• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Quyển 4

Chương 79 - Chuyến đi cuối cùng

3 Bình luận - Độ dài: 4,834 từ - Cập nhật:

Gót giày rộn vang trên cầu cảng, khi họ đến nơi, con tàu đã bỏ xa họ mấy chục mét.

Đám người mặc âu phục nháo nhào hô hào nhau lấy xuồng máy, nhưng đáng tiếc, có cố gắng đến đâu thì xuồng của họ cũng không nổ máy. Trong hai ngày chuẩn bị cho đám cưới, số ca nô ấy đã bị Daisuke tháo banh cả rồi.

Tôi đứng trên tàu nhìn vào bờ, ngắm nhìn bộ dạng bơ phờ bất lực của đám vệ sĩ. Hai bàn chân tôi đau nhói, giày cao gót và lớp váy ngoài bùng nhùng đã vứt lại ở trên đường. Daisuke nới lỏng cổ áo. Có người rút súng toan bắn chúng tôi, thì bị một tiếng kêu ngăn lại.

Haga rẽ người bước ra từ đám đông, mắt hai người chạm nhau từ hai bên cầu cảng.

“Khá lắm búp bê một tay.... “ Giọng của lão truyền từ bờ vào bộ đàm trên tay tôi – “Cưng nghịch ngợm hết biết, làm anh không tài nào quản nổi. Lần này coi như nể mặt bà, anh để mấy đứa trót lọt một phen, lần tới quay lại nhớ đem Niết bàn trở về. Nàng mà có một vết xước, đừng trách anh tàn nhẫn với cưng”

Tôi nhìn thấy trong đám đông bà cùng bước ra cùng Haga, bà kéo tai cốc đầu hắn, hắn ngoan ngoãn nghe theo. Nhìn thấy nụ cười dìu hiền của bà cả tôi cùng Daisuke cúi đầu ân hận. Chúng tôi buộc phải để bà ở lại bởi vì đoạn đường phía trước vượt quá sức chịu đựng của bà.

Trước đám cưới tôi và Daisuke đã ngồi xuống chia sẻ kế hoạch của mình, bà vuốt tóc tôi, nói rằng không sao đâu, dù không tìm đuọc Hari, hai đứa tôi nhất định phải quay trở về.

“Cả đời bà chỉ có đứa con gái bất hiếu, không một ai thương bà như thằng Hari cả. Cuộc đời này, không biết còn lại bao nhiêu, nếu được chọn một điều ước bà chỉ mong muốn được chạm vào nó một lần. Được xoa mái tóc nó, được ôm nó vào lòng. Biết được có hai người còn yêu thương nó hơn cả bà bà, bà chẳng còn gì hối tiếc nữa, như vậy bà đã mãn nguyện rồi...”

Jenny cúi đầu lễ phép, tôi và Daisuke đứng ở đuôi thuyền quyến luyến, đến khi không còn thấy bà đang vẫy chào chúng tôi.

Con thuyền băng qua ngọn hải đăng mũi đất, hướng về Thái Bình Dương bao la.

eb207a36-6f76-40de-92b4-b33ca9124c11

Không có sự trợ giúp của internet, chúng tôi được trải nghiệm cảm giác phiêu lưu trên biển thực thụ của người xưa. Đó không phải một điều đáng khoe khoang mà là cảm giác vô định, bất an, không có nơi để nương tựa vào. Bốn bề là mặt nước mênh mông không bờ bến, lúc này có hoảng loạn thì cũng không có nơi để quay đầu về. Khi hậu thay đổi thất thường, lúc nắng lúc mưa, một lúc đại dương còn đang tĩnh lặng, một giây sau sóng đã cuộn trào tưởng như có bàn tay hải thần đang lật thuyền.

Mặc dù chúng tôi vẫn được chiều chuộng hơn người xưa, bởi vẫn còn có thể dựa dẫm vào thiết bị vệ tinh, và không gian bên trong của du thuyền vẫn còn đầy đủ những tiện nghi có thể gọi là xa xỉ. Nhưng bốn đứa trẻ ranh bọn tôi bị đẩy vào bước đường cùng, phải cướp thuyền mà không thể đem theo chuyên gia. Phải dựa dẫm vào những gì tự thân có để sinh tồn ở trên biển. 

