩn mới về an toàn trong nghiên cứu được đề ra, nhằm ngăn chặn các tai nạn tương tự trong tương lai. Thành công lớn nhất của dự án này là xác định được căn nguyên của tà thuật nằm ở phía sau Cổng Trời (một phát hiện chấn động!!), nó giúp tôi đạt giải thưởng Swiss về ma thuật của năm đó.
À về tôi, tôi là người duy nhất không bị ảnh hưởng bởi dự án. Có lẽ khi tà thuật lan tràn, tôi đang hoàn toàn chìm đắm trong căn nguyên nên vô tình thoát khỏi tác động của nó. Dẫu thế, dạo gần đây tôi bắt đầu nghe thấy những giọng nói lạ thỉnh thoảng vang lên trong đầu. Có thể là do sợ quá hóa rồ chăng?
Năm mươi chín tuổi, tôi kết hôn và có được hai đứa con. Tình trạng bệnh tình của bố tôi dần ổn định, rồi một ngày tôi đưa ông đến Winsor để thực hiện phẫu thuật. Cuộc phẫu thuật thành công mỹ mãn. Nhờ vào khoảng tiền kếch xù mà tôi kiếm được từ khoảng thời gian làm việc ở phòng nghiên cứu cùng với số tiền thưởng của dự án, gia đình chúng tôi sống thoải mái an nhàn. Đó là quãng thời gian tuyệt vời nhất cuộc đời tôi.
Tám mươi sáu tuổi, tôi chính thức trở thành Đại pháp sư. Trễ hơn Giles hai mươi năm và Watson bảy năm. Hai người họ thường trêu tôi rằng do tôi tốn thời gian cho việc nghiên cứu tà thuật. Nhưng mà tôi thì không hề hối tiếc, nếu không nhờ khoảng thời gian đó thì gia đình tôi sao được hạnh phúc và bình yên như bây giờ.
Một trăm linh sáu tuổi, ba mẹ tôi qua đời vì tuổi già. Hai người đã dành trọn những phút giây cuối đời bên những người thân thương và nhắm mắt lại một cách viên mãn. Hơn nữa, tôi dần hiểu được những giọng nói trong đầu tôi rồi. Chúng không phải là ảo giác hay điên loạn gì cả. Chẳng lẽ tôi là Mendeleev thứ hai, tài năng ma thuật sôi trào trở thành những giọng nói hướng dẫn tôi sao.
Một trăm bốn mươi hai tuổi, ta được phong làm chủ nhân của tháp Ma thuật ở Ventrica. Ở một quốc gia tôn sùng ma thuật như Londinium thì chức vị này tương tự như thị trưởng của một thành phố rồi. Như mà điều đó chẳng mấy quan trọng với ta nữa, bởi ta nghe được giọng nói của Ngài rồi.
Một trăm bảy mươi tư tuổi, ta gia nhập Cerriluna theo lời của Ngài. Công danh sự nghiệp chẳng nề hà chi, ta chỉ muốn biết được chân lý mà thôi. Bọn chúng tôn ta làm Phó giáo chủ, tên Giáo chủ là một cấp A khác, có vẻ hắn cũng đạt được sự chỉ dẫn từ Thần.
Một trăm tám mươi bảy tuổi, ta đạt đến cấp A. Ta là Thần của Bình Minh và Hoàng Hôn. Ta là Cánh Tay của Ngài chạm đến nhân gian này. Sức mạnh sôi trào trong thân thể ta, là ý chí tối cao của ngài giáng lâm trần thế.
Một trăm chín mươi hai tuổi, những kẻ mê muội mở ra cuộc phản kháng chống lại Ngài. Ôi sao mà đáng thương thay, chúng không hiểu được sự vĩ đại, lòng nhân từ vô bờ bến của đức Ngài. Cổng Trời kia đã ngăn cản ân huệ từ Ngài, nó cũng ngăn cản sự giải thoát của những đứa con lạc lối của Ngài. Ta thật may mắn làm sao khi được chiêm ngưỡng, giác ngộ dưới sự chở che của Ngài.
