Dựa vào bản đồ, con thuyền theo dòng nước hăng hái mà tiến lên. Những núi đá phong hóa hai bên tựa đàn rồng biển đang ngụp lặn trong nước, chạy đua cùng tàu đến đảo Huyết Chân.
Điểm đến cuối cùng trên bản đồ nằm ở chỗ đàn thuồng luồng này, nét vẽ mơ hồ, không gợi ý rõ ràng là hòn đảo nằm ở đuôi hay ở đầu, ở ngoài hay là ở giữa. Trước mắt chưa biết ở đầu kia của dải núi đã có gì, chúng tôi qua đó xem xét.
Ông Hagi đưa thuyền hướng về rìa bên ngoài của dải đá ngầm, men theo những rặng núi ngoài cùng để đến được đầu bên kia.
Cứ đi như thế, mới ban đầu là một hay ngày, hẵng còn có chút giống đi du ngoại, nhìn ngắm đá núi đủ hình thù quái dị, đôi khi tôi còn có cảm giác muốn lấy máy ảnh chụp.
Vài ngày sau sự nhàm chắn và cái nắng gay gắt bắt đầu tìm đến chúng tôi. Con tầu cứ thế lởn vởn ở quanh bầy rồng mà không thể tiến xa được.
Rõ ràng là một dải núi thẳng tắp, la bàn trên tay luôn chỉ về hướng đông, vậy mà có đi thế nào, chúng tôi vẫn luôn trở lại điểm xuất phát. Chúng tôi trở về điểm ban đầu, la bàn hướng về phía đoạn đầu của dải đá ngầm.
Vì ở giữa đại dương nên thiết bị GPS lúc này gần như là vô dụng.Bốn bề là mặt nước xanh vô tận, mỗi lần đi hết dải đá ngầm tiêu tốn mười hai tiếng đồng hồ. Chúng tôi cứ đi một hai chuyến, lại phải cho tàu vòng ngược về Hahajima để tiếp nhiên liệu, quanh đi quẩn lại, đàn rồng cử đẩy cả đám về đúng điểm xuất phát. Tảng núi đầu tiên có hình giống một lá buồm, tôi còn chụp lại ảnh để đối chiếu, Jenny dùng súng ghi dấu lên tảng đá một lỗ đạn. Rốt cục, một ngày sau, cứ một đường thẳng mà đi, chúng tôi lại về với nó.
Lại là nó, tảng đá có hình cánh buồm và lỗ đạn đáng ghét ấy.
Việc phơi xác ở ngoài biển suốt nhiều ngày trời, cộng thêm việc phải đi đi về về lấy nhiên liệu khiến tâm trạng ai nấy đều bức bách, khó ở. Ông Hagi đã có ý tưởng cho tàu vào giữa bầy rồng để coi có khác biệt không, nhưng ngoại trừ việc bị lạc và mất thêm một ngày trời để định hướng, chúng tôi vẫn bị đưa về điểm ban đầu.
Tiến vào trong bầy rồng, một hệ thống đường phố hẻm nẻo phức tạp mở ra trước mắt chúng tôi. Đường phố mà tôi vừa nói ấy chính là khoảng cách giữa các tòa núi đá phong hóa. Những núi đá này tuy rằng hình dáng khác nhau, thế nhưng chỉ cần thay đổi góc nhìn một chút là đã trông khác hoàn toàn rồi, tôi không thể nào ghi nhớ được hết trong một khoảng thời gian ngắn như thế. Càng ở lâu càng nhiễu loạn cảm giác về phương hướng, nhất định không thể đi đường trong được.
Kể từ ngày con thây ma đầu tiên xuất hiện ở trường, tôi đã chạm mặt không thiếu những chuyện dị thường kỳ quái. Thế những tất cả những chuyện mà tôi từng trải qua, chưa bao giờ có một tình huống đúng nghĩa là vô thực siêu nhiên như lần này.
