Tập 01: Đại Lâm Viron
Chương 14: Cơn gió lạ thổi bùng hoang mang
0 Bình luận - Độ dài: 4,181 từ - Cập nhật:
Tiếng chuông vang vọng trong màn đêm ma quái, loáng thoáng bên tai là thanh âm thuộc về những tồn tại xấu xa. Thành Sagrion phồn hoa tráng lệ đã trở thành một cơn ác mộng giữa ban ngày, nơi thị giác con người bị che mờ bởi màu đen tà thuật và đôi tai thì ù lên vì sự tra tấn của ngàn vạn thứ tạp âm, một không gian chẳng khác gì chốn địa ngục, u ám đến tận cùng.
Đứng trước cổng trụ sở công hội mạo hiểm giả, nguyên lão Bruno phóng tầm mắt ra màn đêm sâu thẳm, khuôn mặt nhăn nheo sạm lại trước những tiếng khóc la, cau mày tự hỏi:
Tại sao không thể thấy được một ngọn đèn ngọn đuốc nào? Không lẽ cả một tòa thành mà lại không có ai nghĩ đến việc thắp sáng ư!
Tuy lão nghĩ vậy nhưng sâu thẳm trong lòng những giả thuyết cứ lần lượt xuất hiện, rằng màn đêm này chứa đựng tà thuật rất cao, mạnh đến mức ánh sáng không thể truyền xa hoặc tệ hơn là không còn ai có thể thắp đèn ngoài nhóm của lão nữa rồi. Mấy suy nghĩ tiêu cực này chỉ thoáng qua trong chốc lát nhưng không khỏi khiến Bruno phải rùng mình, bất giác hai hàng chân mày sụp hẳn xuống, nét mặt ngày càng khó coi.
Trong đại sảnh, các mạo hiểm giả cấp thấp kẻ đứng người ngồi, ai cũng cúi đầu mỏi mệt, ánh đuốc vàng rọi xuống sàn đá cẩm thạch sáng bóng phản chiếu lại những khuôn mặt bơ phờ, chẳng còn bao phần tinh thần chiến đấu. Tuy tiếng chuông nhà thờ vẫn còn rất vang vọng nhưng cũng chẳng che nổi thanh âm giáp áo, vũ khí run lên lách cách, vẻ hèn nhát bạc nhược thật quá rõ ràng.
Bruno thấy phần lớn mạo hiểm giả cấp đồng và sắt đều đã nhụt chí, không khỏi thầm thất vọng. Agatha thì khẽ thở dài một tiếng, trong lòng nỗi buồn dâng cao, rằng sau khi các tinh anh cấp vàng cấp bạch kim hi sinh, hội mạo hiểm giả chẳng còn mấy anh tài nữa.
Bruno giấu kín vẻ bất an trong lòng, quay về phía Agatha nhẹ nhàng dặn:
“Bà ra ngoài xem thử tình hình, nhớ phải cẩn thận!”
Lão trước giờ hành động quyết đoán, hiếm lộ ra cảm xúc của mình, nhưng khi nói chuyện với Agatha lại hết sức ân cần dịu dàng, cũng vì biết phen này hung hiểm, nên lão muốn dành chút tình cảm cho người thương.
Agatha hiểu tâm ý của lão, bề ngoài bà vẫn giữ vẻ nghiêm trang, nhưng giọng đã chút nghẹn ngào:
“Ông cũng phải bảo trọng đấy!”
Bruno gật đầu, trỏ vào Louis, nhóm Golden Eyes và nhóm Vetox, nói:
“Các người hãy đi với bà ấy!”
Agatha sửng sốt thốt lên:
“Sao lại ...”
Bà nói được nửa câu thì đột nhiên hiểu ra. Những người Bruno chỉ định có thực lực tương đối cao, đi cùng họ sẽ bớt được phần nào nguy hiểm, nhưng bù lại thì bên cạnh Bruno chỉ còn lại toàn đồ bị thịt, nếu như có chuyện thì khó lòng xoay sở. Bà biết lão ta cố ý nhường mình, càng quý trọng chút tình cảm này, không nỡ để lão vì mình mà phải chịu thiệt, bèn nói:
“Không cần đông quá, ông giữ lại vài người đi!”