Hai trăm linh hai tuổi, đáng buồn thay, đáng thương thay! Cựu giáo chủ đã bị bọn dị giáo bêu đầu. Những phân hội dưới mặt đất của Cerriluna gần như đã bị nhổ sạch. Những giáo đồ còn sống sót phải co cụm trên Pháo Đài Trên Không này. Biết khi nào thế gian này mới được giác ngộ đây. Lòng ta đau nhói, nhưng niềm tin của ta chẳng hề lay chuyển. Bởi có chuyện gì mà Ngài không làm được chứ, chỉ cần một ngày Ngài vẫn rủ lòng từ bi, thì Cerriluna vẫn còn đó, và chỉ cần Cerriluna còn cố gắng, thì thế gian này rồi sẽ được đắm mình trong phước lành của Ngài.
Hai trăm mười tuổi, ta nghe vài gã pháp sư ở Tháp Babyrus nhắc đến một cái tên quen thuộc, Giles Corey. Y đã tham gia trận vây bắt giáo chủ và bị thương nặng. Gần đây, y còn nhận nuôi và truyền danh hiệu Salem cho nó. Ta mỉm cười. Có lẽ đã đến lúc ta ghé thăm người bạn xưa.
Đã lâu không gặp, y vẫn giữ cái thái độ lạnh lùng như ngày nào. Thật muốn bóc cặp mắt u sầu đó xuống, xé bỏ cái vẻ đạo mạo của y đi. Nếu mà bọn mi không phản kháng lại ban ân của Ngài thì tất cả mọi người đều hạnh phúc rồi, trưng cái khuôn mặt thảm thiết đó ra làm gì? Ta tán gẫu vài câu với y, nói vài lời về Venna của y rồi lại bàn về cái học thuyết vớ vẩn của ông Albert. Tên học trò của y tên là Verdana, không có họ, y bảo y nhặt được nhóc ở Venna. Nhìn mạch ma thuật phun trào bên trong đứa nhóc non nớt còn chưa biết cách kiểm soát mana, ta không khỏi ghen tỵ với y.
Y quả là kẻ may mắn: vốn sinh ra trong một gia đình khá giả, sở hữu tài năng ma thuật có một không hai. Thế mà y lại phí thời gian cho những việc không đâu, mai một tuổi trẻ của mình vào những việc tầm phào. Ấy thế mà y lấy đấy làm tự hào. “Victoria cuối cùng cũng chịu thay đổi thể thức kiểm tra rồi.” Ai quan tâm cái trường chết tiệt đó chứ. “Tớ sẽ không cho phép bất kỳ ai vấy bẩn Venna.” Thế rồi khi y rời khỏi Daventry, ta đã dẫn người đến san bằng cái thành phố đó. Bạn tôi ơi! Sao mà bạn vẫn cứ mãi mù quáng thế!
“Phải rồi.” Ta quay sang thằng nhóc tóc bạc, lấy ra một chiếc vòng tay ngọc đưa cho nó. “Xem như đây là quà gặp mặt của ta đi”
Chiếc vòng có tạc một ma trận nhỏ giúp ta có thể dịch chuyển đến bất kỳ lúc nào. Salem kế nhiệm, một kẻ quan trọng nhưng yếu ớt, rồi sẽ có lúc ta cần dùng đến nó. Ta cũng đã phải kiềm chế cái ước muốn được giải thoát cho bọn chúng ngay tại đây lắm, dù sao Thế Sự Toàn Tri hẳn đang ngắm nhìn hai tên ngốc này mà. Thế rồi, ta rời đi, nói lời tạm biệt, có lẽ là vĩnh biệt với người bạn già của mình. Chúng ta từng là bạn, nhưng giờ mỗi bước đi của y chỉ càng khiến ta thêm thất vọng. Y mù quáng, mãi mãi không thể thấy được ánh sáng từ Ngài.
Hai trăm mười ba tuổi, hôm đó là một ngày đẹp trời biết mấy. Lão già lọm khọm ở Vương cung Thánh Đường cuối cùng đã về với vòng tay của Đức Ngài. Ta thật muốn xem thử gương mặt của lão ra sao khi nhận ra phía sau cái chết, không phải tên Chúa Trời mà gã hằng tin, mà là Đức Ngài vĩ đại, vị đấng thực sự nắm giữ mọi quyền năng. Màn mưa ảm đạm lại đầy tuyệt sắc trong mắt ta, nhưng tiếc thay, ta lại quá chủ quan rồi.
