Tập 08: Underworld
Chương 169: Ác mộng đến từ biển sâu (3).
8 Bình luận - Độ dài: 10,151 từ - Cập nhật:
Sống lại ở dị giới.
Chương 169: Ác mộng đến từ biển sâu (3).
“Giữ lấy mái chèo! Cố định cột buồm! Mở cửa sập dưới hầm và chuẩn bị đá năng lượng cho những khẩu pháo.” Thuyền trưởng Hrodgæir hét to, tay chỉ chỏ khi đứng ở đầu mũi thuyền chỉ đạo. Ông hướng lên cột chính hét to lần nữa. “Skjold, cậu thấy gì dưới vòng xoáy kia?”
“Tôi... tôi không thấy gì cả, thưa thuyền trưởng.” Cậu trai trẻ tự cột mình với cột buồm bằng một sợi dây thừng, cậu đã rút kinh nghiệm sau cú té đêm qua vì ngủ quên. Nhưng cậu ta cũng không quên quan sát động tĩnh dưới mực nước biển, dù lúc này mặt biển đang có biến động rất lớn. Những đợt sóng biển vỗ vào mạn thuyền như thể muốn đánh tan mọi thứ, bọt trắng xóa và chúng khiến cho đoàn thuyền phải nhấp nhô chật vật giữa đại dương. Gió rít gào, vòng xoáy mây đen thất thường trên bầu trời ngày càng to và kèm theo sấm chớp mỗi khi mấy con thuyền cố lấn sâu vào tâm bão.
Những giọt nước biển bị gió cuốn lên tạo thành từng đợt mưa bụi phả vào mặt các thủy thủ làm mọi người càng khó nhìn thấy rõ sự việc xung quanh hơn. Chưa kể, dưới nước đang có sinh vật nào đó đang rất thịnh nộ, nó đang vùng vẫy cả cơ thể của mình để góp thêm phần tạo nên những cơn sóng hung hãn muốn nhấn chìm từng chiến thuyền một. Nó thoắt ẩn thoắt hiện trên mặt biển với tốc độ rất nhanh, khiến cho các quan sát viên trên tàu không thể thống nhất được vị trí của nó khi báo cáo. Kể cả Skjold cũng vậy, cậu tuy thấy vài đặc điểm của con thủy quái kia trên mặt biển, nhưng gỉ chớp mắt một cái thì nó đã xuất hiện ở nơi khác.
Không những ở dưới biển, mà cả trên thuyền cũng trở nên rất hỗn loạn. Các thủy thủ đoàn không thể làm gì được khi không có lệnh của thuyền trưởng, và cả thuyền trưởng cũng chẳng thể ra thêm bất kỳ lệnh nào khi đôi mắt của mình không thể quan sát được môi trường xung quanh. Đôi mắt ở đây, tức là những quan sát viên trên cột buồm chính, họ bị tốc độ của con thủy quái đánh lừa và chẳng thể xác định được vị trí cần phải tấn công hay phòng vệ mà báo lại cho thuyền trưởng.
Sóng biển ngày càng cao, ánh sáng ban ngày dần bị che khuất chỉ còn giông bão và tiếng sấm gào. Những dòng nước chảy siết khiến bánh lái của đội chiến thuyền cũng trở nên khó điều khiển hơn. Như thể vùng biển này có linh trí, nó muốn chơi đùa với những con thuyền dám phạm vào hải phận của nó. Mặc dù thời tiết không ủng hộ các thủy thủ đoàn, nhưng họ vẫn ngoan cường cố giữ vững bánh lái và điều khiển cột buồm lợi dụng sức gió để thoát ra những dòng chảy hung bạo.