Bruno khẽ mỉm cười:
“Vậy thì cậu Valentine ở lại đây!”
Vetox thấy nụ cười lão ta trông có vẻ lạ lùng, nhất thời không nhìn ra ý đồ của lão. Nhưng trong tình hình bất ổn như thế mà hai nguyên lão vẫn phân người phòng thủ trụ sở công hội, chứng tỏ nơi này phải cất giấu bí mật hoặc bảo vật gì đó, một thứ rất quan trọng và giá trị, nghĩ đến đây lòng hiếu kỳ của Vetox nổi lên, bèn gật đầu đồng ý ở lại.
Thực ra không phải Bruno muốn giữ lại người để bảo vệ mình mà là do lão nghi ngờ nhóm Vetox có dính líu đến sự việc hôm nay nên tách ba người ra để dễ bề đối phó. Lại biết Agatha coi nhóm Vetox là ân nhân, luôn ra sức bảo vệ, nếu Bruno thẳng thừng lệnh tách riêng Vetox ra thì bà ta sẽ đoán được ngay, nên mới đi đường vòng dụ Agatha mở lời trước.
Sunora biết Vetox tự lo cho bản thân được nên cũng không lo lắng gì, còn Gallyvia thì hơi có vẻ bồn chồn, ánh mắt cứ len lén nhìn ra bên ngoài,
Mọi người cứ thế mà chia thành hai nhóm, nhóm Agatha phỏng theo hướng tiếng chuông nhà thờ mà đi.
-------------
Vào lúc ấy tại nhà thờ Nam Sagrion.
Ba người nhóm Abraham di chuyển rất vội vàng, tuy là có thiên sứ bảo hộ nhưng cả bọn cũng không hề buông lơi cảnh giác, may là trên đường không có chuyện gì xảy ra. Mary tuy chịu một phen kinh hãi nhưng sau một lát cũng đã bình tĩnh lại, không la lối nữa. Lúc này ai nấy đều sốt ruột nên bước chân không tự chủ mà nhanh hơn rất nhiều, ban đầu cả ba chạy ngang hàng, được hơn dăm phút thì Mary đuối sức tụt lại phía sau, Sofia phải vừa chạy vừa kéo bà ta theo, nhưng lạ là tốc độ của cô vẫn không hề suy giảm.
Nhà thờ Nam Sagrion kiến trúc đồ sộ, ngọn tháp chuông mười tầng ở phía sau cao chót vót nên từ xa có thể thấy rõ. Muốn đến tháp phải băng qua một hành lang rộng, trên đường thỉnh thoảng thấy ám khí và những mảnh đao kiếm bị gãy, nhà thờ vốn có nhiều nữ tu xuất thân từ mạo hiểm giả về hưu nên việc họ thủ vũ khí bên người không phải chuyện lạ.
Nhưng Abraham tinh ý nhận ra các món vũ khí này không cùn thì rỉ, mà với cái nghề ai ai cũng coi vũ khí như sinh mạng, dù cho đã gác kiếm đa phần mạo hiểm giả đều có giữ gìn hay bảo dưỡng món kỷ vật đã vào sinh ra tử với mình, hiếm khi để chúng rơi vào tình trạng xuống cấp tệ hại đến thế.
Xem ra những món này là của kẻ địch, phe mình chém gãy được vũ khí của chúng thì ắt cũng không đến nỗi nào. Hi vọng họ cầm cự được đến khi ta đến!
Abraham nghĩ vậy bất giác yên tâm thêm vài phần. Đi song song với lão, Sofia vừa kéo Mary vừa gia tăng tốc độ, ánh mắt phóng ra xa, thầm nghĩ:
Nãy giờ không thấy thi thể nào, một là chưa ai thiệt mạng, hai là tất cả đã thành Zombie... Hỡi ôi thần linh phù hộ!
