Arthas biết quá rõ rằng mình đang vắt kiệt sức lực binh lính, nhưng thời gian là vàng bạc và không thể phung phí bừa bãi. Anh cảm thấy cực kỳ có lỗi khi thấy Jaina nhai ít thịt khô dọc đường đi. Ánh Sáng giúp anh khỏe khoắn khi anh sử dụng; pháp sư lại phải sử dụng những nguồn năng lượng khác, và anh biết Jaina đã kiệt sức sau cố gắng lúc trước. Nhưng không còn thời gian nghỉ ngơi nữa, khi mà hàng ngàn sinh mạng đang phụ thuộc vào họ.
Anh được cử đi làm một nhiệm vụ nhằm tìm hiểu chuyện đang xảy ra và ngăn chặn nó. Bí ẩn đã bắt đầu sáng tỏ, nhưng anh lại bắt đầu hoài nghi khả năng ngăn cản bệnh dịch này. Chẳng có việc gì dễ dàng như suy nghĩ ban đầu cả. Dù vậy Arthas vẫn sẽ không bỏ cuộc. Anh đã thề bằng mọi giá sẽ ngăn chặn điều này, để bảo vệ người dân của mình, và anh nhất định sẽ làm được.
Họ nhìn và ngửi thấy khói bốc lên trời trước khi tới được cổng Andorhal. Arthas mong rằng nếu thị trấn có bị cháy thì ít nhất số lúa mì đó cũng đã bị tiêu hủy, và rồi bỗng cảm thấy cắn rứt lương tâm vì sự tàn nhẫn của mình. Anh gạt nó đi bằng cách thúc mạnh vào hông con ngựa và đi qua cánh cổng, đề phòng mọi cuộc tấn công có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào.
Xung quanh họ là những tòa nhà bốc cháy, khói đen cay xè mắt mũi và khiến anh ho khù khụ. Qua đôi mắt rơm rớm nước mắt vì khói, anh nhìn xung quanh. Chẳng có dân làng nào cả, nhưng ít nhất thì cũng không hề có xác sống. Thật là-
“Ta tin các ngươi đến đâu để tìm ta, lũ ranh con,” một giọng nói đều đều vang lên. Gió đổi hướng thổi dạt đám khói về hướng khác, và giờ Arthas có thể nhìn thấy hình thù một người mặc áo choàng đen đứng ngay gần đó. Arthas bỗng thấy căng thẳng. Vậy ra đây chính là tên thủ lĩnh. Chỉ thoáng thấy lờ mờ khuôn mặt bị bóng tối của mũ trùm che phủ, gã thầy gọi hồn đang mỉm cười, một điệu cười mà Arthas cực kỳ muốn lột khỏi khuôn mặt gã. Bên cạnh hắn là hai con xác sống. “Các ngươi đã tìm thấy ta rồi đấy. Ta là Kel’Thuzad.”
Jaina há hốc và đưa tay lên che miệng, cô nhận ra cái tên đó. Arthas liếc nhìn cô, rồi lại tập trung nhìn vào kẻ đang nói chuyện. Tay anh nắm chặt cán búa.
“Ta đến đây để đưa ra một lời cảnh báo,” gã thầy gọi hồn nói. “Tốt nhất hãy tránh xa chuyện này. Tính hiếu kỳ của các ngươi sẽ dẫn tới cái chết đấy.”
“Tôi đã nghĩ thứ ma thuật xấu xa này có gì đó quen quen!” Jaina nói, giọng cô run run. “Thật hổ thẹn cho ông, Kel’Thuzad, với những thí nghiệm đến mức như thế này! Chúng tôi đã bảo ông là nó sẽ dẫn tới thảm họa rồi mà. Vậy mà ông chẳng chịu hiểu gì cả!”
“Công Nương Jaina Proudmoore,” Kel’Thuzad gầm gừ. “Có vẻ như cô bé đệ tử nhỏ bé của Antonidas đã lớn rồi nhỉ. Và cả tính ương ngạnh bướng bỉnh… như cô thấy đấy, ta đã nhận được một thứ rất quý giá.”
“Tôi đã thấy lũ chuột mà ông đem ra thí nghiệm rồi!” Jaina hét lên. “Như thế đã là quá tồi tệ rồi – nhưng giờ ông-”
“Đã nghiên cứu kỹ lưỡng và khiến nó trở nên hoàn hảo,” Kel’Thuzad trả lời.
“Ngươi chịu trách nhiệm với bệnh dịch này ư, hả thầy gọi hồn?” Arthas quát. “Có phải giáo phái này do người tạo ra hay không?”
Kel’Thuzad quay về phía anh, mắt gã sáng lên trong bóng tối của mũ trùm. “Ta đã ra lệnh cho Giáo Phái Đọa Đày phân phối số lúa mì bị nhiễm bệnh. Nhưng toàn bộ công lao này không phải của riêng ta.”
Trước khi Arthas kịp nói, Jaina đã lên tiếng, “Ý ông là gì?”
“Ta phục vụ cho chúa tể sợ hãi Mal’Ganis. Ngài chỉ huy đội quân Truy Quét sẽ quét sạch vùng đất này và lập ra một thiên đường bóng tối vĩnh cửu!”
Dù với sự ấm áp từ những ngọn lửa xung quanh, Arthas vẫn thấy ớn lạnh trước giọng điệu của gã. Anh không biết “chúa tể sợ hãi” là gì, nhưng ý nghĩa của từ “Truy Quét” thì đã rõ. “Vậy chính xác cái quân Truy Quét này định quét sạch cái gì chứ?”
Dưới bộ ria trắng gã nở một nụ cười độc ác. “Dĩ nhiên là sự sống rồi. Kế hoạch của ngài đã bắt đầu tiến hành rồi. Cứ tìm ngài ở Thung Cốn nếu các ngươi cần thêm bằng chứng.”
Arthas đã nghe đủ những lời chế nhạo và trêu tức rồi. Anh gầm lên, nắm chặt cán búa và lao tới. “Vì Ánh Sáng!” anh hét lớn.