Thây ma biết tư duy, đó chỉ là một dạng đột biến của virus. Thác Manai ẩn giấu một cơ quan, phi thường, vẫn chưa đến mức vượt qua phạm vi hiểu biết của loài người...
Biết rằng thứ mình nhắm đến là ẩn tàng thư Akashic, chúng tôi sớm sẽ phải học cách quên đi nhận thức thông thường. Nhưng tôi đó giờ vẫn bán tín bán nghi, ẩn tàng thư Akashic có thực sự là vật mang phép màu không, hay thực chất, cũng chỉ là một xảo thuật của người xa xưa.
Ông Hagi quệt mồ hôi trán, mặt mũi ông trắng bệch. Rong ruổi trên biển hơn bảy chục năm, nắm rõ quần đảo như lòng bàn tay, trong sự nghiệp ông ấy cũng gặp không thiếu những chuyện tâm linh kỳ dị, nhưng chưa một lần người đàn ông ấy bị đại dương xanh làm khó. Tôi cứ sợ ông ấy phát chán với vòng lặp vô tận này, nhưng ông là người cương quyết nhất trong nhóm chúng tôi. Chưa giải đáp được bí mật này, ông nhất quyết sẽ không trở về.
Niết Bàn tiếp tục băng qua dải đá ngầm, chẳng rõ là khúc nào, cũng chẳng sợ bị lạc vì thế nào chúng tôi cũng quay về điểm ban đầu. Tôi, Daisuke, Jenny và Mizuki trải bản đồ xuống bàn, con tàu neo lại, chúng tôi không thể tiếp tục phung phí nhiên liệu một cách ngây thơ như vậy nữa.
Mọi người đều không nói năng gì, sắc mặt cũng không rõ là tái trắng hay tái xanh nữa. Không ai đưa ra nổi một ý kiến. Mọi người đều tỏ vẻ trầm tư, nhưng tôi biết bọn họ cũng giống tôi, đầu óc chỉ còn một khoảng trống rỗng.
Mọi chuyện đã vượt quá tầm kiểm soát của chúng tôi, thậm chí tôi còn cho rằng giả thuyết có cơ quan hiện giờ cũng chẳng đứng vững nổi. Chúng tôi đã rơi vào một trạng thái không thể diễn tả bằng lời, bất kì lý lẽ khoa học nào được đưa ra lúc này đều đổ vỡ hoàn toàn.
Sở dĩ trước đây tôi không hoảng loạn, là vì tôi cứ đinh ninh chỉ cần gặp phải mấy thứ xoắn não như cơ quan cạm bẫy, thì bằng vào trí tuệ của tôi và của Jenny, chỉ cần bình tĩnh là chúng tôi sẽ nghĩ ra được giải pháp.
Nhưng tôi không nghĩ thứ mà chúng tôi đang đối mặt là cơ quan nữa, đó là một tình huống siêu nhiên kỳ ảo vượt xa mọi kiến thức vật lý của con người.
Chuyến đi đến Takachiho đã rèn rũa đám tôi trước những tình huống quái đản, nhưng đồng thời vượt qua được nó cũng sinh ra nỗi tự mãn. Chúng tôi đâm đầu vào một cạm bẫy mà không mang theo chút hiểu biết tâm linh huyền thuật nào.
Buồn cười ở chỗ, những lần trước đó, là nhờ có bản năng sinh tồn đẩy mình tới giới hạn, nên chúng tôi mới nghĩ ra được đủ những cách giải khóa mà ngày thường không nghĩ đến. Lần này tuy đáng sợ nhưng chúng tôi chưa một lần phải mang cảm giác khi ấy, đoạn đường thẳng tắp đưa chúng tôi về điểm ban đầu, chỉ là không thể tiếp tục tiến lên, chúng tôi vẫn có một con đường để quay trở về.
Cả ông Hagi cũng tham gia vào, theo yêu cầu của tôi, mỗi người đưa ra một ý kiến.