Ansel chết khiến cho ta buông lỏng đôi chút, mà không nhận ra vài con chuột nhắt đã đội mưa đạp đất lẻn vào pháo đài của mình. Không biết chúng làm sao tìm đến được nữa, nhưng đây là một vấn đề rất lớn. Từ khi pháo đài được tạo ra đến giờ, đây là lần đầu tiên có kẻ dị đoan xâm nhập vào! May mắn thay, ta kịp thời bắt giữ chúng lại trước khi chúng kịp gây ra bất kỳ sự hỗn loạn nào.
Một vị khách bất ngờ! Cô nàng Luna Astegenne, một quý tộc danh giá ở Sothoryos lại lặn lội đến tận Arandas xa xăm như này để làm gì nhỉ? Ta biết chứ, chồng của con nhóc vẫn còn trong tay ta mà. Hắn là một tên pháp sư từng dưới trướng của Giles. Trong lúc hủy diệt Venna, ta tình cờ bắt được hắn. Khi ta cho cô nàng gặp lại người chồng đã lâu không gặp, cô ta bật khóc nức nở, chắc hẳn là cảm động lắm đây.
Nam giới ở Sothoryos thường bị khinh miệt, chỉ được xem như là vật trang trí. Nhưng mà ta đã ban cho hắn một cơ thể mới, một tâm trí siêu việt mới, nhờ vào phước lành của Đức Ngài vĩ đại. Hắn trở thành một con người mới hoàn toàn, với khả năng ma thuật vượt trội chưa từng có, thế mà con bé Luna lại nổi giận đùng đùng. Khó hiểu thật đấy! Chỉ là trông hắn có hơi khác với người bình thường tí thôi mà, chẳng lẽ tình yêu say đắm mà người ta kể lại không chịu nổi tí khác biệt vậy sao?
Mấy tên đồng đội của nó bỗng vùng thoát ra, cố gắng kìm chân ta lại, nhưng sức phàm sao sánh được Thần. Ta dễ dàng bắt được Luna lần nữa, con bé dùng chiếc gia huy Astegenne tấn công ta, yếu ớt đến đáng thương. Rồi con bé lại quyết liệt, thiêu đốt cả thân xác để tấn công ta… Không đúng, cả đội của con bé đều thiêu tận sinh lực để kìm chân ta lại trong phút chốc, để con bé khốn nạn đó phá vỡ màng chắn của pháo đài. Và rồi, nó dùng thân mình như đuốc, thắp sáng cả bầu trời đêm khuya.
Ngay lập tức, vô số ánh nhìn tập trung hướng về phía pháo đài. Những con mắt lạnh lẽo đè nặng lên người ta. Cả bốn tên Thần, suốt ngày cứ giấu đầu giấu đuôi, lại chẳng hẹn mà đồng loạt xuất hiện, ghim ánh nhìn xuống chốn này. Ta biết, chuyện đã xong rồi.
Trớ trêu thay, sinh nhật hai trăm mười bốn của ta lại trôi qua trên tòa pháo đài một cách hết sức ảm đạm. Có lẽ, nó là năm cuối cùng của đời ta rồi. Tất cả những gì ta có thể làm là niệm lời cầu chúc của mình đến Đức Ngài, hy vọng một phép màu kỳ diệu giải thoát cho ta.
.
Khó mà ngờ được, hạt giống ta vô tình gieo ba năm trước nay lại trổ quả. Trong cơn nguy cấp, ta kích nổ toàn bộ tòa lâu đài trung tâm, tạo ra vài khoảnh khắc ngắn ngủi để tạm giữ chân lũ Thần. Với chút thời gian quý giá ít ỏi ấy, ta dịch chuyển đến chiếc vòng ngọc cũ mà ta đưa cho tên Salem tương lai. Chuyện sẽ tốt hơn nếu hắn ta đang ở một nơi chân trời xa cách nơi này, thế mà hắn lại cũng ở trong pháo đài. Nhưng thế là đủ, ta không đòi hỏi gì nhiều, đôi khi chỉ cần một cơ hội nhỏ nhoi, ta sẽ tự tạo ra một con đường cho riêng mình.