Đi thêm một lúc nữa, mảnh binh khí rơi vãi càng nhiều, tiếng chuông vang cũng ngày một to rõ chứng tỏ đã đến gần tháp chuông. Abraham tiến phía trước núp sau bức tường cách tháp độ trăm bước cẩn thận xem xét.
Chỉ thấy giữa khoảng sân có một tòa tháp cao, bên cạnh chân tháp có một đám lửa lớn, ba bốn gốc thông bị đốn ngã nằm ngổn ngang. Vây quanh chân tháp là hơn bốn mươi bộ xương trắng cầm vũ khí, ấy chính là Skeleton, một chủng Undead cấp thấp và một đàn tầm ba mươi con chó đen lớn, mắt và miệng toé ra ngọn lửa bập bùng đầy vẻ tà ác, chính là Hellhound một giống quỷ; ngoài ra xen kẽ còn có vài Zombie nữ tu, tên nào cũng run lẩy bẩy trông rất dị thường.
Abraham lấy làm lạ, lão vẫy tay ra hiệu bảo bọn Mary đừng lên tiếng kẻo rút dây động rừng, quan sát kỹ càng hẵng ra tay cũng không muộn.
Lúc này một vài con Skeleton bỗng sấn lên bước gần đến chân tháp, nhưng chỉ được một vài bước đã phải lui lại, Abraham trông thấy lại càng khó hiểu hơn. Đột nhiên Sofia khẽ kéo tay áo lão rồi dùng thủ ngữ nói:
Mỗi khi chúng lùi đều là lúc chuông vang lên, có lẽ chúng sợ tiếng chuông.
Abraham lúc này mới vỡ lẽ, chăm chú nhìn lại thì quả nhiên là thế, lão ta kinh nghiệm đầy mình liền đoán tiếng chuông này ắt phải có bí mật gì đó khắc chế bọn Undead hoặc là thiên địch của tạo vật bóng tối.
Nhận ra điều kiện có chiều thuận lợi, Abraham không khỏi vừa mừng vừa lo, kẻ địch bị áp chế thì cơ hội chiến thắng sẽ càng tăng cao. Nhưng bên đối phương chỉ mới có loại tôm tép lộ diện, bọn đầu não vẫn chẳng thấy bóng dáng đâu, thật sự hiểm hoạ vẫn rất khó lường.
Abraham nhìn xung quanh tháp thấy chỉ còn vài bụi cây và khóm hoa, nếu có mai phục cùng lắm chỉ thêm ba bốn Undead là cùng, vả lại tên Necromancer chủ mưu là một kẻ cao tay, nhất định sẽ không lẩn trốn ở những nơi như thế. Lão suy tính một hồi thấy ra tay lúc này cũng không tệ liền đánh bạo nói lớn:
“Xác chết thối tha dám xâm phạm chốn trang nghiêm, chuẩn bị về với đất đi!”
Ngay khi lời lão vừa dứt, vị thiên sứ lướt tới, hào quang tỏa ra bốn phía sáng rực, mấy con Zombie bị chiếu trúng lập tức tan biến, còn đám Skeleton và Hellhound không những không hề hấn gì mà còn hung hãn lao tới tấn công. Thiên sứ không né tránh hay thoái lui, chỉ đưa tay ra sau lưng, đột nhiên một luồng sáng vụt lóe như sao băng, trên tay đã cầm một thanh kiếm toả hào quang trắng. Bảo kiếm ấy đánh tới đâu, đao kiếm đều gãy, đầu rơi chân rụng đến đấy, trong chốc lát đã dọn sạch bọn quái vật, không còn một mống nào.
Abraham thấy địch đã bị dẹp, liền quay sang Mary và Sofia bảo:
“Hai người cứ đứng gần thiên sứ chờ ta!”
Nói rồi lão nhanh nhẹn bước đến chân tháp. Ngọn tháp này bề ngoài chỉ là một toà tháp cũ, sơn phết đã phai nhiều không còn nhận ra màu gốc, nhiều chỗ vữa trát thậm chí còn bong tróc lộ cả gạch. Nhưng Abraham nhìn kỹ thì thật ra loại gạch dựng tháp là đá nham thạch cực kỳ bền chắc, lại thấy cửa tháp được làm bằng thép dày trông rất kiên cố, lão liền nghĩ thầm:
Chỉ một toà tháp chuông mà lại được xây dựng vững chãi đến thế. Quả nhiên nơi này có ẩn chứa bí mật gì đây!