Jenny là người đầu tiên, theo như quan sát của cô ấy, Jenny nói, dường như những tảng núi đá cũng đang di chuyển bên cạnh con tàu. Chúng tôi bị dải đá ngầm biết di chuyển dắt một vòng quanh biển rồi đưa trả về vị trí ban đầu. Jenny vẫn nghiêng về thực tế và giả thiết có cơ quan, cô còn bảo vệ luận cứ của mình, cho rằng lý do mà chúng tôi không phát hiện ra thay đổi này, là vì có thể bên dưới lòng biển còn ẩn chưa một cơ quan cảm biến nào đó, dựa vào tốc độ của con tàu mà điều chỉnh tốc độ của rặng núi đá.
Luận điểm của cô rất chặt chẽ, tuy nhiên thì tôi vẫn có thể chỉ ra được một lỗ hổng. Đó là la bàn luôn chỉ về hướng đông. Nếu như có bị đá ngầm dắt vòng quanh, thì không thể nào la bàn tiếp tục chỉ một hướng.
Lần ở mộ Murasaki, chính Jenny là người đã tìm ra lối thoát. Trong số năm người ở đây nếu bảo tôi phải nghe theo ai thì nhất định là cô ấy. Cô có tư duy khác người và luôn nghĩ ra ngoài cái hộp. Trên đời này ngoại trừ cô ấy, tôi mới chỉ gặp hai người có cùng một lối tư duy như vậy, một người là mụ già đã thành tinh Rin, và một người, thì đã ở trước chúng tôi mất rồi. Nghĩ đến đây trong đầu tôi nảy ra một ý niệm, chúng tôi là luẩn quẩn ở đây suốt nhiều ngày, nếu như tàu của đội Lan Anh không có ở đây, thì chỉ có một khả năng là đội của chị ta đã giải được bí ẩn này mà thôi.
Nhất định là có một câu trả lời. Dù tôi vẫn còn giận chị ta nhưng sự tồn tại của chị Lan Anh vẫn tiếp cho tôi một tia hy vọng. Chúng tôi có thể không thông minh bằng chị ấy, nhưng có hai cái đầu học bá ở đây, không thể nào chúng tôi chấp nhận thua kèo này.
Nếu như bạn nghĩ giả thiết của Jenny đã là quá viển vông, thì xin thưa đó là ý kiến thực tế nhất mà mọi người trên con tàu có thể đưa ra.
Daisuke ý thức được thiếu sót của cậu so với mọi người trên tàu, bằng một cách khiêm tốn, cậu cho rằng chúng tôi đã gặp ảo giác, do nhiều ngày phơi mình dưới nắng biển. Giống hiện tượng ốc đảo ma trên sa mạc.
Cậu chia sẻ một câu chuyện mà mình đã đọc được hồi còn có Internet. Đó là trong chiến dịch Thái Bình Dương, có một đội máy bay của Hoa Kỳ đang vượt biển thì bắt gặp cuối chân trời là một hạm đội máy bay của Nhật Bản đang hùng hổ bay tới. Người phi công lúc đó rất ngạc nhiên, bởi chủng loại và số hiệu của những máy bay phe bên kia đã là loại từ rất lâu trước đây rồi. Hơn nữa vào thời điểm đó quân đội Nhật Bản đã thua trận và không còn quyền kiểm soát vùng biển đó, khiến cho quy mô và hàng lối của hạm đội đó càng trở nên vô lý hơn. Người phi công Hoa Kỳ đe dọa nhưng bên kia vẫn cảm tử bay tới. Sóng ra đa của chiếm hạm trong khu vực gửi về không cho thấy bất cứ dấu hiệu của sự sống nào. Bất chấp lời can ngăn từ hải quân khu vực, đội máy bay Hoa Kỳ lúc đó đã thần hồn nát thần tính mà mất kiểm soát bóp cò, xả một tràng đạn vào trong không khí. Thế nhưng hàng trăm viên đạn bắn ra nhưng không một viên nào trúng quân thù cả. Toàn bộ quân địch đột nhiên biến mất chẳng còn tung tích, trước mất họ chỉ còn lại mặt biển mênh mông nối liền đường chân trời dài tít tắp, xanh biêng biếc ngút cả tầm nhìn.