Nói đến hoa tiêu, để đủ trình độ ra biển bạn phải trải qua một khóa đào tạo vô cùng phức tạp mới có thể suýt soát sống sót, chưa nói là trong đại dịch thây ma. Một người hoa tiêu phải có mắt tinh, tai thính, có phản xạ nhanh nhạy, có kỹ năng sử dụng hải đồ định vị và một cái đầu tràn ngập kiến thức hàng hải, để tránh những nguy hiểm khi dẫn đường. Nó là một nghệ thuật và một bộ môn khoa học dựa trên những kiến thức vật lý, toán học, hải dương học, bản đồ, thiên văn học và muôn hình vạn trạng những kiến thức khác.

Không có internet, không có kiến thức hàng hải chuyên sâu, dựa dẫm vào một du thuyền, chúng tôi đâm đầu vào nửa đại dương mênh mông của địa cầu. Chỉ cần trệch hướng gió một chút là có thể mất xác ngoài khơi xa, có muốn, cũng không có cách nào để tìm về. 

Để nói cho bạn dễ hiểu thì Ogasawara nằm ở cực đông của Nhật Bản cũng như của khu vực Đông Á, nối tiếp nó chỉ có quần đảo Hawaii biệt lập giữa đại dương, và ở phía đông nữa là Hoa Kỳ ở phía bên kia địa cầu.

Ogasawara.

Khúc giữa của vòng cung Izu– Ogasawara –Mariana. Nằm ngay trên rãnh vực Izu- Ogasawara với độ sâu chín ngàn tám trăm mét (đỉnh Everest cao 8.800m), nối liền với rãnh vực Mariana ở phía nam tạo thành hệ thống hải vực vĩ đại nhất địa cầu. 

Quần đảo được bao quanh bởi các rạn san hô tuyệt đẹp và có nhiều bãi biển nhỏ.

640px-Ogasawara-Islands.jpg

Rời khỏi cảng Nichinan thuyền vòng qua mũi Toi để men theo dải đảo nối hai đầu Kyushu – Đài Loan xuống Okinawa. Sau khi đã tới Amami, tức là phân nửa quần đảo Okinawa chúng tôi sẽ bẻ lái về hướng đông, dừng lại tại quần đảo Daito để nghỉ ngơi một ngày, rồi đâm thẳng ra Thái Bình Dương bao la, hướng đến vành đai núi lửa Ogasawara.

Vẫy chào chùng tôi từ đất liền, là bầy ngựa hoang trên cao nguyên Toi. Nhìn thấy chúng xa dần sau lưng tôi bất giác nở nụ cười vu vơ. Tôi đã chính thức rời khỏi Kyushu, đó là một cảm giác vô cùng đặc biệt, giống với lần đầu tiên bạn rời xa cha mẹ để tới trường. 

Chặng đầu tiên băng qua quần đảo Osumi và đảo Tokara, tôi cứ tưởng chuyến đi này sẽ dễ dãi. Ấy là bởi vì chúng tôi vẫn men theo rặng đảo nối liền từ đất mũi Kyushu xuống tận Tô Áo, Hoa Liên, Đài Loan.

Không quan trọng bạn non nớt  tới đâu, chỉ cần lạc lõng nữa ngày ở trên biển, ắt sẽ nhìn thấy hòn đảo tiếp theo. Bởi vì luôn có dấu hiệu để dẫn lối, cứ thế tôi nảy sinh chút tự mãn, thầm tin rằng đại dương cũng chẳng ghê gớm lắm, rằng mình sẽ đến Huyết Chân một cách an toàn.

Bởi vì vẫn nằm trong hải phận của Okinawa, nên chặng đầu hãn còn là khoảng thời gian để chúng tôi tranh thủ ngắm nhìn vẻ đẹp của đát nước.