Kel’Thuzad chẳng hề di chuyển. Gã vẫn đứng yên tại chỗ, rồi vào phút cuối, bầu không khí xung quanh gã bỗng nhòe đi, và rồi ông ta biến mất. Hai sinh vật vừa đứng im lìm hai bên gã bỗng vung tay về phía Arthas, cố vật anh xuống đất, mùi hôi thối của chúng cùng với mùa khói khiến anh muốn ói. Anh vung người thoát được, rồi vung một búa đập vào đầu một tên. Hộp sọ của nó vỡ nát như một ly thủy tinh giòn tan, óc bắn tung tóe xuống mặt đất khi nó ngã xuống. Tên thứ hai còn lại dễ dàng bị anh xử lý.
“Kho thóc!” anh hét lên, chạy tới bên con ngựa và nhảy lên lưng nó. “Đi nào!”
Những người còn lại lên ngựa và họ phi dọc con đường lớn xuyên qua ngôi làng đang bốc cháy. Những kho thóc hiện ra lù lù trước mặt họ. Chúng không hề bị bén ngọn lửa vốn đang bốc cháy dữ dội hầu khắp Andorhal.
Arthas hãm ngựa dừng lại rồi nhảy xuống, anh chạy hết tốc lực về phía khu nhà. Mở cửa ra, anh mong muốn đến tuyệt vọng rằng đống thùng thưa vẫn còn chất đống tại đó. Nỗi đau khổ và cơn tức giận nổi lên khi thứ duy nhất anh thấy là một căn phòng trống rỗng – gần như trống rỗng chỉ còn sót lại ít lúa mì rơi vãi và xác vài con chuột trên sàn. Trong phút chốc anh cứ đứng đó nhìn chằm chằm, rồi nhanh chóng chạy tới những căn phòng khác, vẫn cố mở tung những cánh cửa kể cả khi anh biết chính xác mình sẽ tìm thấy gì.
Tất cả đều trống rỗng. Và đã được khá lâu rồi căn cứ vào lớp bụi trên sàn và mạng nhện chăng ở các góc.
“Hàng hóa đã được chuyển đi rồi,” anh đau đớn nói khi Jaina bước tới bên anh. “Chúng ta đã tới quá muộn!” Anh đập tay vào cánh cửa gỗ khiến Jaina giật nảy mình. “Khốn nạn!”
“Arthas à, chúng ta đã làm hết khả năng của-”
Anh tức giận quay mặt về phía cô. “Ta sẽ đi tìm hắn. Ta sẽ tìm cái tên khốn ưa thích xác sống kia và phanh thây hắn ra vì điều này! Để rồi ai đó phải khâu hắn lại xem.”
Anh lao ra ngoài, người run rẩy. Anh đã thất bại rồi. Anh đã đem người tới tận đây để rồi lại thất bại. Lúa mì đã được chuyển đi, và may chăng chỉ có Ánh Sáng mới biết có bao nhiêu người sẽ phải chết vì điều đó.
Vì anh.
Không. Anh sẽ không để điều đó xảy ra. Anh sẽ bảo vệ người dân của mình. Anh sẽ hi sinh để bảo vệ họ. Arthas siết chặt nắm đấm.
“Hướng bắc,” anh nói với người đang đi theo anh, anh ta đang tỏ ra rất lạ lẫm trước sự tức giận của vị hoàng tử thường ngày rất đỗi tốt bụng này. “Đó là nơi tiếp theo hắn tới. Phải tiêu diệt hắn như tiêu diệt loài sâu bọ ấy.”
Anh đi như một người bị ma ám, phi nước đại về hướng bắc, gần như tàn sát tất cả xác chết con người đang cố ngăn cản anh dọc đường. Anh không còn sợ hãi nữa; đầu óc anh chỉ toàn hình ảnh của kẻ đang thao túng giáo phái gây ra việc này. Cái chết rồi sẽ sớm được an nghỉ; Arthas phải đảm bảo rằng không còn ai bị ảnh hưởng nữa.
Lúc lâu sau có một nhóm xác sống lớn xuất hiện. Những cái đầu thối rữa ngẩng lên nhìn Arthas và đoàn người, và chúng lao tới phía anh. Arthas hét lên, “Vì Ánh Sáng!”, rồi anh thúc ngựa lao vào giữa đám đông, vung cây búa lên và hét lạc cả giọng, cố tung toàn bộ cơn thịnh nộ vào mục tiêu hoàn hảo đó. Lát sau, khi mọi thứ đã lắng bớt đi, anh ngẩng đầu lên nhìn quanh.
Đứng an toàn cách xa chiến trường, đang xem xét mọi thứ mà không phải mạo hiểm, đó là một hình thù cao lớn mặc áo choàng đen bay phấp phới. Như thể đang chờ họ.
Kel’Thuzad.
“Kia!” anh hét lên. “Hắn ở kia!”
Jaina và đoàn người chạy theo anh, Jaina dọn đường cho họ bằng nhiều phép cầu lửa, và các binh lính hạ gục bất cứ tên xác sống nào chưa bị hạ sau đòn tấn công đầu tiên. Arthas cảm thấy cơn giận dữ đang sôi sục trong huyết quản khi anh càng lúc càng tiến gần hơn với gã thầy gọi hồn. Cây búa của anh hết vung lên lại bổ xuống một cách dễ dàng, và anh thậm chí còn chẳng kịp thấy anh đã đập trúng kẻ nào. Mắt anh chỉ tập trung vào một người duy nhất chịu trách nhiệm cho tất cả những chuyện này – nếu còn có thể gọi con quái vật đó là người. Chặt đầu con quái vật đó thì nó nhất định sẽ chết.
Rồi Arthas cũng tới đó. Anh gầm lên đầy thịnh nộ rồi vung mạnh cây búa rực sáng, đập vào chân Kel’Thuzad khiến gã bay xa một quãng. Những người khác tiến tới, kiếm này kiếm khác chém và đâm, họ trút cơn giận xuống đầu gã, nguyên nhân của toàn bộ thảm họa này.
Dù với tất cả ma thuật và sức mạnh của mình, dường như Kel’Thuzad cũng có thể chết như bao người khác. Cả hai chân gã đều đã bị đập nát bởi cây búa của Arthas và giờ đang nằm cong vẹo trên mặt đất. Áo choàng của gã thấm đẫm máu, khiến cho màu đen của lớp vải sáng bóng lên, và tia máu đỏ rỉ ra trên miệng. Gã cố gượng dậy bằng hai tay và cố nói nhưng chỉ có máu và răng phụt ra từ miệng. Gã vẫn nói.