Jenny chống cằm nghĩ ngợi gì đó, rồi không những không nghi ngờ Daisuke mà cô cũng gật gù tán thành. Cô nói mình cũng đã nghe chuyện tương tự trước đây rồi. Có một nhà khảo cổ mà Jenny không nhớ chính xác tên, tạm gọi là Brandon trong một chuyến đi đến hoang mạc gobi, giữa trưa nắng bỗng nhìn thấy xa xa hiện về một cuộn cát hầm hập nổi lên cuối chân trời. Ông đưa ống nhòm lên quan sát, và bắt gặp vào tầm mắt là một cảnh tưởng hết sức hoành tráng và rùng rợn.
Từ bên kia của hoang mạc, hàng trăm, hàng ngàn binh lính đang hừng hực khí thế lao tới. Áo giáp có, mũ sắt có, chiến mã có, giáo mác có, cờ bào có... Rực rỡ, sống động như một đoàn phim cổ trang giữa hoang mạc. Binh đoàn vạn người hăng hái hành quân hết tốc lực, đều đặn vó ngựa và bước chân tiến về chỗ ngọn đồi của ông.
Lúc ấy con tim Brandon như thắt lại, sợ hãi và kinh hoàng bao trùm lấy cả cơ thể và ông không thể chạy. Ông bị quy mô và áp lực từ cuộc hành quân làm cho tê dại. Brandon đứng trơ trên ngọn đồi đó, quy phục, bất lực để đội quân hùng hậu ấy quét qua mình.
Thế nhưng, tất cả chỉ như một ảo ảnh lướt qua trước mắt ông và ông không thể đưa tay để chạm vào. Chỉ trong một nháy mắt, binh đoàn vạn quân đã biến mất vào trong cát gió của sa mạc, không để lại một dấu vết, không phát ra một âm thanh nào.
Khi trở về viện nghiên cứu Bradon mới vỡ òa bởi những gì mà ông nhìn thấy giống tới tám mươi phần trăm với những mô tả trong văn vật đề đội quân của Thành Cát Tư Hãn năm xưa. Brandon xác nhận là lúc ấy ông không hề đói khát, không hề mệt mỏi, và vị trí của ông chỉ cách khu trại khai quật có hai cây số. Khoa học hiện đại vẫn chưa giải thích được hiện tượng kỳ lạ này, có người cho rằng, đó là hình ảnh lưu lại do nhiễu động ánh sáng trong hơi nước, có người cho rằng, là nhiễu loạn từ trường trong không khí hoang mạc.
Dù sao thì những gì mà mắt ta vẫn nhìn thấy, chỉ là hình ảnh được gửi về từ khúc xạ ánh sáng. Có những trường hợp những gì mà mắt ta đang nhìn thấy, không thực sự là hình ảnh của những gì đang diễn ra, ví dụ như ngôi sao sáng trên bầu trời đêm... là hình ảnh của những gì đã xảy ra hàng ngàn, hàng vạn năm trước đây rồi.
Bởi vì không có sách vở viết về sự kiện đó ở đây, nên hư thực câu chuyện đó thế nào, không một ai xác nhận. Chỉ biết ý tưởng của cậu rất sớm bị phủ quyết. Mizuki bơi đến và chạm được vào núi đá, hơn nữa, nếu chỉ là ảo giác, không thể cả năm người chúng tôi đều có chung một ảo giác như thế được.