Jenny ngồi trên mũi tàu đọc sách, cô mặc một chiếc áo phông rộng thùng thình có logo hình bộ xương con khủng long trong vòng tròn màu đỏ. Sau vụ lùm xùm ở khu nghỉ dưỡng của Haga tôi không thấy cô ấy ăn mặc hở hang nữa.

Daisuke cầm máy ảnh, hăm hở chụp lại những hòn đảo ở ngoài xa. Tôi muốn cười cậu, cũng không thể cười. Trong ánh mắt của cậu chan chứa là háo hức, như một đứa trẻ mới chào đời.

Tôi bước đến mũi thuyền cùng Daisuke, cậu hỏi tôi có muốn làm tư thế của Jack và Rose giống trong phim Titanic không.

Tôi cười xòa nói thôi không cần, chúng mình vừa mới cưới, khoan làm vậy kẻo có cái kết giống Titanic thì nguy.   

Tôi vừa mới dứt câu mạn thuyền đã vang lên tiếng âm ỉ não nề.

Hệt như tiếng ai đó đang thở vào một ống bô, tạo nên những đợt sóng âm u, rùng rợn.

Hai đứa tôi còn chưa kịp xác nhận âm thanh đó đến từ đâu thì một bóng đen từ dưới mặt biển ầm ầm xuyên tới, bay qua mặt nước, rồi đáp xuống cạnh thuyền chúng tôi.

Sóng tạt vào boong làm ba đứa ướt như chuột lột. Tôi và Daisuke nhìn nhau, thay vì sợ hãi, hai đứa hạnh phúc phá lên cười.

Bị tạt cho gáo nước lạnh tôi cũng tươi tỉnh hẳn. Jenny ở đằng kia vừa mới thay áo mới đã bị nước biển dội vào, cả cuốn sách mới của cô cũng ngâm đầy trong nước muối.

Jenny phụng phịu đưa mắt về phía bọn tôi, còn tôi và Daisuke chỉ nắm tay nhau cười trừ.

Ba đứa cùng vươn người qua phía bên kia lan can, nhìn con quái vật vừa tạt nước lên mình. Đây không phải là một điềm xúi quẩy mà là một phép màu của tự nhiên.

Bé cá voi hiếu kỳ lần đầu tiên thấy tàu bè bơi qua, vươn mình lộn một vòng thay lời chào những người bạn mới. Từ trong cơn sóng trắng nhô lên những tảng đá ngầm màu đen , hệt như mũi của những chiếc tàu ngầm.

Tới khi những cột nước cùng đồng loạt bắn lên tời xanh tôi mới nhận ra đó không phải những dải đá ngầm mà là gia đình của bé cá voi.

Như vậy, cả một hạm đội cá voi lưng gù từ dưới lòng biển xuất hiện đồng hành cùng thuyền chúng tôi lúc nào không hay. Cảnh tượng hùng vĩ của mẹ thiên nhiên làm cho con tim tôi thổn thức.  

Qu-sinh-nh-t-mu-n

Dù cho có đôi chút đáng sợ nhưng bên trong vẫn dấy nên một niềm háo hức tột độ. Jenny ở bên tôi nhướn môi cười một cách bí hiểm. Toi rồi, con nhỏ không còn giận nữa, dường như nhỏ lại chuẩn bị làm điều gì dại dột rồi đây.

Jenny lột áo phông, đặt chân lên mạn thuyền mượn lực nhảy xuống nước.

Nhỏ lao vút qua trước mắt tôi và Daisuke khiến hai đứa không giấu được kinh ngạc mà chỉ trố mắt, thót tim.

Tôi nhoài người qua lan can nhìn xuống lòng biển sâu hoắm. Sóng trắng tan đi để lại một màu xanh thẫm êm đềm.  Con nhỏ ấy đâu rồi, chẳng lẽ, sợ quá hóa điên nhảy xuống biển tự tử rồi sao?

Đặt chân lên con tàu này đã lấy đủ can đảm của tôi rồi, đừng nói đến chuyện nhảy xuống khoảng không bao la, lạnh lẽo và vô tận đó.