Tiếng hò hét khích lệ tinh thần từ các thủy thủ truyền tai nhau rộn cả trên boong tàu. Họ quyết phải vượt qua được cơn bão này và săn cho bằng được con thủy quái đang khiêu khích dưới kia. Con thủy quái ấy uốn lượn phóng lên khỏi mặt nước nhiều lần khi dòng hải lưu hướng tất cả con thuyền về cùng một hướng. Nó khoe dáng vóc to lớn của mình, và gào lên những tiếng rít chói tai như đang thách thức các chiến binh biển cả. Thi thoảng nó lại ngóc cái đầu to lớn của mình lên nhìn về phía đoàn tàu với ánh mắt đầy căm thù ở khoảng cách rất xa, xong lại uốn mình lặn xuống biển tạo thêm nhiều đợt sóng kinh hãi khác.
Những đợt sóng biển do con thủy quái tạo nên ngày một dày đặc, bọt biển tung tóe và thi thoảng lại đan xen vào tiếng gầm gào của loài quái vật khác chứ không riêng gì của con thủy quái to lớn kia. Dù không có lệnh của thuyền trưởng, nhưng các thủy thủ đoàn cũng nghe thấy được mà tự cảnh giác lấy khi thấy mỗi con sóng đánh vào mạn thuyền. Họ không mấy căng thẳng, nhưng lại cảm thấy rất khó chịu khi ở thế bị động. Các thủy thủ đoàn đa số là những người đàn ông phương Bắc, họ rất hiếu chiến nhưng khó mà giữ được sự bình tĩnh khi có thứ gì đó đe dọa đến họ.
Từ xa, tiếng gào của con thủy quái lại vang lên, những đợt sóng biển lại liên tục vỗ vào mạn thuyền như những cánh tay khổng lồ đang muốn bóp nát con thuyền. Từ trong những đợt sóng ấy, có một số sinh vật biển nương theo đó mà phóng lên thuyền tấn công các thủy thủ đoàn một cách bất ngờ. Cá mập có, cá kiếm có, có cả những con mực và bạch tuột to lớn lên đến hai hoặc ba mét. Tuy chúng chỉ có sức uy hiếp trong phút lát vì yếu tố bất ngờ, nhưng cũng đủ làm rối đội hình của các thủy thủ đoàn và làm thương tật một vài người. Rất nhanh, mọi người đã tụ lại chặt chém những đòn chí mạng để kết liễu toàn bộ đám cá mực cá mập bị sóng đánh lên thuyền.
Vì sàn thuyền đã trơn trượt, lại thêm đám sinh vật biển vô tình tấn công bất ngờ bằng cách hi sinh bản thân, nên cũng có số ít thủy thủ đoàn bị chúng dọa trượt khỏi tàu, hoặc cố tấn công một cách vụng về mà bị chúng cắn ngược lại làm bị thương hoặc mất mạng. Nhưng sự việc vẫn chưa dừng lại đó, tiếng gào của con thủy quái lại lần nữa vang vọng, khiến cho thuyền trưởng lẫn các thủy thủ đều trở nên cảnh giác. Họ biết, sinh vật này không phải là một loài vô tri hay trí tuệ kém. Sau đợt gào vang lần đầu thì đã tạo ra sóng biển đẩy những con cá háu ăn lên thuyền nhằm giảm lực lượng của các thủy thủ. Còn lần này, nó cũng rít vang lên lần nữa nhưng không có con cá nào xuất hiện sau những đợt sóng vỗ ấy. Thay vào đó là những sinh vật biển có hình thù giống con người, nhưng lại đu bám lên mạn thuyền từ dưới biển, bò trườn theo thân thuyền theo các chiều ngang dọc tìm lối đột nhập vào khoang thuyền để tấn công đoàn thủy thủ.