“Ngờ nghệch… ngu ngốc,” gã cố nói. “Cái chết của ta chẳng ảnh hưởng gì mấy đến đại cục đâu… ngay bây giờ… việc quét sạch vùng đất này… bắt đầu.”
Tay gã oằn xuống, mắt nhắm lại, gã ngã xuống.
Xác gã ngay lập tức thối rữa. Sự phân rã đáng phải diễn ra tới vài ngày thì giờ lại xảy ra chỉ trong vài giây, da thịt tái đi, phồng lên, rồi vỡ nát. Các binh lính há hốc miệng và lùi lại, đưa tay che mũi miệng. Một số quay đầu và nôn ọe vì mùi hôi thối. Arthas đứng nhìn vừa kinh sợ lẫn thích thú, anh không thể nào ngưng nhìn được. Sự thối rữa chậm dần đi và Arthas quay đầu lại, cố hít thở chút không khí trong lành.
Jaina thì tái nhợt như xác chết, cặp mắt đang nở lớn và thâm đi vì sửng sốt. Arthas bước tới phía cô và hướng cô ra khỏi hình ảnh ghê tởm kia. “Chuyện gì xảy ra với hắn vậy?” anh khẽ hỏi.
Jaina nuốt nước miếng, cố bình tĩnh lại. Cô lại cố lấy lại sức khỏe nhờ người bạn của mình. “Người ta tin rằng, à, nếu thầy gọi hồn không thực hiện chính xác ma thuật của họ, ờm… nếu họ bị giết thì họ sẽ…” Giọng cô kéo dài và đột nhiên dường như cô trông bé lại, trông mệt mỏi và sững sờ. “Như thế kia.”
“Đi nào,” Arthas nhẹ nhàng nói. “Tới Thung Đáy Lò nào. Họ cần được cảnh báo – nếu như chúng ta vẫn chưa quá trễ.”
Họ để cái xác ở nguyên vị trí cũ, không thèm đoái hoài gì đến nữa. Arthas thầm cầu nguyện với Ánh Sáng rằng vẫn chưa quá muộn với họ. Anh không biết anh sẽ làm gì nếu họ lại thất bại nữa.
Jaina đã kiệt sức. Cô biết rằng Arthas muốn đi càng nhanh càng tốt, và cô cũng có chung nỗi lo âu với anh. Nhiều sinh mạng đang bị đe dọa. Vậy nên khi anh hỏi xem liệu cô có thể đi suốt đêm không nghỉ không, cô vẫn gật đầu.
Họ đi liên tục suốt bốn tiếng liền tới khi cô bỗng hãm ngựa lại. Cô kiệt quệ tới độ gần như bất tỉnh mất vài giây. Nỗi sợ hãi bỗng tràn qua người cô và cô phải tóm lấy bờm con ngựa, ngồi lại ngay ngắn trên yên và kéo mạnh dây cương để con ngựa dừng lại.
Cô ngồi đó run rẩy, tay nắm chặt cương, suốt vài phút trước khi Arthas nhận ra cô đã bị tụt lại phía sau. Cô thoáng nghe thấy anh ra lệnh dừng lại. Cô nhìn anh trong im lặng khi anh đi tới bên cô.
“Jaina à, có gì không ổn sao?”
“Em… em xin lỗi Arthas à. Em biết anh muốn tận dụng thời gian, cả em cũng vậy, nhưng – em mệt mỏi tới nỗi suýt ngã khỏi ngựa rồi. Liệu chúng ta có thể dừng lại, chỉ một chút thôi được không?”
Cô nhìn thấy sự lo lắng dành cho cô và cả tình hình hiện tại hiện rõ trên mặt anh, kể cả dưới ánh sáng yếu ớt. “Em nghĩ em cần bao nhiêu thời gian?”
Cô muốn nói là phải vài ngày, nhưng rồi lại nói, “Chỉ cần đủ để ăn một chút và nghỉ ngơi một lát thôi.”
Anh gật đầu rồi đưa tay ra đỡ cô xuống ngựa. Anh dắt cô đi tới lề đường và nhẹ nhàng đặt cô xuống. Jaina mở túi ra lấy một ít pho mát bằng đôi tay run run. Cô tưởng anh sẽ đi tới nói chuyện với người của mình, nhưng thay vì đó anh lại ngồi xuống bên cô. Sự nôn nóng bộc lộ rõ từ anh như nhiệt độ của một ngọn lửa.
Cô cắn một miếng pho mát và vừa nhai vừa nhìn anh, cố phân tích nửa mặt thấy được của anh dưới ánh trắng. Một trong những điều cô yêu nhất về Arthas là sự dễ gần, lòng nhân đạo và đầy cảm xúc mà anh thể hiện với cô. Nhưng giờ đây, với cảm xúc mạnh mẽ đang mang trong mình, trông anh rất xa cách như thể họ đang ở xa nhau tới cả trăm dặm.
Cô hấp tấp đưa một tay ra chạm mặt anh. Anh giật mình như thể đã quên mất cô ở đấy, rồi khẽ mỉm cười với cô. “Xong rồi à?” anh hỏi.
Jaina nghĩ về miếng pho mát duy nhất cô mới ăn được. “Không,” cô nói, “nhưng… Arthas à, em lo cho anh quá. Em không thích điều đang xảy ra với anh.”
“Xảy ra với ta ư?” anh quát. “Thế còn chuyện xảy ra với những dân làng kia thì sao? Họ sắp chết và chuẩn bị biến thành những cái xác đó, Jaina à. Ta cần phải ngăn chặn điều đó. Chính ta!”
“Dĩ nhiên chúng ta phải ngăn cản điều đó, và em sẽ làm mọi thứ có thể để giúp; anh biết mà. Nhưng… em chưa từng thấy anh ghét thứ gì đến vậy.”
Anh cười lớn đầy thô lỗ. “Em muốn ta phải yêu lũ thầy gọi hồn à?”
Cô cau mày. “Arthas, đừng bóp méo lời em như thế. Anh là một hiệp sĩ. Một đầy tớ của Ánh Sáng. Anh vừa là một chiến binh vừa là một y sư, nhưng tất cả những gì em đang thấy ở anh chỉ là quyết tâm quét sạch kẻ thù.”