Những cột sóng trắng xóa cuộn trào, đem theo một cái đầu vàng hoe ngoi lên giữa bầy cá voi. Cô ấy cười phá lên một tiếng sảng khoái, còn tôi thì chì biết ôm tim thở phào.

Mizuki ở trên buồng lái để ý thấy ba đứa tôi đang chơi đùa, liền cho tàu chậm lại. Tôi và Daisuke đưa tay đón lấy cơn sóng biển tạt ngang qua mạn tàu.

Bên dưới làm nước xanh, Jenny như một nàng tiên cá uyển chuyển uốn mình bên cạnh bé cá voi, lúc thì điệu nghệ uốn mình cùng dòng nước, lúc, lại thát ẩn thoát hiện như con cá trạch. Cô và bé cá voi cuốn lấy nhau, vẽ vào trong đại dương một đường xoắn ốc, tôi chỉ sợ vây đuôi của bác cá voi nào đó không cẩn thận dập cho nhỏ bẹp dí thì toi.

“Xuống đây đi...” – cô bì bõm tạt nước về hướng chúng tôi.

Tôi đưa tay lên che chắn, còn không quên đáp lại.

“Thôi đi ạ, con không có điên như mẹ.”

“Đúng là cậu chẳng học được gì hết mà, cậu vẫn chán òm như ngày nào.”

Jenny nhoài người lên ôm lấy bé cá, cũng là lúc cả gia đình em cùng nổi lên bề mặt. Đại gia đình cá lưng gù cùng cất giọng ngân nga, ca bản hoàn ca du dương của của biển cả.

Jenny ôm tai trước âm thanh sấm rền bên tai, nhưng cô vui sướng cười với chúng.

Cảnh tượng đặc biệt tới mức Daisuke không còn vững tay ghi lại nữa. Cậu hạ máy quay xuống, bàn tay tôi và cậu đan vào nhau, cả hai cùng nhìn về phía mặt biển xa xôi, tê liệt trước khoảnh khắc mỹ lệ của thiên nhiên và xao xuyến lòng người...

...

Về đêm, biển mẹ lại mang một cảm giác hoang sơ, u ám.

Khi mặt trời chiếu sáng, ta có thể vì vẻ đẹp mĩ lệ của đại dương mà quên đi nối sợ hãi bao trùm. Màn đêm phơi bày ra bộ mặt thật của bà, một sinh vật sống cổ đại uy nghi và tàn nhẫn.

Con tàu một mình di chuyển trong bóng tối hệt như đang trôi nổi trong một hố đen, bốn bề chỉ có một màu đen tuyền, chẳng còn phân biệt được đâu là mặt nước đâu là bầu trời nữa..

Tôi đứng ở trên bong, lặng lẽ nghe tiếng tàu đang rẽ nước và tiếng thở của mình. Màn đêm tĩnh mịch đến chết chóc. Lúc ấy tôi nhận ra, thiên nhiên đáng sợ nhất, không phải là lúc có gì đó đang rình rập ở ngoài kia, mà là cảm giác chẳng có thứ gì cả. 

Tôi đưa tay nắm lấy màn đêm, bàn tay tôi biến mất vào trong đêm tối. Tôi chiếu đèn pin về mặt biển xa, ánh sáng đèn pin cũng bị tấm màn đen nuốt chửng.

Biển mẹ để cho chúng tôi yên, có lẽ không phải lòng nhân từ, mà bởi vì chúng tôi quá nhỏ bé để trở thành mối bận tâm của bà.

Trong giây lát tôi đã tưởng mình như đã chết, lại nhớ đến cõi vô định và những suy nghĩ tâm linh. Chúng tôi đó giờ vẫn lạc lõng ở trong vụ trụ này?   

Bây giờ hãy tưởng tượng tất cả các sinh vật khác nhau đã điều chỉnh qua hàng triệu năm tiến hóa phát hiện ra một linh hồn tội nghiệp, không có khả năng tự vệ, ở nơi lạnh giá nhất, tối tăm nhất, cô đơn nhất của biển. Thật đáng sợ khi chúng ta không thể nhìn thấy, thậm chí còn đáng sợ hơn khi những thứ chúng ta không thể nhìn thấy có thể nhìn thấy chúng ta một cách hoàn hảo.