Đến lượt của ông Hagi, chúng tôi đã chờ đợi ý kiến của chuyên gia hàng hải từ đầu. Đáng lẽ tôi không nên đặt kỳ vọng quá cao vào một người thủy thủ, bởi dù ông có là người giàu kinh nghiệm sống, ông vẫn là một người lao động nên không thể đưa ra được lời giải thỏa mãn tầng lớp tri thức.
Ông cho rằng con thuyền của chúng tôi đang bị ma dắt. Ông kể ra biển thì không tránh được tai nạn xảy ra, nào là bị cá rỉa nào là bị chết đuối... bi thương nhất vẫn là những con tàu bị lạc ngoài biển, mất phương hướng không thể tìm được đường về, rốt cục là bị cơn đói và nỗi cô độc bào chết.
Ông kể hồi còn trẻ lần đầu ra biển với chú của ông, trong đêm có nghe tiếng hát du dương ngoài biển. Giữa màn sương đen mịt mù, ông thấy bóng một con tàu lướt qua, ẩn hiện trong sương mù, nhưng không thấy ai trên tàu. Hải đồ trên tàu của chú ông không quét được tín hiệu nào. Ông Hagi cứ đứng trơ ra đó, nhìn con tàu biến vào đêm đen. Ông bị cuốn hút bởi giọng hát, cứ ngóng theo tàu mãi đến khi có người phải giữ ông lại. Suýt thì ông đã theo con tàu mà nhảy xuống biển. Khi ông kể lại với chú mình thì chú của ông không những không nhạc nhiên mà con vô cùng điềm tĩnh. Chú ông kể là trước đây ở vùng biển này có một người đánh cá ra biển gặp bão chết mất xác không trở về, vợ của anh ta sau đó vì nỗi nhớ nhung nên đã ra khơi tìm xác chồng. Sau nhiều chuyến đi vô vọng người ta khuyên cô rằng chồng cô đã chết, nhưng cô một mực vẫn tin là anh còn sống. Mặc cho những lời khuyên can cô tự ý ra biển, cứ lang thang như thế rồi cũng biến mất ở ngoài biển. Thi thoảng, người ta đi qua vùng biển ấy về đêm sẽ nghe thấy tiếng của cô và con tàu ma, bài đồng dao đó là tiếng hát gọi chồng.
Khi đã về bờ, nghe chú ông kể lại ông Hagi không giấu nổi cơn rợn tóc gáy bởi bài đồng dao mà chú của ông hát lại không khác đến một từ lời hát ai oán mà ông đã nghe. Có phiên bản cũng kể là do linh hồn đã thành tinh nên cô gái ngày nào không còn phân biệt được ai là chồng cô nữa, nhiều tàu thuyền ra biển đã bị ma nữ thành tinh dắt đi vào cõi âm tào. Chú của ông Hagi nói gặp hồn ma lang thang ngoài biển không phải điều hiếm gặp, vì trên mặt biển vốn không có sự sống, dương khí vô cùng mỏng manh, nên đó là nơi âm khí tụ tập, nhiều lúc có thể gặp gỡ thế giới bên kia. Chú của ông còn dặn lần sau còn gặp hãy lờ họ đi bởi người ở bên kia cũng giống chúng ta, không nhìn thấy sự sống ở cõi dương, chỉ cần không thu hút chú ý của họ, họ sẽ không nhìn ra chúng ta.
Ông Hagi kể chuyện rất hay, trong lúc nghe, lưng tôi còn nổi lên cơn ớn lạnh, như có bàn tay nào vuốt qua gáy mình vậy. Thế nhưng tôi cũng ý thức rằng người ở quê thường thích phóng đại, và dùng những chuyện ma quỷ để giải thích những thứ họ không hiểu được. Kết luận của ông Hagi này là rặng núi đá này là vật ở cõi bên kia, chúng muốn dắt chúng tôi đến nơi nào đó nhưng linh khí không đủ, thành ra không đủ khả năng để dắt chúng tôi tới bến, lại đẩy tất cả về điểm ban đầu.