“Em bắt đầu nói giống Uther rồi đấy.”
Jaina không trả lời. Cô đã quá mệt mỏi, thật khó để diễn tả suy nghĩ của mình. Cô cắn thêm một miếng pho mát nữa, tập trung vào việc dung nạp chỗ dinh dưỡng đó vào cơ thể mình. Vì lý do nào đó cô cảm thấy rất khó nuốt.
“Jaina à… ta chỉ không muốn những người dân vô tội phải chết thôi. Đó là tất cả. Và… ta phải thú nhận rằng ta rất khó chịu khi có thể ta sẽ không làm được việc đó. Nhưng một khi việc này đã kết thúc, em sẽ thấy. Mọi thứ rồi sẽ trở lại bình thường. Ta hứa đấy.”
Anh mỉm cười với cô, và trong khoảnh khắc cô lại nhìn thấy một Arthas xưa cũ với khuôn mặt điển trai của mình. Cô mỉm cười lại những mong làm yên lòng anh.
“Giờ em đã xong chưa?”
Hai miếng. Jaina cất chỗ pho mát còn lại đi. “Vâng, em xong rồi. Đi tiếp thôi.”
Bầu trời đang chuyển dần từ màu đen sang màu xám tro của buổi rạng đông khi họ nghe thấy tiếng súng đạn. Trái tim Arthas chùng xuống. Anh thúc ngựa đi tới dọc con đường dài đi về hướng bắc cắt xuyên qua một dãy đồi trông yên bình một cách dối trá. Ngay bên ngoài cổng Thung Đáy Lò, họ nhìn thấy vài người và người lùn trang bị súng trường – tất cả đều được huấn luyện để sử dụng súng. Thoang thoảng trong làn gió nhẹ, cùng với mùi thuốc súng là mùi hương ngọt ngào dễ chịu một cách phi lý của bánh mì nướng.
“Ngừng bắn!” Arthas hét lên khi quân của anh phi đến. Anh kéo cương mạnh tới nỗi con ngựa hí lên hoảng hốt. “Ta là Hoàng Tử Arthas! Có chuyện gì đang xảy ra vậy? Tại sao các người lại chiến đấu?”
Họ họ súng xuống, rõ ràng là rất ngạc nhiên khi trông thấy hoàng tử của họ đang đứng ngay trước mắt. “Thưa ngài, ngài sẽ không tin vào chuyện đang xảy ra đâu.”
“Nói ta nghe xem,” Arthas nói.
Arthas chẳng hề ngạc nhiên với những lời nói ban đầu của họ – rằng người chết sống dậy và tấn công họ. Thứ khiến anh ngạc nhiên là họ có nói đến “một đội quân khổng lồ.” Anh liếc nhìn Jaina. Trông cô đã hoàn toàn kiệt sức. Chút nghỉ ngơi đêm qua rõ ràng là không đủ để cô hồi phục lại.
“Thưa ngài,” một trinh sát hét lên trong lúc chạy đến, “đội quân – nó đang hướng tới đây!”
“Khốn nạn,” Arthas lẩm bẩm. Nhóm con người và người lùn nhỏ này có thể chống chịu lại được một trận chiến nhỏ lẻ, nhưng với một đạo quân nguyền rủa như thế thì không thể. Anh phải quyết định. “Jaina, ta sẽ ở đây bảo vệ ngôi làng. Em hãy khẩn trương đi tìm và kể cho Lãnh Chúa Uther về chuyện đã xảy ra.”
“Nhưng-”
“Đi đi Jaina! Khẩn trương lắm rồi!”
Cô gật đầu. Cầu chúa ban phước cho cô và trí thông minh của cô nữa. Anh mỉm cười biết ơn với cô trước khi cô bước qua cánh cổng vừa tạo ra và biến mất.
“Thưa ngài,” Falric nói, có gì đó trong giọng nói của anh ta khiến Arthas quay lại. “Người… tốt nhất nên tự mắt nhìn.”
Arthas nhìn theo ánh mắt của anh ta và trái tim anh chùng xuống. Nhưng chiếc thùng rỗng… mang theo dấu hiệu của Andorhal…
Mong muốn đến tuyệt vọng rằng mình đã nhầm, Arthas hỏi bằng giọng hơi run run, “Những thùng hàng đó chứa gì vậy?”
Một trong những người lính Thung Đáy Lò nhìn anh đầy bối rối. “Chỉ là lúa mì từ Andorhal thôi. Không cần phải lo lắng đâu thưa hoàng tử. Nó đã được phân phát cho dân làng rồi. Chúng ta có rất nhiều bánh mì.”
Chính là mùi đó – không hẳn là mùi bánh mì nướng thông thường, có phần hơi ngọt ngào quá – và rồi Arthas đã hiểu. Anh hơi lảo đảo một chút khi nỗi sợ hãi kinh hoàng chiếm lấy anh. Lúa gạo đã được phân phát… và đột nhiên có một đạo quân xác sống khổng lồ…
“Ôi không,” anh thì thầm. Họ nhìn anh và anh lại cố nói, giọng anh vẫn còn run. Nhưng lần này không phải vì sợ hãi và là tức giận.
Bệnh dịch này không chỉ nhằm mục đích giết người dân của anh. Không, không, còn đen tối xấu xa hơn nhiều. Mục đích của nó là biến họ thành-
Ngay khi nghĩ đến điều đó, người đàn ông vừa trả lời câu hỏi của Arthas về số thùng hàng chợt gập mình lại. Vài người khác cũng phản ứng tương tự. Luồng sáng màu xanh lá kỳ lạ tỏa ra từ người họ, càng lúc càng trở nên chói sáng hơn. Họ ôm bụng và ngã xuống đất, miệng thổ huyết ướt đẫm cả áo. Một trong số họ vươn tay về phía anh, van xin được chữa trị. Thay vì đó Arthas lùi lại trong hoảng sợ và nhìn người đàn ông đó quằn quại trong đau đớn và chết ngay sau đó.