Tôi thở dài, cất đèn pin, chuẩn bị quay vào trong thì từ dưới lòng đại dương xuất hiện hai con mắt đỏ ngầu nhấp nháy.

Tôi chớp mắt, thì nó cũng chớp theo tôi. Chẳng mấy chốc, hai con mắt đã biến thành bốn, rồi nhân lên tám... hàng trăm con mắt đỏ ngầu.

Nghe tiếng tôi hét lên, Daisuke và Jenny cùng chạy đến. Tôi ngã vào tay bọn họ, trong giây lát tôi đã tưởng là có sinh vật nào đang ngoi lên từ biển đêm.

Daisuke nhoài người ra lan can, rồi cậu ngoái đầu, cười xuề xòa với tôi.

“Em nhát như thỏ đế, có vậy mà cũng hét lên là sao?”

“Anh thử làm người đầu tiên nhìn thấy em coi anh có hét lên không?”

Daisuke lại cười, xua đi, cậu và Jenny khoác tay tôi ba đứa cùng bước ra phía mạn thuyền.

Thì ra những con mắt nhấp nháy mà tôi đã nhìn thấy không phải là mắt mà là ánh sáng huỳnh quang từ một bầy sứa.

Cùng với những chú sứa màu hồng dần xuất hiện thêm hàng trăm hàng vạn những sinh vật khác...

Hút tầm mắt đều là những đốm sáng xanh hồng âm u lớn có nhỏ có, chi chít như một biển sao. Trong bóng tối nơi này, giữa ngàn vạn đốm sáng huyền ảo như ma thuật, chúng tôi có cảm giác như mình đang đứng giữa vô vàn tinh tú trong vũ trụ, cảnh tượng hoành tráng không lời nào tả xiết.

Nhưng cúi đầu nhìn xuống mới thấy cảnh tượng xung quanh mình vẫn chưa là gì cả. Giữa màu đen hư ảo dưới đáy vực xanh sâu thăm thẳm kia là một dải ngân hà xanh biếc uốn lượn, xuyên qua màn đêm vô tận, trải dài từ nơi bắt đầu cho đến điểm cuối của bầu trời.

Soi sáng những bầy cá voi cá đuối là hằng hà sa số những sinh vật đơn bào trôi nổi trong nước biển. 

Sắc màu rực rỡ của đại dương hòa vào trong đôi mắt của hai người đứng bên tôi lúc đó, tạo thành một vũ trụ pháo hoa rực rỡ.

Con thuyền như một chấm đen bé nhỏ trôi nổi giữa dải ngân hà bao la. Hàng nghìn năm lịch sử, con người mới chỉ khám phá được hai mươi phần trăm của đại dương, và hiểu rõ năm phần trăm của nó. Vẫn là cả một thế giới vô tận và bí ẩn ở ngoài kia, ẩn chứa biết bao nhiêu câu chuyện kinh hoàng và kỳ diệu mà loài người chưa biết tới.

Trong cảnh tượng diễm lệ ấy tôi cảm thấy sự tồn tại của mình thật là vô nghĩa trong thế giới này. Bơi vào đại dương vào là đặt cuộc sống của tôi hoàn toàn vào tay số phận. Nó cho tôi thấy mình nhỏ bé và tầm thường như thế nào trong kế hoạch vĩ đại của cuộc sống. Biển mẹ từ cổ chí kim vẫn không thay đổi... trước loài người... mọi sự sống đều bắt nguồn từ bà, và khi tất cả những sinh vật cùng thở với tôi vào thời khắc này chết đi, thì bà vẫn còn ở đó. Người phụ nữ ấy đã ở đó, chứng kiến vạn vật biến hóa thay đổi hàng triệu năm. Bà biết hết mọi thứ, mọi thứ từ trước khi tôi sinh ra và sẽ biết cả kết thúc của chuyến hải trình này. Khoảng thời gian từ lúc con khủng long đầu tiên bước đi trên trái đất, cho đến lúc con người đầu tiên được sinh ra, chỉ như một dấu chấm bé nhỏ, trong tuổi đời vô biên của bà.