Ý tưởng của ông Hagi khó tin, nhưng dùng khoa học để phản bác thì cũng chẳng có cách nào cả. Daisuke tin sái cổ, cậu nói thì ra hiện tượng nhân ngư dụ thủy thủ ở châu âu hóa ra lại là chuyện như thế.
Tôi đành tiếp nhận rồi để tạm nó sang một bên. Chỉ còn mỗi Mizuki là chưa lên tiếng, Con người này, dù không đến múc gọi là thông minh, nhưng trước kia không thiếu lần vì anh ấy mà chúng toi được đưa ra khỏi rối rắm.
Mizuki chưa bao giờ nghĩ luẩn quẩn bên trong cái hộp, đơn giản, vì anh ấy chưa bao giờ ở trong cái hộp cả. Mizuki được nuôi nấng một cách đặc biệt, anh như một công cụ để thay thế mẹ anh giúp chúng tôi giải quyết những trường hợp oái oăm. Nhiều lúc Mizuki ngờ ngệch tôi không thể cười anh ấy, tôi chỉ thấy thương anh.
Nói đến vấn đề giáo dục con cái, tôi lại càng không thể trách được Rin. Mizuki nói mẹ anh điều hành hai tập đoàn lớn, vì thế nên cô phải đi nước ngoái thường xuyên và không thể dành nhiều thời gian cho con cái mình. Biết tính Rin cô ấy là một người hướng nội, tới khi làm mẹ tôi mới hiểu được cảm giác của cô ấy. So với con gái tôi thì tôi vẫn còn thấy Rin tận tâm với ba đứa con của cô ấy lắm. Chỉ là do thời gian đã làm nhòa đi cảm xúc của người phụ nữ ấy, nên sự tồn tại của Mizuki, Shun và Shiho bỗng trở nên hời hợt và nhạt nhòa biết bao.
Thường thì lần đầu tiên làm việc gì đó sẽ là lần bạn luôn nhớ mãi, và những lần sau đó sẽ dần mờ nhạt theo thời gian. Làm mẹ cũng như vậy, đứa con đầu lòng sẽ có rất nhiều sự chú ý và dấu ấn trong đời một người mẹ, và tập trung vào những đứa con sau đó sẽ giảm dần, giảm dần đi một chút. Giống như gia đình của tôi mẹ dành toàn bộ yêu thương và hy vọng vào tôi, nhưng đến Toru, mới chỉ là đứa thứ hai, tôi đã thấy mẹ hời hợt đi phần nào, huống hồ Mizuki là đứa con thứ bao nhiêu với bao nhiêu người chồng trước đây của cô ấy?
Sau khi bị Asuka bắt giữ cô đã phải bỏ cả tập đoàn và ba đứa con để làm tròn trách nhiệm của mình. Trách nhiệm của kẻ bị rằng buộc bởi lịch sử. Cứ cho cô ấy là một người mẹ vô lương tâm, người phụ nữ ấy đã mất rất nhiều, cô ấy bảo vệ cho Shun và Shiho tới bây giờ, cho ba anh em một mái nhà ấm cúng, xa hoa để gọi là nhà... nuôi nấng cả ba anh em nên người. Tôi có tư cách gì để chỉ trích cô ấy chứ?
Mizuki không nói gì, chỉ khẽ lắc đầu. Anh được dạy dố để không nói lời thừa thãi.
Năm con người trên cùng một con tàu mỗi người đều mang một lời giải thích đến từ mọi nền tảng bạn có thể nghĩ ra, khoa học, tâm lý, tâm linh... Tôi khoanh tay chống cằm tỏ vẻ không hài lòng với bất kỳ câu trả lời nào.
Bốn cặp mắt còn lại tròng trọc cùng hướng về tôi. Tôi ngại ngùng một lúc rồi mới hiểu ra ý của mọi người.
“Ừm... nếp gấp không gian?”
0 Bình luận