Lão thấy cánh cửa thép chắc chắn, tai nghe tiếng chuông vang rền, bàn tay chầm chậm vuốt ve bộ râu bạc, nghĩ bụng:
Gọi hay gõ cửa thì người bên trong vị tất đã nghe thấy gì. Hay là cho thiên sứ bay lên đỉnh mời họ ra mở cửa?
Ngay lúc ấy, cửa sổ trên tầng hai mở ra, một nữ tu đứng tuổi thò đầu ra nhìn xuống, trông thấy bọn Abraham liền mỉm cười nói lớn:
“Thì ra là ngài Abraham... tạ ơn thánh thần Mary và cô Sofia vẫn bình an!”
Chẳng đợi Abraham mở lời, nữ tu ấy đã xoay người vào trong xua xua tay ra hiệu, nghe cạch cạch dăm ba tiếng, cánh cửa thép từ từ mở ra. Abraham vẫy gọi Mary và Sofia vào tháp, lão nghiêng mình đứng một bên cửa đợi cho hai người phụ nữ vào trước mới theo sau, sợ hai người bị kẻ địch bất ngờ đánh lén lại trở tay không kịp.
Ba người bọn Abraham vừa đặt chân vào thì có hai nữ tu trung niên nhanh chóng đóng sầm cửa lại, bên trong tháp đèn đuốc sáng trưng, nhưng cả tầng chỉ có bốn nữ tu chứ không có một đứa trẻ nào cả, Sofia lo cho con gái đến nóng ruột nên liền dùng thủ ngữ hỏi thăm. Nhưng mấy nữ tu này không hiểu thủ ngữ, cứ nhìn sang Mary và Abraham chờ giải thích. Abraham cũng lo cho cháu nên liền nói:
“Bọn trẻ đâu rồi? Mọi người có cứu được chúng không?”
Một nữ tu tuổi độ tứ tuần, đáp:
“Bọn tôi sợ quái vật phá được cửa vô nên cho chúng lên tầng mười hết rồi, ngài muốn gặp cứ việc leo lên, bọn tôi còn phải canh gác không rời tầng này được.”
Abraham cả mừng, nói:
“Vậy ta xin phép đi xem chúng trước!”
Lão chưa dứt lời bỗng một bóng người vụt qua nhảy thẳng lên tầng trên, thân thể như con én thoi đưa, tựa hồ không tốn chút sức lực nào. Abraham nhìn thấy thấp thoáng người đó chính là con gái đỡ đầu Sofia của mình, trong lòng càng kinh ngạc:
Khi xưa cha mẹ qua đời nó mới hơn sáu tuổi, không có người chỉ dạy sao luyện được bản lĩnh ghê gớm thế!
Trong lòng ngạc nhiên nhưng Abraham không biểu hiện ra mặt, chỉ im lặng đuổi theo Sofia.
Tháp này có mười tầng, mỗi tầng đều có hai nữ tu canh gác, Sofia cứ chẳng nói chẳng rằng chạy lướt qua, may là đa số họ quen Sofia nên chỉ hơi bất ngờ chứ không ra tay tấn công hay ngăn chặn cô.
Còn về phần Abraham, tuy cũng chạy nhanh theo Sofia nhưng mấy nữ tu ít ai biết mặt lão nên phải mất công giải thích mỗi người đôi lời, thành ra lão tụt lại sau Sofia một quãng.