Thấm thoắt nhiều ngày đã trôi qua, cảnh vật xung quanh vì thế mà bắt đầu trở nên quen thuộc. Trời xanh, biển rộng, mây trắng...đều là những khung cảnh tôi đã nhìn đến ngán ngẩm rồi. Tôi cũng dần quen với mặt đất chao đảo dưới chân mình, sáng sớm chẳng thèm dậy ngắm biển nữa. Vì đã ở giữa biển khơi nên cũng chẳng còn mống hải âu, bồ nông nào bay xung quanh, nửa trên của mặt biển trống trải và nhàm chán đến vô cùng.

Chặng Amami, Daito, không có nhiều chuyện để kể lại lắm, vì chúng tôi một mạch lên đường mà không ghé lại thăm danh lam nào. Dọc đường có ghé vào vài hòn đảo nhỏ để bổ sung vật tư, nhưng cũng không ở lại quá lâu để tạo ra chút kỷ niệm nào với chúng.

Những lúc trời quang mây tạnh, Mizuki chỉ cho tôi, Jenny và Daisuke cách điều khiển tàu. Những lúc rảnh rỗi, chúng tôi ở bên trong đọc sách về hàng hải, cố gắng bù đắp thiếu sót của bản thân. Daisuke học rất nhanh, chẳng mấy chốc cậu đã có thể lái được gần như Mizuki rồi. Cậu và anh thay phiên nhau điều khiển con tàu. Có vẻ như anh ấy vẫn chưa tin tưởng bọn tôi lắm nên hầu hết thời gian vẫn là Mizuki điều khiển tàu, anh chỉ ngủ bốn tiếng một ngày, hai tiếng giao phó cho Daisuke, hai tiếng neo lại cho tàu nghỉ. Tối đi ngủ thấy anh bên bánh lái, sáng ngủ dậy đánh răng đã thấy anh ở đó rồi.

Tôi ngồi trên bộ sofa êm ái, giở sổ tính toán chỗ xăng và lương thực còn lại. Sinh tồn trên biển không giống như các kiểu môi trường khác bởi một khi bạn hết tài nguyên. ở sa mạc và trong rừng thẳm bạn có thể cuốc bộ và hy vọng vào điều tốt nhất. Giữa biển thì không thể thế, con tàu mà hết nhiên liệu, bạn mắc kẹt ở một chỗ hoang vu mà không thể làm gì được. 

Tôi không muốn nghĩ đến cảnh bốn đứa chen chúc trên phao cứu hộ, vừa chèo vừa lau mồ hôi dưới cái nắng oi ả chẳng biết bao giờ mới tìm được bờ.

Daisuke ngáp ngắn ngáp dài, ngồi bên mạn thuyền thả cần câu cá. Theo yêu cầu của tôi, chặng Daito-Ogasawara này nên hạn chế mang theo lương thực. Nước thì có thể lọc, đồ ăn có thể tự cung tự cấp, nhưng xăng thì biển không thể cung cấp cho ta được.

Jenny bước qua chỗ tôi ngồi, đặt một chồng sách lịch sử - văn hóa Lưu Cầu dày cộp xuống, cô mang cho tôi một ly nước lạnh từ tủ đá, rồi cũng chìm đắm vào trong công việc của mình.

Sau một tuần vật lộn chúng tôi cũng đặt chân đến Chichi jima. Chúng tôi được người dân chào đón trong những cái nhìn kinh ngạc, tôi ngủ li bì như chưa từng có ngày mai.

Dùng bữa tối với cơm trắng và hải sản cùng với một gia đình địa phương, tôi xúc động tới trào nước mắt. Cả một thị trấn vẫn còn có điện, và sinh hoạt của người dân vẫn diễn ra như bình thường. 