Anh đã làm gì vậy? Người đó đã cầu xin được chữa trị, nhưng Arthas còn chẳng buồn nhấc tay lên. Nhưng khi nhìn cái xác, Arthas thắc mắc liệu còn có thể chữa trị được không. Liệu Ánh Sáng còn có thể-
“Ánh Sáng nhân từ ơi!” Falric hét lên. “Chỗ bánh mì-”
Arthas giật mình trước tiếng hét đó, thoát khỏi cơn mê sảng đầy tội lỗi. Bánh mì – nguyên liệu của sự sống – ngon lành và bổ dưỡng – giờ trở nên tồi tệ hơn cả cái chết. Arthas mở miệng cố hét lên cảnh báo người của mình, nhưng lưỡi anh líu lại không thốt nên lời.
Bệnh dịch nằm trong lúa mì đã hoạt động ngay trước khi vị hoàng tử sửng sốt có thể lên tiếng.
Mắt người đàn ông đã chết kia mở ra. Anh ta lảo đảo ngồi dậy.
Và đó là cách Kel’Thuzad tạo ra một đội quân xác sống chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi đến đáng kinh ngạc như vậy.
Tiếng cười man rợ vang vọng trong tai anh – Kel’Thuzad cười đắc thắng kể cả khi đã chết. Arthas thắc mắc liệu anh có sắp phát điên trước những gì vừa phải chứng kiến không. Lũ xác sống cố đứng dậy, và cử động của chúng buộc anh phải hành động và lên tiếng.
“Mọi người cẩn thận!” Arthas hét lên và vung cây búa trước khi người đàn ông đó kịp đứng dậy. Nhưng những kẻ khác đã kịp thời đứng dậy và chĩa thứ vũ khí mà lúc còn sống họ đã sử dụng để bảo vệ Arthas về phía anh. Lợi thế duy nhất mà anh có đó là lũ xác sống không sử dụng vũ khí tốt cho lắm, hầu hết phát đạn đều bắn trượt. Trong khi đó người của Arthas lại tấn công được bằng cặp mắt sắc sảo và khuôn mặt dữ tợn, đập nát sọ, trảm đầu, chặt chém những kẻ từng là đồng minh của họ tích tắc trước.
“Hoàng Tử Arthas, quân xác sống đã tới rồi!”
Arthas quay người, áo giáp anh bám đầy mủ vàng, mắt anh hơi nở lớn.
Quá nhiều. Có quá nhiều những bộ xương đã chết từ lâu, những xác chết chỉ mới biến dạng, thêm nhiều đám quái thi tái nhợt đầy giòi đang lao xuống phía họ. Anh có thể cảm thấy được sự sợ hãi của mình. Họ đã từng chiến đấu lại nhưng kẻ như bọn chúng, nhưng không phải là cả một đạo quân toàn xác chết di động như thế này.
Arthas chĩa búa lên trời. Nó bỗng tỏa ra ánh sáng rạng rỡ của sự sống. “Giữ vững vị trí!” anh hét lên, giọng không còn yếu ớt nữa mà giờ lại khàn đi vì giận dữ. “Chúng ta là những người được Ánh Sáng lựa chọn! Chúng ta sẽ không thất bại!”
Ánh Sáng soi rọi khuôn mặt kiên quyết của anh, anh lao thẳng tới trước.
Jaina thậm chí còn kiệt sức hơn cả những gì cô tự thừa nhận. Kiệt sức sau nhiều ngày chiến đấu mà gần như không nghỉ ngơi chút nào, cô gục ngã sau khi thực hiện xong thần chú độn thổ. Cô nghĩ mình đã bất tỉnh đi một lúc, bởi điều tiếp theo cô biết đó là thầy cô đang cúi xuống bên cô và nhấc cô lên khỏi sàn.
“Jaina – con gái, có chuyện gì vậy?”
“Uther,” Jaina cố nói. “Arthas – Thung Đáy Lò-” Cô với tay nắm lấy áo choàng của Antonidas. “Thầy gọi hồn – Kel’Thuzad – hồi sinh người chết để chiến đấu-”
Mắt Antonidas nở lớn. Jaina nuốt nước miếng và nói tiếp. “Arthas và người của anh ấy đang phải chiến đấu ở Thung Đáy Lò một mình. Anh ấy cần viện quân ngay!”
“Ta nghĩ Uther đang ở cung điện,” Antonidas nói. “Ta sẽ cử vài pháp sư tới đó ngay để mở nhiều cánh cổng giúp cho ông ấy đem theo nhiều quân. Con đã làm rất tốt rồi con gái ạ. Ta rất tự hào về con. Giờ con cần phải nghỉ ngơi.”
“Không!” Jaina hét lên. Cô cố đứng dậy dù khó lòng đứng vững được, kìm nén sự kiệt sức lại, cô đưa bàn tay run run níu Antonidas lại. “Con phải tới cùng anh ấy. Con sẽ ổn thôi. Đi thôi!”
Arthas không biết mình đã chiến đấu bao lâu rồi. Anh vung búa không ngừng nghỉ, tay run lên mỏi rũ, ngực thì bỏng rát. Nhờ vào sức mạnh của Ánh Sáng đang bao phủ lấy cơ thể anh mới giúp cho anh và các binh lính đứng vững được. Lũ xác sống có vẻ bị suy yếu bởi sức mạnh đó, mặc dù có lẽ đó là điểm yếu duy nhất của chúng. Chỉ có một đòn chí mạng mới có thể hạ gục chúng, Arthas thắc mắc liệu có thể dùng từ “chí mạng” không khi mà chúng thực sự đã chết rồi.
Chúng vẫn tiếp tục xuất hiện. Hết đám này tới đám khác. Thần dân của anh đã biến thành những thứ đó. Anh nhấc cánh tay mệt mỏi lên đánh thêm một đòn nữa trước khi một giọng nói mà Arthas biết bỗng vang lên trong tiếng ồn ào của trận chiến:
“Vì Lordaeron! Vì đức vua!”
Những người dưới trướng Uther Người Mang Ánh Sáng hét lên đầy sôi nổi và bắt đầu tấn công. Uther đã tới cùng với nhiều kỵ sĩ khỏe khoắn và dày dạn chinh chiến. Họ không hề lẩn tránh lũ xác sống – Jaina, mặc dù đã rất mệt mỏi, cũng xuất hiện cùng Uther và các kỵ sĩ, dường như cô đã tóm tắt lại cho họ đủ để khiến họ không bị sửng sốt. Giờ đây lũ xác sống bị hạ gục nhanh hơn trước, mỗi loạt tấn công đều vấp phải sự chống trả quyết liệt từ búa, kiếm, và lửa.