Các sinh vật này có thể được gọi là ông kẹ biển cả. Chúng sở hữu thân hình ốm yếu và cao lêu khêu, nhưng tay chân lưng đều có vay mang lẫn vuốt sắc. Đôi mắt to tròn, đen hoàn toàn và trông rất vô hại, nhưng hàm răng của chúng thì không hề nói vậy. Chúng có bộ hàm cực khỏe với phần hàm dưới có thể tách khớp và to hơn hàm trên rất nhiều, và khi há ra để táp thì đủ để nghiền nát đầu của một người trưởng thành hoặc nghiền nát một cục tạ vài chục ký. Trên người chúng có vài phần mọc một lớp vảy như vảy cá, óng ánh màu xanh đen xuất hiện theo vị trí khung xương, nhưng đa số phần còn lại của cơ thể thì lại phô ra những lớp cơ xám nghoét như một con người bị thiêu đến mức bị cháy đen. Nhưng phần lớn cơ thể chúng được che đi bởi những cọng rong tảo như trang phục, khiến cơ thể chúng ám lên một mùi tanh nồng, ai ngửi thấy cũng không thể chịu nổi.
Dù thể hình ốm yếu, nhưng sức khỏe của lũ ông kẹ biển cả này rất khỏe và được lợi thế chiều cao. Lũ thủy quái hình người này cũng có trí tuệ, chúng dùng những con dao ngắn làm từ vỏ sò hay nanh cá để làm vũ khí khi tấn công lên tàu. Một số thì dùng xương sống sinh vật biển để làm những cây đoản thương để tấn công. Thậm chí, chúng còn trực tiếp rút sọ của những con cá kiếm hay sương của mấy con cá mập vừa bị đánh lên thuyền trước đó để làm vũ khí, dù mấy con cá kia có chết hay chưa thì chúng cũng không khoan nhượng khi làm vậy. Mà dù không có vũ khí trong tay, thì lực tát từ tay không của chúng cũng đủ để cào nát một phần cơ thể của mấy thủy thủ đoàn rồi. Chúng rất hung hiểm và thiện chiến không kém gì các thủy thủ phương Bắc.
Cho đến giờ, cuộc săn thủy quái chưa chính thức bắt đầu, chỉ mới ở giai đoạn rượt đuổi nhưng giờ trên boong tàu của các chiến thuyền đã trở thành những bãi chiến trường nhỏ. Đám ông kẹ biển cả rất đông, chúng bị hạ gục lớp này thì lại xuất hiện lớp khác. Chúng đu bám lên thân thuyền trèo lên từ từ nhưng không hề vội dù đồng tộc đang bị chém giết phía trên. Dù các thủy thủ đoàn cảm thấy cuộc chiến này có phần dễ chiếm lợi thế nhưng ai ai cũng cảm thấy có cảm giác bất an khó tả. Bọn thủy quái quá dễ dàng bị hạ gục dù thể lực chúng vượt trội người thường, lẫn áp đảo về số lượng. Nhưng càng chiến lâu, thì sự bất lợi của các thủy thủ càng hiện rõ.
Từ thuyền trưởng đến thuyền viên ở trên boong, cho đến các thủy thủ hậu cần ở tầng dưới cũng đều rơi vào cảnh chiến đấu chật vật. Đám thủy quái ấy chúng tấn công bằng số lượng nhằm để che đi ý đồ phía sau. Lợi dụng lòng biển tăm tối, sóng biển cuộn trào phía trên để che mắt. Bên dưới đoàn tàu, đám ông kẹ biển đang hi sinh một số lượng lớn để khiến cho một con sao biển khổng lồ bám lấy đáy tàu và đâm những chiếc xúc tu vào bên trong, số lượng xúc tu nhiều hơn cả sứa và linh hoạt hơn bạch tuột. Sau khi con sao biển khổng lồ bán vào chiến thuyền rồi thì nó nhanh chóng mọc ra những chiếc xúc tu lớn nhỏ khác nhau như loài giun biển để le lõi khắp nơi trên thuyền. Ở nơi nào có đám ông kẹ biển đu bám, thì xúc tu của sao biển sẽ vươn đến đó tóm lấy con mồi.