Khi leo đến tầng thứ chín thì bỗng tầng mười vang xuống tiếng thét chói tai thê lương đến rợn người, Abraham và hai nữ tu gác tầng chín kinh hoảng vội chạy lên trên. Chỉ thấy tầng mười ngoài một nữ tu đang đánh chuông ra chỉ có mấy đứa trẻ và ba nữ tu già đứng vây quanh Sofia, người đang quỳ phục dưới sàn tay ôm chặt lấy một đứa trẻ. Abraham không hiểu có chuyện gì xảy ra, liếc mắt nhìn sang các nữ tu già nhưng chỉ thấy họ khẽ thở dài và lắc đầu, một cảm giác bất an đột ngột truyền khắp thân thể lão, lão đã quen nhìn cảnh chết chóc thế nhưng giờ phút này đây, cánh tay lão lại không ngớt run lên, trong đầu óc một hình ảnh bé gái nhỏ nhắn tươi cười hiện ra, không biết sao trong cổ họng lại thốt lên:
“Viola... không thể nào!”
Trong nháy mắt, khuôn mặt luôn luôn điềm tĩnh của Abraham tái hẳn đi, lão vội bước đến kiểm tra. Chỉ thấy trong vòng tay Sofia đúng là Viola, khuôn mặt xinh xắn giờ đây trắng bệch như tờ giấy, mu bàn tay trái có vết cắt sâu tới tận xương, nguyên cánh tay sưng vù, trên vết thương có bôi thuốc mỡ, có lẽ các nữ tu sợ bị thối thịt nên không dám băng kín. Abraham trông thấy vết thương này đôi mắt không nhịn được mà rơi lệ, lão tuy tinh thông phép thuật ánh sáng nhưng không biết dùng thuật trị thương, chỉ dành trơ mắt nhìn đứa nhỏ bé bỏng chịu đau đớn.
Lúc này nữ tu Mary cũng đã leo đến nơi, bà ta thấy sắc mặt mọi người ai cũng trầm mặc, Sofia mặt đầy nước mắt ôm chặt lấy Viola, lại thấy vết thương đáng sợ trên tay cô bé thì liền hiểu được mọi chuyện, bất giác cũng đồng cảm mà đau lòng. Nhất thời cả tầng tháp chỉ còn tiếng chuông vang dội nghe mà trĩu lòng.
Bỗng nhiên có thanh âm già nua cất lên:
“Đừng lo, chỉ cần chuông còn vang thì vết thương sẽ không diễn tiến nặng đi!”
Abraham hơi giật mình, giọng nói này xen giữa các hồi chuông, không to không nhỏ nhưng rất rõ ràng, lão xoay người nhìn lại chỉ thấy một nữ tu già tóc bạc lơ thơ, thân hình nhỏ thó, đôi tay gầy guộc đang đều đều kéo dây chuông. Cử động của bà ta khá chậm, trông bộ yếu ớt vô lực tựa như có thể ngã xuống bất kỳ lúc nào. Abraham lấy làm lạ liền hỏi:
“Bà nói thế là sao?”
Vị nữ tu già không đáp, cứ cặm cụi kéo chuông. Abraham thấy bà ta lơ mình, cộng thêm đau lòng cho Viola, lão không nén được cơn giận, hai hàm răng cắn chặt, tay nắm thành đấm, quát:
“Mụ kia ta nói mụ có nghe không?”
Một nữ tu khác vội khuyên:
“Xin ngài đừng nóng, bà ấy tuổi cao nên lẩm cẩm nói bừa vậy thôi.”
Mary cũng vội tiếp lời:
“Đúng vậy, thay vì nổi nóng thì nghe đầu đuôi tại sao Viola lại ra nông nỗi này còn có ích hơn, biết đâu nghe xong chúng ta lại tìm ra cách chữa trị.”
Abraham giận lên nhanh nhưng bình tĩnh lại cũng rất nhanh, lão thấy nữ tu kéo chuông chẳng một trăm thì cũng phải chín chục bèn không thèm so đo với bà ta nữa, quay sang mấy nữ tu còn lại, hỏi:
“Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Vết thương này từ đâu mà có?”
Dưới ánh đuốc sáng, tướng mạo Abraham hiện ra vẻ uy nghiêm hiếm có, khiến ai trông thấy cũng sinh lòng kính phục, mấy nữ tu liền cung kính kể lại thuật sự tình.