Jaina khuỵu xuống khi xác chết di động cuối cùng bốc cháy và ngã xuống chết một lần nữa, đôi chân cô không thể chịu đựng nổi nữa. Cô với tay lấy bịch nước và tu một hơi, rồi run rẩy lấy ra ít thịt khô để gặm. Trận chiến đã kết thúc – ít nhất là bây giờ. Arthas và Uther đều đã bỏ mũ trụ ra. Mồ hôi thấm đẫm tóc họ. Cô nhai món thịt, nhìn Uther quan sát biển xác sống đã chết và gật đầu thỏa mãn. Arthas đang nhìn một thứ gì đó, khuôn mặt tối sầm lại. Jaina nhìn theo anh và cau mày khó hiểu. Xác chết ở khắp mọi nơi – nhưng Arthas đang nhìn như thể đang mơ màng trước xác chết trương phình đầy ruồi bu không phải của một binh sĩ, thậm chí không phải là một con người, mà là một con ngựa.
Uther bước tới bên người học trò và vỗ vai Arthas.
“Ta ngạc nhiên rằng con chống cự được lâu đến vậy đấy, chàng trai.” Giọng ông ấm áp đầy tự hào và trên môi ông nở một nụ cười. “Nếu ta không tới ngay lúc đó thì-”
Arthas quay lại. “Nhìn đi, con đã làm hết khả năng của mình rồi thầy Uther à!” Cả Uther và Jaina đều chớp mắt trước lời nói thô lỗ đó. Anh đang phản ứng quá dữ dội – Uther không hề phê bình anh; ông đang khen ngợi anh. “Nếu con có được một quân đoàn kỵ sĩ đi ngay sau, con đã có thể-”
Uther nheo mắt lại. “Giờ không phải lúc tự ái đâu! Từ những gì Jaina kể với ta, những gì chúng ta vừa đối mặt chỉ mới là sự khởi đầu thôi.”
Cặp mắt xanh lục màu biển của Arthas nhìn sang Jaina. Anh vẫn còn đủ tỉnh táo để nhận thấy sự xúc phạm trong đó và lần đầu tiên kể từ khi Jaina gặp anh, cô nhận thấy mình co rúm đi trước ánh mắt nảy lửa đó.
“Hay con không nhận ra rằng hàng ngũ xác sống đó đang tăng cường lên mỗi lần các chiến binh của chúng ta hi sinh chứ?” Uther khăng khăng nói.
“Vậy thì chúng ta phải tấn công thủ lĩnh của chúng!” Arthas quát. “Kel’Thuzad đã bảo cho con biết đó là ai và có thể tìm thấy ở đâu. Đó là – một thứ gì đó được gọi là chúa tể sợ hãi. Tên hắn là Mal’Ganis. Và hắn đang ở Thung Cốn. Thung Cốn đấy Uther à. Chính nơi mà thầy được phong làm hiệp sĩ Ánh Sáng đấy. Điều đó có ý nghĩa gì với thầy không?”
Uther thở dài mệt mỏi. “Dĩ nhiên là có, nhưng-”
“Con sẽ tới đó và tự tay giết chết Mal’Ganis nếu cần!” Arthas hét lên. Jaina ngừng nhai và nhìn anh chằm chằm. Cô chưa từng thấy anh như thế này trước đây.
“Bình tĩnh nào chàng trai. Dù dũng cảm như con thì con cũng không thể một mình đánh bại được một kẻ có khả năng kiểm soát được cả cái chết đâu.”
“Vậy thì theo hay không là tùy thầy, thầy Uther à. Con vẫn sẽ đi, dù có thầy hay không.” Trước khi Uther hay Jaina kịp phản đối, anh nhảy lên yên ngựa và quay đầu lại đi về hướng nam.
Jaina đứng dậy đầy sửng sốt. Anh sẽ đi mà không có Uther – không có binh lính… không có cô. Uther khẽ bước tới bên cô. Cô lắc đầu.
“Anh ấy cảm thấy chính mình phải chịu trách nhiệm cho tất cả những cái chết ấy,” cô khẽ nói với vị hiệp sĩ già. “Anh ấy nghĩ mình cần phải ngăn chặn nó lại.” Cô nhìn Uther. “Kể cả các pháp sư Dalaran – những người từ lâu đã cảnh báo Kel’Thuzad – cũng không chắc chắn về những chuyện đang xảy ra. Arthas chắc hẳn cũng không thể biết.”
“Lần đầu tiên ngài ấy cảm thấy sức nặng của chiếc vương miện,” Uther khẽ nói. “Ngài ấy chưa từng cảm thấy như vậy trước đây. Đây là một phần trong sức nặng đó, thưa công nương – học cách cai trị tài ba và thông thái. Ta đã từng thấy Terenas vật vã trong chính việc này khi ngài còn trẻ. Cả hai đều là người tốt, đều muốn những điều tốt đẹp nhất cho thần dân của mình. Để bảo vệ họ và khiến họ vui vẻ.” Mắt ông đầy vẻ trầm tư khi nhìn Arthas khuất dạng. “Nhưng có lúc lựa chọn duy nhất lại rất tàn nhẫn. Có lúc chẳng có cách nào sửa chữa mọi việc cả. Arthas đang học hỏi điều đó.”
“Tôi nghĩ tôi hiểu nhưng – tôi không thể để anh ấy chịu đựng một mình được.”
“Không không, khi ta chuẩn bị binh lính cho một cuộc hành quân dài xong xuôi, chúng ta sẽ đi theo ngài ấy. Người cũng nên nghỉ ngơi đi.”
Jaina lắc đầu. “Không. Không nên để anh ấy lại một mình.”
“Công Nương Proudmoore, theo ý ta,” Uther từ từ nói. “Tốt nhất nên để ngài ấy được giải tỏa đầu óc. Người cứ thoải mái đi theo ngài ấy, nhưng xin hãy để cho ngài ấy ít thời gian để suy nghĩ.”