Không những một chiếc thuyền, mà khi cấm rễ đủ sâu ở con thuyền này rồi thì con sao biển lại cố vươn những chiếc vòi của mình sang con thuyền bên cạnh. Nó đánh hơi thấy mùi máu, mùi tanh của các sinh vật biển bị chết, và chủ yếu nó đang bị điều khiển bởi con thủy quái kia. Con thủy quái đó kích phát dục vọng phàm ăn từ con sao biển bằng sóng âm như loài cá voi, khiến nó tiến hóa liên tục các xúc tu để săn mồi ngày một nhiều. Chẳng bao lâu, cả năm chiến thuyền đều đã bị một con sao biển khổng lồ tóm lấy trong mạng lưới tua rua như một cái tơ nhện khổng lồ ở giữa biển. Lúc này tình trạng sóng biển đã trở nên hiền hòa hơn nhưng vẫn còn những cơn sóng lớn và mây đen vẫn che kín bầu trời. Tình hình của các thủy thủ trên thuyền lúc này không hề lạc quan chút nào.
Từ lúc bắt đầu cuộc tấn công của các đợt sóng lớn, đám sinh vật biển hết đợt này đến đợt khác nhảy lên thuyền để tập kích. Các thủy thủ đoàn hi sinh vô số, thể lực của họ nhanh chóng bị bào mòn không còn đủ để chống chọi trong một cuộc chiến kéo dài. Tất cả đã nghe theo lệnh của thuyền trưởng rút xuống khoang thuyền để lợi dụng lợi thế lối đi chật hẹp mà phản kích những cuộc truy sát từ đám ông kẹ biển cả. Nhưng dù vậy, thuyền trưởng cũng như phần lớn các thủy thủ trên boong khi rút xuống thuyền đều không biết những tầng dưới cũng đã bị tập kích bởi bọn ác quỷ đến từ biển đó.
Skjold luôn đi theo thuyền trưởng Hrodgæir, nhưng cậu nhanh chóng đã bị tách ra khỏi ông ta trong cuộc hỗn loạn. Những cuộc chiến trên boong thuyền giờ đã lan xuống tất cả dãy hành lang và từng khoang sinh hoạt. Không những phải đối phố với đám người cá liều mạng, mà còn phải đối phó với những chiếc xúc tu từ đâu mọc ra tấn công bất ngờ. Đám xúc tu của con sao biển nhả ra một loại khídần dần thay đổi bầu không khí bên trong thuyền. Nó đã từng chút một xâm chiếm con thuyền bằng một chất dịch nhầy nhụa nhớp nháp từ bên trong ra tới ngoài. Ở những nơi khuất, nó sinh ra tại đó một buồng trứng to lớn trông giống như một khối thịt mưng mủ bám dính ở một góc thuyền. Khi có sinh vật sống đi qua thì nó lập tức phóng xúc tu ra trói con mồi và cuốn vào bên trong buồng trứng. Cứ như thế, không chỉ đám người cá mà cả thủy thủ đoàn đều trở thành con mồi của loài sao biển này. Cả đoàn chiến thuyền chính thức thất thủ.
Còn bên ngoài, con thủy quái dạng rồng biển đứng sau mọi chuyện hiện nó vẫn ẩn nấp đâu đó để đánh giá thành quả do mình tạo ra. Nó là tù nhân bất đắc dĩ của đại dương, bị nhốt trong một vùng biển nhất định trong phạm vi của vùng đất vô định Aidan. Chính vì vậy khi nó ở đây càng lâu thì càng sẽ có nhiều người sống ở gần vùng biển này biết đến sự tồn tại của nó. Loài người đã năm lần bảy lượt giong thuyền ra đại dương chỉ nhằm muốn săn giết nó. Nó chỉ lẫn tránh và tạo giông bão để xua đuổi những con thuyền phiền nhiễu kia giống như đang chơi đùa với loài vật thấp kém. Cho đến hiện tại, khi con người đã đo lường được sức mạnh quân sự cần thiết để săn nó và đã từng làm nó bị thương một lần, thì nó quyết định sẽ phản kích lại loài người. Dù vậy, nó cũng chỉ là cá thể ấu niên vừa nở được trên dưới một trăm năm mà thôi. Đối với giống loài của nó, thì nó thật sự là một đứa con nít chuyên gây họa khi cứ cố tình lộ mình trên biển để vô tình kéo những đám người tham lam tới, và những việc nó gây ra trên mặt biển không khác gì một trò chơi con nít.