Độ vài tiếng trước, sau bữa ăn sáng các nữ tu dẫn lũ trẻ ra chơi ở vườn hoa cho khuây khỏa, tiện thể ẵm mấy đứa trẻ sơ sinh ra sưởi nắng cho chắc xương. Được một lúc thì bỗng nhiên không biết từ đâu xuất hiện một con dơi to lớn, mắt đỏ như máu, cùng một đám Skeleton và Hellhound doạ cho mọi người một phen khiếp vía. Các nữ tu bị tấn công đột ngột, nhân số lại không bằng, may là nhiều người trong nhóm xuất thân mạo hiểm giả, vài người còn giữ thói quen mang vũ khí bên mình, nên mới vừa đánh vừa lui. Vốn lúc đầu các nữ tu muốn đem lũ trẻ chạy khỏi nhà thờ cầu viện, nhưng kẻ địch đông đảo chặn hết đường ra, về sau có nữ tu nhớ gần tháp chuông có chuồng nuôi bồ câu đưa thư nên mọi người mới chạy tới đây, nhưng đến nơi thì bồ câu đâu không thấy chỉ thấy toàn là Skeleton với Hellhound bủa vây tứ phía. Sau một phen ác chiến, các nữ tu cuối cũng đành phải rút lên tháp chuông cố thủ.
Abraham bề ngoài trông nhẫn nại nghe kể chuyện, nhưng ánh mắt cứ nhìn vết thương trên tay Viola chằm chằm, đột nhiên lão hỏi:
“Vậy vết thương này là chúng gây ra sao?”
Nữ tu thở dài, ảm đạm đáp:
“Đúng vậy, bọn tôi hi sinh phân nửa nhưng cũng không thể bảo toàn cho lũ trẻ...”
Abraham xua tay ý bảo nữ tu đừng nói nữa, lão lặng lẽ bước đến bên Sofia, bàn tay thô ráp nhẹ nhàng vỗ về lên vai trái người con gái đỡ đầu, hạ giọng an ủi:
“Đừng sợ, không sao đâu, con bé sẽ ổn thôi!”
Lão chưa dứt lời bỗng nghe đánh rầm một tiếng, mọi người đều cảm thấy mặt đất dưới chân rung chuyển không ngừng, lũ trẻ con hoảng sợ khóc lóc. Abraham trầm mặc, tự trách:
Ta thật ngu ngốc! Tình cảnh thế này lại để cho cảm xúc chi phối!
Lão nhanh chóng mở cửa sổ nhìn xuống dưới chân tháp, thấy một khối thịt bầy nhầy to như con voi điên cuồng húc vào cánh cửa thép, làm cả tòa tháp lung lay. Abraham cau mày, vị thiên sứ liền phóng ra khỏi tháp, thanh kiếm trắng hóa thành màu cam, hào quang sáng rực tựa như tia sét giáng thẳng xuống con quái.
Chỉ nghe phập một tiếng, hào quang tắt ngúm, thanh kiếm của thiên sứ đã cắm ngậm vào con quái vật.
Thì ra Abraham không rõ cục thịt ấy là thứ quái vật gì, lại nghĩ kẻ địch hẳn còn ẩn nấp không tiện dây dưa nên tốt nhất là một đòn tiêu diệt đối thủ. Lão cùng thiên sứ tâm ý tương thông, ý nghĩ liền lóe lên vị thiên sứ liền sử dụng chiêu Patience of Azrael, chính là tuyệt chiêu mạnh nhất mà người gác cổng thiên đường có thể dùng. Nào ngờ con quái vật ấy chẳng tránh chẳng đỡ, cứ như thế hứng trọn đòn đánh mà chẳng hề hấn gì, Abraham thấy thế trong lòng không khỏi nóng nảy:
Không ổn rồi!
Lão chưa kịp triệu hiệu thiên sứ về thì bỗng con quái thú vươn ra mười mấy cái xúc tu. Vị thiên sứ muốn rút kiếm lại chém nhưng thanh kiếm như bén rễ trong người con quái, không thể lay chuyển. Nếu lúc ấy vứt kiếm bỏ chạy thì có thể thoát thân, nhưng thanh kiếm này chứa đựng phân nửa linh lực của thiên sứ, sao dễ dàng để đối phương cướp mất được. Tuy chỉ do dự trong chớp mắt nhưng thời cơ đã lập tức trôi qua, cánh, lưng, tay và chân thiên sứ đã bị xúc tu quấn chặt hoàn toàn, không còn cách nào chống cự nữa.