Ông đã nói rất rõ ràng. Cô không thích điều đó, nhưng vẫn đồng ý với ông. Arthas đang bị mất trí. Anh ta đang cảm thấy tức giận bất lực và hiện đang không thể nói lý được. Và chính vì những lý do đó mà cô không thể để anh một mình được.
“Được rồi,” cô nói. Cô lên ngựa và lẩm bẩm đọc thần chú. Cô nhìn thấy Uther đang cười toe toét khi đột nhiên ông nhận ra rằng ông không thể nhìn thấy cô nữa. “Tôi sẽ đi theo anh ấy. Hãy đến ngay khi người của ngài sẵn sàng.”
Cô sẽ không bám theo quá sát anh. Cô đang tàng hình, nhưng không phải là hoàn toàn im lặng. Jaina cho con ngựa đi nước kiệu để đuổi theo vị hoàng tử ủ ê xứ Lordaeron.
Arthas đạp ngựa rất mạnh, anh tức giận rằng nó không thể đi nhanh hơn, tức giận rằng nó không phải Bất Bại, tức giận rằng anh đã không tính ra trước thời điểm đúng lúc để ngăn chặn chuyện đó. Sự tức giận gần như không thể kiềm chế nổi. Cha anh đã phải đối đầu với loài orc – những sinh vật từ một thế giới khác đã tràn vào thế giới của họ, những sinh vật hung bạo cục súc chỉ ham muốn được chinh phạt. Giờ đây chuyện đó chỉ như là trò trẻ con với Arthas. Làm sao cha anh và Liên Minh có thể chống chọi lại thứ này chứ – một bệnh dịch không chỉ tàn sát người ta mà còn dựng những xác chết đó dậy tấn công cả bạn bè gia đình người đó chỉ để mua vui cho một kẻ loạn trí nào đó? Liệu Terenas có thể làm tốt hơn nổi không? Có lúc Arthas nghĩ ông có thể làm được – rằng Terenas sẽ giải đáp được vấn đề này kịp lúc để ngăn chặn nó, để bảo vệ những người vô tội – và rồi sau đó anh nghĩ lại rằng chẳng ai có thể làm nổi điều này. Terenas hẳn cũng đành bó tay như anh khi phải đối mặt với nỗi kinh hoàng này.
Anh chìm sâu trong suy nghĩ tới nỗi gần như không nhìn ra một người đàn ông đang đứng giữa đường, và anh chỉ kịp kéo con ngựa dừng lại vừa kịp lúc.
Chán nản, lo lắng, tức giận, Arthas quát, “Ngu ngốc! Ông đang làm gì vậy hả? Ta có thể dẫm bẹp ông rồi đấy!”
Người đàn ông này không giống bất cứ ai Arthas từng gặp trước đây, nhưng trông ông ta vẫn có vẻ gì đó quen thuộc. Cao lớn, bờ vai rộng, ông mặc một bộ áo choàng có vẻ như được làm hoàn toàn từ lông vũ màu đen óng ánh. Mũ trùm đầu phủ bóng đen lên khuôn mặt, nhưng vẫn thấy đôi mắt sáng ngời nhìn lên Arthas. Một bộ râu đã luốm ít vệt xám, ẩn sau đó là một nụ cười.
“Anh sẽ không hại ta đâu, và ta muốn được anh chú ý,” ông nói với giọng trầm sâu và êm dịu. “Ta đã nói chuyện với cha anh rồi, chàng trai trẻ. Ông ấy không nghe lời ta. Giờ ta đến để tìm anh.” Ông cúi chào, và Arthas cau mày. Nghe như một – lời chế nhạo. “Chúng ta phải nói chuyện.”
Arthas khịt mũi. Giờ anh đã biết tại sao kẻ lạ mặt bí ẩn này lại trông quen thuộc đến vậy. Terenas đã nói ông ta là một nhà tiên tri tự phong và có khả năng biến thành một con chim. Ông ta cả gan vào thẳng ngai phòng của chính Terenas, và rồi lại ba hoa về một ngày tận thế nào đó.
“Ta không có thời gian cho chuyện này đâu,” Arthas gầm gừ và định kéo cương.
“Lắng nghe ta này chàng trai.” Giờ chẳng hề còn chút chế nhạo nào trong giọng điệu của người lạ mặt này nữa. Giọng ông giòn tan và khiến Arthas vẫn phải lắng nghe. “Xứ sở này đã mất rồi! Bóng tối đã buông xuống, và anh chẳng thể ngăn chặn được nó đâu. Nếu anh thực sự muốn cứu thần dân của mình, hãy dẫn họ băng qua đại dương… về hướng tây.”
Arthas suýt cười lớn. Cha anh đã nói đúng – đây là một gã điên. “Chạy trốn sao? Nơi của ta là ở đây, và con đường duy nhất của ta là bảo vệ thần dân của ta! Ta sẽ không bỏ rơi họ trong cuộc đời khốn khổ này đâu. Ta sẽ tìm được kẻ đứng đằng sau chuyện này và tiêu diệt hắn. Thật ngu ngốc nếu ông lại nghĩ ngược lại.”
“Ta ngu ngốc sao? Ta cho là thế, vì đã nghĩ rằng đứa con trai sẽ thông thái hơn người cha đấy.” Cặp mắt sáng người trông có vẻ lo lắng. “Anh đã có sự lựa chọn của mình. Anh không thể bị xoay chuyển bởi kẻ nhìn xa trông rộng hơn anh.”
“Chỉ có ông mới thấy lời nói của mình là nhìn xa trông rộng thôi. Ta biết ta nhìn thấy những gì, và những gì ta đã nhìn thấy, và rằng thần dân của ta cần ta ở đây!”
Nhà tiên tri mỉm cười buồn bã. “Chúng ta không thể nhìn chỉ bằng mắt đâu, Hoàng Tử Arthas à. Phải dựa vào sự thông thái và trái tim của chúng ta nữa. Ta sẽ cho anh một tiên đoán cuối cùng. Hãy nhớ, anh càng cố tiêu diệt kẻ thù, anh càng nhanh chóng đưa thần dân mình vào tay chúng thôi.”