Sau một lúc hụp lặn lượn lờ ở gần những chiến thuyền, khi không còn tiếng chặt chém hay gào thét nào vang lên nữa thì con thủy quái ấy mới lặn xuống biển sâu và biến mất dạng. Giờ năm chiếc chiến thuyền đã bị trói lại một chỗ bởi con sao biển khổng lồ. Từ xa, trông nó giống như một lớp màng thịt rách nát phủ kín chi chít cả năm con thuyền, và bên trong là một môi trường hoàn toàn khác với bên ngoài. Hay, có thể nói bên trong thuyền là một thế giới hoàn toàn khác với thế giới bên ngoài.
Sau đợt hỗn loạn ở các tầng dưới khoang thuyền. Trước đó Skjold đã vô tình bị chia cắt với thuyền trưởng, và bị đánh lén bất tỉnh. Giờ khi tỉnh dậy cảnh vật trước mắt khiến cậu trai trẻ trở nên lo lắng và cảm thấy rợn người. Nơi cậu tỉnh dậy là trong khoang nhà kho đầy bụi, ẩm móc, và có tiếng nước chảy róc rách xuyên qua các vách tường hệt như những gì trong giấc mơ mà cậu đã mơ thấy đêm qua. Nỗi ám ảnh mình bị giết trong giấc mơ nhanh chóng ùa về và bao trùm lấy toàn thân thể đang run rẫy của Skjold. Giờ cậu chẳng phân biệt được đây có thật sự là giấc mơ hay không nữa. Nếu chết thêm một lần, liệu cậu có thể trở về vạch xuất phát ban đầu hay không. Mà điểm xuất phất ban đầu là ở đâu cậu cũng chẳng rõ, thậm chí chuyến đi săn thủy quái lần này có thực sự diễn ra hay không cậu cũng đã không còn phán đoán ra được.
Skjold vò đầu, cố nhớ lại những sự kiện đã xảy ra trước đó. Trong cuộc chiến hỗn loạn trên boong thuyền, mọi thứ đã diễn ra quá nhanh và không thể đọng lại gì được trong đầu chàng trai trẻ. Hoặc nói, mọi chuyện khi ấy vô cùng hỗn loạn nên cậu chẳng thể nhớ được gì cả. Cậu không nhận nhiều vết thương, và cũng chẳng cảm nhận được sự đau đớn khi trên người có vết thương. Cậu chỉ nhớ ra hự hi sinh của các thủy thủ đoàn, cậu nhận ra mùi tanh tưởi của biển, xác chết và máu hòa vào nhau. Và giờ cậu nhớ ra, trong giấc mơ đêm qua vào thời điểm hiện tại trên thuyền đã xuất hiện những con quái vật biến dị ký sinh lên con người và biến đổi họ. Nghĩ đến đây thì cậu trai trẻ đột ngột kiểm tra thân thể của mình, và kiểm tra luôn thanh đoản kiếm lẫn vòng dây ngọc trai đeo trên cổ. Vẫn nay, tất cả vẫn còn bên cạnh anh chàng, dù đã gặp bao nhiêu sự cố hay xảy ra biết bao nhiêu chuyện nhưng hai vật ấy vẫn không rời khỏi cậu ta. Và viên ngọc trai lại một lần nữa phát ra thứ sáng ánh vàng như lúc trước để Skjold có thể soi đường.