Chuyện đời khó toại lòng nhau. Vừa dịch chuyển, ta đã cảm nhận những sợi dây vô hình quấn chặt lấy cơ thể, ma thuật trở nên trì trệ, từng bước đi nặng nề như vác theo một quả núi trên lưng. Là Luật Rừng của Vua Mèo! Hắn đã gán luật lên chiếc vòng để ngăn không cho ta dịch chuyển. Đây là kế hoạch từ lâu của bọn chúng, hay chỉ là sự trùng hợp khi Vua Mèo nhận ra điều không đúng với chiếc vòng này?
Những thứ đó không còn quan trọng nữa, đâm lao phải theo lao. Ta cắn răng phá vỡ từng sợi Luật Rừng đang trói buộc mình. Khi ta thoát ra, hai tên nhóc ngu ngốc phía trước vừa mới quay người bỏ chạy. Quá chậm trễ! Ta đưa cánh tay trái lên, cánh tay được ban phước bởi Đức Ngài, và chỉ trong tích tắc, chúng đứng sững lại, đông cứng như hai pho tượng.
Delacroix, ta biết nó, nó có một bức tranh có thể giúp ta thoát khỏi nơi này! Nhưng trước khi ta kịp ra tay, một làn gió lạnh buốt xé toạc không gian ùa vào, thổi tan ma thuật của ta đi. Từng sợi Luật Rừng lại len lỏi lên hai đôi chân, quấn lấy thân ta lần nữa. Vua Mèo và Thần Gió đã đến.
Hai đứa nhóc tranh thủ lôi bức tranh ra, nhảy vào trong đó. Đúng như ý ta muốn. Nắm chặt bàn tay trái lại, sức mạnh của Đức Ngài bùng nổ, quét sạch mọi ma thuật cản đường ta. Ta nhanh chóng lao vào bức tranh của tên nhóc Delacroix, nhưng thứ chờ đợi ta không phải lối thoát dễ dàng.
Cơn bão cuồng phong ập đến, cuốn theo hàng ngàn đường kiếm sắc bén của Thần Gió đã được lưu giữ từ trước bên trong tranh. Đúng như tên gọi của nó, quả là một ngọn đồi lộng gió. Nhưng vô dụng thôi.
Ta siết chặt nắm tay trái, tà thuật lan tràn và xé toạc những cơn gió thành mảnh vụn, tan biến vào hư không. Không dừng lại ở đó, nó tiếp tục lan ra, dần ăn mòn kết cấu của bức tranh này. Ta hiểu, dù có bước qua mặt kia của bức tranh, kết cuộc vẫn là đặt chân xuống pháo đài một lần nữa mà thôi. Nhưng nếu ta hủy diệt hoàn toàn bức tranh, cả ba sẽ bị mắc kẹt lại trong không gian vô định này. Hai tên nhóc chắc chắn sẽ bỏ mạng, nhưng Thần thì trường sinh bất lão, ta có vô tận thời gian để tìm ra một lối thoát an toàn.
Nhưng khi vừa đặt chân vào bức tranh, ta cảm nhận một cơn đau nhói xuyên qua lồng ngực. Thanh Thánh Thương Hoàng Kim đã xuất hiện, vàng rực rỡ và đầy uy nghi, xuyên thấu qua cơ thể của ta. Từ nó, vô số dây xích vàng lan tỏa, trói chặt cơ thể ta lại. Minh Quân cũng đã đến. Xích vàng phong tỏa ma lực, gió xanh thổi bừng sức sống cho bức tranh như thách thức sự hủy diệt của ta. Và từ cánh tay trái, những chồi non Luật Rừng trỗi dậy, phủ lên từng lớp, cắt đứt phước lành của Đức Ngài.
Thế là hết sao?
Không. Ta nói không.
Ta đưa cánh tay phải lên, một cánh tay của bậc thầy ma thuật, kẻ đã đạt đến đỉnh cao của tà thuật. Dù không có phước lành của Đức Ngài, ta vẫn là ta, Hirsch Llama. Ta hướng bàn tay về phía thằng nhóc Salem, từ góc nhìn này, cứ như thể bàn tay ta đã nuốt trọn cơ thể nó vậy. Ta thì thầm, giọng nói nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng rõ ràng giữa cơn gió bão ồn ào:
“Vẽ lại quá khứ.”
1 Bình luận