Arthas mở miệng toan cãi, nhưng ngay khi đó hình dáng của kẻ lạ mặt chợt biến đổi. Tấm áo choàng khép lại quanh ông như một lớp da thứ hai. Đôi cánh đen bóng mọc ra từ trên người trong khi ông teo nhỏ về kích thước của một con quạ bình thường. Với một tiếng kêu nghe có vẻ thất vọng đối với Arthas, con chim lúc nãy từng là một người đàn ông bay lên bầu trời rồi bẻ hướng và bay đi. Anh cứ nhìn nó bay đi, lòng thấy đôi chút lo lắng. Người này trông có vẻ… rất chắc chắn…
“Em xin lỗi vì đã náu mình, Arthas à.” Giọng Jaina phát ra từ đâu đó không nhận ra nổi. Arthas giật mình nhìn quanh cố tìm cô. Cô hiện ra ngay trước mặt anh, trông có vẻ rất hối lỗi. “Em chỉ muốn-”
“Đừng nói!”
Anh nhận thấy cô ngạc nhiên, nhận thấy đôi mắt xanh đang nở lớn, và ngay lập tức thấy ân hận vì đã quát cô. Nhưng đáng ra cô không nên lén lút theo anh như thế, không nên theo dõi anh như thế.
“Ông ấy cũng từng đến gặp Antonidas,” chốc lát sau cô nói, cố nói tiếp những gì định nói dù vừa mới bị anh quở trách. “Em – em phải nói rằng em có cảm nhận thấy một sức mạnh ghê gớm từ ông ta, Arthas à.” Cô đi tới gần anh. “Bệnh dịch xác sống này – chưa từng thấy thứ gì như vậy trong lịch sử thế giới. Đó không đơn giản chỉ là một cuộc chiến tranh đâu – nó còn đen tối và to lớn hơn thế nhiều. Và có lẽ anh không thể sử dụng những chiến thuật thông thường để chiến thắng đâu. Có lẽ ông ấy nói đúng. Có lẽ ông ấy có thể thấy được những gì chúng ta không thấy được – có lẽ ông ấy biết chuyện gì sẽ xảy ra.”
Anh quay đầu khỏi cô và nghiến răng. “Có lẽ vậy. Hoặc có lẽ ông ta chính là đồng minh của tên Mal’Ganis này. Hoặc có lẽ ông ta chỉ là một ẩn sĩ điên khùng nào đó thôi. Chẳng có thứ gì ông ta nói có thể khiến ta bỏ rơi quê nhà được Jaina à. Ta không quan tâm gã điên đó thấy gì ở tương lai. Đi thôi nào.”
Họ đi tiếp trong yên lặng một lúc lâu. Rồi Jaina khẽ nói, “Uther sẽ đi theo đấy. Ngài ấy chỉ cần thêm ít thời gian để chuẩn bị quân thôi.”
Arthas nhìn thẳng về trước, anh vẫn còn giận. Jaina lại cố nói.
“Arthas à, anh không nên-”
“Ta đã phát ngán với việc người ta cứ bảo ta phải làm gì và không làm gì rồi!” Anh quát lớn khiến cho không chỉ Jaina mà chính anh cũng giật mình. “Chuyện đang xảy ra ở đây thật sự quá sức kinh khủng, Jaina à. Ta thậm chí còn chẳng tìm nổi từ ngữ nào để miêu tả nữa. Và ta đang làm mọi thứ có thể rồi. Nếu em đến đây mà lại không ủng hộ quyết định của ta thì có lẽ em không nên đi theo ta.” Anh nhìn cô và dịu đi đôi chút. “Em trông mệt mỏi quá Jaina à. Có lẽ… có lẽ em nên quay về.”
Cô lắc đầu, nhìn thẳng phía trước để không nhìn vào mắt anh. “Anh cần em ở đây. Em có thể giúp.”
Cơn giận dữ trôi tuột khỏi anh, và anh nhẹ nhàng đưa tay ra nắm lấy tay cô. “Ta không nên nói với em như thế, ta xin lỗi. Ta rất mừng vì có em ở đây. Ta luôn luôn vui mừng vì được đi cùng em.” Anh cúi xuống hôn tay cô. Má cô dần đỏ ửng và cô cười với anh, cái nhíu mày dần giãn ra.
“Ôi Arthas yêu quý,” cô khẽ nói. Anh siết chặt tay cô rồi lại buông ra.
Họ đi liên tục suốt cả ngày hôm đó, không nói gì nhiều với nhau, và chỉ dừng lại cắm trại khi mặt trời đã xế bóng. Cả hai người đều quá mệt mỏi để có thể săn tìm ít thịt tươi, vậy nên họ chỉ dùng ít thịt khô, táo, và bánh mì. Arthas nhìn ổ bánh mì trong tay mình. Từ lò nướng trong cung điện, được nướng bằng lúa mì được trồng ở quanh đấy chứ không phải từ Andorhal. Hoàn toàn bổ dưỡng và ngon lành, phồng xốp thơm lừng chứ không phải mùi ngọt bệnh hoạn kia. Một món ăn đơn giản và cơ bản, thứ mà mọi người, tất cả mọi người đều có thể ăn mà không cần sợ hãi.
Cổ họng anh nghẹn lại và anh đặt ổ bánh mì xuống, chẳng thể cắn nổi một miếng, rồi anh vùi đầu vào hai bàn tay. Anh cảm thấy bị áp đảo bởi những làn sóng tuyệt vọng và bất lực tràn qua người. Rồi Jaina khuỵu gối xuống cạnh anh, tựa đầu vào vai anh trong khi anh cố vật lộn với bản thân. Cô chẳng nói gì cả; cô không cần phải nói, hiện diện đầy khuyến khích của cô là tất cả những gì anh cần có rồi. Rồi anh thở dài và quay sang ôm chặt cô.
Cô cũng ôm anh và hôn anh say đắm, cô cũng cần sự an ủi giải khuây từ anh như anh cần từ cô. Arthas luồn hai tay vào mái tóc vàng óng của cô và hít ngửi mùi hương cơ thể của cô. Suốt vài giờ trong đêm đó, họ cho phép chính mình mê đắm trong nhau, gạt mọi suy nghĩ về cái chết, sự kinh hoàng, lúa mì nhiễm bệnh, nhà tiên tri, và những lựa chọn, thế giới của họ co hẹp lại chỉ còn có hai người họ mà thôi.
0 Bình luận