Họ hỏi bốn đứa đất liền sao rồi, tôi chỉ thật thà kể lại cho họ những gì mà mình biết. Tôi cũng kể lại chuyện của Abdul và tình hình thế giới bên ngoài, duy chỉ có câu hỏi vì sao lại lặn lội xuống tận Ogasawara là tôi không nói. Chỉ dối họ là đất liền nguy hiểm quá, muồn chuyển tới một nơi không có dịch bệnh.

Người dân thị trấn rất thân thiện, họ mời chúng tôi ở lại. Tôi khéo từ chối, nói cần phải tới gặp một người bạn ở đầu bên kia quần đảo. Dân làng nhiệt tình cho chúng tôi rất nhiều nhiên liệu và đồ ăn, còn cử trai tráng và người có kinh nghiệm hàng hải để giúp đỡ. Tôi chối mãi không được, cuối cùng phải nói thật ra là mình muốn cứu một người bạn bị kẻ xấu giam giữ ở Minani Torishima, hòn đảo không người cực đông Ogasawara trơ trọi giữa đại dương  vô tận.

Bọn họ không hiểu ý của chúng tôi lắm, nhưng cuối cùng cũng vui vẻ chấp nhận. Thị trưởng nhờ một cụ ông dẫn chúng tôi đi một vòng quanh đảo. Ông ấy tên là Hagi, một thủy thủy lẫy lừng từng đội trời đạp sóng suốt thời trai trẻ. Ông sống một mình ở nhà chòi bên bờ biển với con hải âu tên là Peeko. Ông Hagi cười nói có chết biển cả cũng không thể giết được ông, nếu chuyến đi cuối cùng có thể được chết cùng đám bọn tôi trên biển thì còn gì bằng. Tôi không thuyết phục được ông ấy, cuối cùng, du thuyền có thêm một người đồng hành thứ năm.

Chúng tôi rời đi vào buổi trưa ngày hôm sau, Jenny tặng cho con gái của gia đình con lắc tay có đính viên hồng ngọc của cô ấy. Họ nói, sau khi cứu được bạn của mình, chúng tôi luôn được chào đón ở Chichi jima.

Con tàu hướng đến Minani Torishima, điểm cực đông của Nhật Bản. Có ông Hagi mọi chuyện đâu vào đấy. Tôi, Daisuke, Jenny và Mizuki đứng thành vòng tròn quanh bàn kính ở trong phòng khách. Trải bản sao của tấm bản đồ đến đảo Huyết Chân.

Minani Torishima, hòn đảo kỳ lạ có hình dạng của một miếng bánh Dorito, và theo sách vở cũng là nơi có nhiệt độ cao nhất trên đất nước này. Trên đảo không có gì ngoài một sân bay và một cột phát tín hiệu. Hòn đảo này trước đây không có người sinh sống ngoại trừ nhân viên cơ quan khí tượng, phóng viên,và biên phòng thời vụ. Không có chuyến du lịch hoặc chuyến bay thương mại nào đến đảo và dân thường cũng không được phép đến Minami Torishima để tham quan.

Vì sự biệt lập của nó nên hòn đảo này được một số người làm nội dung giật gân quan tâm, vì thế nên tôi mới có cơ hội được biết một chút về nó.

Trong thế chiến thứ hai đã có hơn bốn ngàn binh lính Nhật Bản đồn trú trên đảo, và Hải quân Mỹ đã từng tấn công đảo hai lần vào năm 1942 và 1943, nhưng họ không bao giờ cố gắng để chiếm được nó, bởi vì một lần nữa, trên đó chẳng có gì thú vị cả.

Mizuki kẹp con mắt của bé Shiho vào một thiết bị, vẽ lên một đường chỉ đỏ từ Minani Torishima ra ngoài biển xa.

“Đi tiếp về phía đông ư, làm gì có gì ở ngoài đó?” – Ông Hagi ngạc nhiên.

“Ông Hagi, bọn con thực sự xin lỗi, nhưng nơi mà bọn con tìm kiếm, nó nằm trong dải đá ngầm này.”

Tôi trỏ vào hình một dải đá ngầm giữa biển xa, hình cánh buồn trải dài như đốt sống lưng của một con mãng xà biển khổng lồ.