Abraham thấy thế, đang bàng hoàng không biết phải làm sao thì đột nhiên xộc vào mũi lão là một mùi tanh lợm giọng, đồng thời phía bên trên có gió rít ghê gớm, như thể có thứ ác điểu nào đó đánh lén. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu lão:
Điệu hổ ly sơn!
Không kịp suy nghĩ gì khác, Abraham vội lùi nhanh về phía sau, hai tay bảo hộ vùng trọng yếu trên người. Chỉ nghe ầm một tiếng lớn, khung cửa sổ lão vừa đứng đã tan tành, thay vào đó là một lỗ thủng lớn. Mọi người đang ở trên cao, gió thổi rất mạnh, trong nháy mắt mấy cây đuốc treo trên tường đã bị thổi tắt, chỉ còn lại hai đã vậy một ngọn còn bị rơi dưới đất.
Abraham kinh hãi, quát lớn:
“Mau...”
Lão định kêu mọi người đừng để đuốc tắt, nào ngờ mới nói được một chữ thì đột nhiên cảm thấy luồng gió tanh tưởi kỳ lạ lại ập đến, làm lão nghẹn họng, trong giây lát như thể bị người ta bóm cổ, không còn chút dưỡng khí nào.
Nhưng Abraham dù gì cũng là mạo hiểm giả cấp cao, gặp nguy không hề hoảng loạn, lão lập tức dồn ma lực, vỗ tay một cái, chớp mắt đã hình thành một kết giới chắn gió, ngăn chặn cơn gió tanh thổi tới mọi người.
Gió vừa ngừng, ai nấy liền cảm thấy nhẹ nhõm, Abraham hít vội một hơi dài, nhận thấy mấy ngọn đuốc chỉ còn le lói, gấp gáp kêu:
“Nhanh thắp đuốc lên!”
Bỗng hự một tiếng, tiếng chuông ngưng bặt, Abraham cả kinh, vội xoay lại, dưới ánh sáng lấp loáng thấy lờ mờ bên quả chuông có bóng người đang đứng. Lão định thần nhìn kỹ thấy kẻ đó vừa cao vừa gầy khác hoàn toàn với thân hình thấp bé của nữ tu kéo chuông, lớn tiếng quát:
“Ngươi là ai?”
Kẻ kia không đáp, vung tay vỗ lên quả chuông, cú vỗ trông rất nhẹ nhàng nhưng quả chuông vẫn hơi lắc lư, kêu lên u u, âm thanh trong vắt khác lạ. Một giọng nói lạnh lẽo quái dị vang lên:
“Tìm thấy rồi!”
Abraham còn chưa hiểu chuyện gì đột nhiên một luồng gió cực mạnh không biết từ đâu thổi đến, ầm một tiếng, phần đỉnh tháp bị xé toạc. Kẻ lạ mặt kia cười lớn, không ngừng kêu to:
“Tìm thấy rồi! Ta tìm thấy rồi! Ngôi quỷ hậu chắc chắn sẽ thuộc về ta... thuộc về ta!”
Rồi lập tức vọt người lên, nghe rít một tiếng chói tai, hoá thành một con dơi khổng lồ, cắp quả chuông bay đi, chẳng mấy chốc đã mất dạng vào bóng đêm.
Kẻ ấy vừa rời khỏi, cơn cuồng phong liền ngừng, mọi người mới thở phào một hơi, Abraham khẽ hừ một tiếng, định bảo các nữ tu thắp đuốc lên lại chợt nghe dưới chân tháp có nhiều tiếng ồn ào, nhìn xuống thì thấy trong bóng đêm bỗng xuất hiện mấy trăm đôi mắt sáng rực như hòn than, tiếng chó tru ớn lạnh cả người, chính là một đàn Hellhound đã bao vây cả tháp.
0 Bình luận