Ông Hagi hạ mũ thuyển trưởng xuống, gãi mái đầu trắng hói, ngạc nhiên.

“Bảy mươi năm làm nghề này, ta chưa từng thấy ai muốn đến đó cả... Các con chắc bản đồ này không phải là giả đấy chứ?”  

Rồi ông cho chúng tôi xem một loạt bản đồ hải dương khác, tất cả, đều không có sự tồn tại của rặng đá ngầm,

“Các con xem có phải nhầm không, ở cùng vị trí trong mọi bản đồ khác, chỗ đó đều chỉ là đại dương hoang vu, làm gì có dải đá ngầm nào?” 

Tôi nhìn thẳng vào mắt ông Hagi, dấy nên một ngọn lửa quả quyết.

“Con cũng không biết nữa, nhưng tấm bản đồ này là do một người bạn quan trọng để lại cho con. Nếu như cô ấy có thể giấu được một mật thất bên trong dải núi Takachiho, thì con chắc chắn là có tồn tại một nơi bí ẩn ngoài đó.”

Ông Hagi nhìn ngọn lửa quyết tâm trong mắt tôi, dường như đã hiểu ra. Tôi kể với ông toàn bộ sự kiên ở hẻm Takachiho, nghe xong câu chuyện của tôi, tiinh thần phiêu lưu trong ông trỗi dậy, ông Hagi lại cười nhạt dù sao thì ta cũng già sắp chết, nếu như mấy đứa nói còn có bí mật nào đó bên trong quần đảo này mà ta không biết, làm sao ta có thể yên lòng mà gác kiếm rửa tay được.

Con tàu theo đường mực đỏ đâm ra đại dương, đi mãi, đi mãi. Vượt xa khỏi phạm vi Nhật Bản. Hai ngày vòng quanh trên thuyền tôi cứ ngỡ  rằng mọi chuyện chỉ là một giấc mơ. Nằm ườn trên bàn phòng khách nhìn ra cửa sổ, chẳng biết là mình đã đi bao xa rồi. Bốn bề lúc nào cũng là màu xanh vô tận của nước và của bầu trời. Ở giữa đại dương mênh mông thì chỗ nào cũng như nhau, cảnh vật này có thể tôi đã thấy hôm qua, có thể tôi cũng chưa từng thấy bao giờ. Peeko liệng xuống đáp lên vai ông Hagi. Tôi bước ra khỏi căn phòng, tới bên định xin lỗi ông, thì bắt gặp tôi là cơ thể cứng đờ của ông ấy.

Tôi vỗ vai ông Hagi, nhưng ông không trả lời. Ông chỉ đứng đờ ra đó, há hốc, tê liệt, như là bị hóa đá.

Tôi ngẩng đầu lên nhìn theo ông ấy, rồi, đập vào mắt bởi khung cảnh phía trước, cùng thất thần đứng đó đờ người ra.

Daisuke, Mizuki và Jenny bước ra từ bên trong, vỗ vai tôi, nhưng tôi không trả lời. Thế rồi, cả bọn cũng tròn mắt cùm chân giống như tôi, choáng váng trước bàn tay kỳ quái của biển mẹ.

Giữa ban ngày ban mặt, từ đâu xuất hiện dải núi choán ngợp con thuyền từ trên cao, chúng tôi bị chặn lại bởi một bức tường đá khổng lồ.

Vùng biển trống trải mọc lên một rặng đá ngầm thẳng tắp, giống với những rặng núi Yardang trên sa mạc. Ngọn này nối liền ngọn kia, mỗi ngọn cách xa nhau một khoảng không gian đều đặn, tựa như đốt sống lưng của một bầy thuồng luồng khổng lồ.   

Bình luận (3)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

3 Bình luận

Bức tranh đáng yêu quá. Fan art hay tác tự cook vậy?
Xem thêm
CHỦ THỚT
AUTHOR
Tui là fan lớn nhất của chính mình (。•́︿•̀。)
Xem thêm
Xem thêm 1 trả lời