Với ký ức từ giấc mơ, Skjold nhanh chóng thích nghi với tình hình hiện tại ở trên tàu. Không có cảm giác bấp bênh như cách con thuyền trôi trên biển lúc bình thường, không khí trong khoang tàu đã bắt đầu thay đổi, có nhiều mùi hỗn tạp và tanh nồng hơn những gì cậu cảm nhận được ở trong giấc mơ. Không những vậy, mùi máu là thứ nồng nặc nhất vào thời điểm này, và cả toàn bộ con tàu đã bị một thứ gì đó bám lấy và chất nhầy của nó đu bám mọc ra khắp nơi trên hành lang lẫn các khoang thuyền dưới hình dạng rễ cây. Đó là sự khác biệt với những thứ trong mơ của Skjold.
Chàng trai trẻ phương Bắc giữ chắc thanh đoản kiếm trong tay, đi chuyển nhẹ nhàng hết mức có thể để tranh gây ra tiếng động. Cậu xác nhận tình hình con tàu bây giờ có chín phần giống với những gì đã xảy ra trong mơ, vì vậy cậu không ngần ngại đi xuống tầng dưới để tìm dụng cụ mở cửa phòng thuyền trưởng. Cậu nhớ, cửa boong tàu đã khóa lại và cần phải có một khối đá năng lượng với chìa khóa của thuyền trưởng mới mở ra được. Lần này, cậu sẽ tìm dụng cụ để bẻ khóa chứ không định dùng vũ lực để phá cửa như lúc trong mơ nữa. Những sinh vật kí sinh kia đã biến đổi thủy thủ đoàn, dù số lượng không biết bao nhiêu nhưng cậu vẫn phải cẩn thận, vì đám sinh vậy ấy bị mù nhưng không điếc và vô cùng nhạy cảm vật thể sống. Cậu có thể giết một hoặc hai con, nhưng với số lượng thuyền viên trên tàu thì cậu không nghĩ một mình mình có thể đối phó với tất cả. Vì vậy, việc tránh đi những cuộc xung đột không đáng có là phương án thông minh nhất lúc này.
Ở kho vũ khí tầng dưới có chứa rất nhiều món khí giới, nhưng phòng vật dụng sẽ là nơi Skjold cần tới, vì nơi đó sẽ tìm ra được những món đồ để bẻ khóa không gây tiếng động lớn. Nhưng khi mới vừa bước xuống tầng dưới thì mùi hôi của xác chết đã xộc lên mũi của chàng trai trẻ, cậu ta quên đi việc con tàu hiện giờ đang có một thứ mùi rất khó ngửi và độc hại với con người. Chỉ trong giây lát, Skjold lại lần nữa xé một phần tay áo để che mặt, và cẩn thận thăm dò tầng dưới cẩn thận hơn trước rất nhiều, vì nơi này là nơi cậu bị sinh vật biến dị tấn công lần đầu tiên.
Với trái tim đang nện như trống của mình, Skjold cảm thấy căng thẳng hơn bao giờ hết. Ánh mắt cậu không ngừng để ý khắp nơi, cũng không quên để ý chui đoản kiếm xem nó có phát sáng hay không. Hiện tại chui đoản kiếm cũng có phát sáng, nhưng lại là một ánh sáng mờ nhạt không sáng chói như mỗi khi gặp nguy hiểm. Cậu đã nắm giữ được quy tắc hoạt động của thanh đoản kiếm này, và xem nó như là kim chỉ Nam để tránh né bọn quái vật. Trong lòng cậu hiện tại cũng thầm cảm ơn già làng vì đã cho mình hai món bảo vật này. Nếu sống sót quay về, cậu thề sẽ vĩnh viễn không bao giờ ra biển một lần nào nữa, và sẽ túc trực tại nhà của nguyên lão để làm đầy tớ trả ơn.
Một lúc sau Skjold cũng đã vào được phòng cất chứa vật dụng chuyên dùng, nhưng cảnh tượng trong này khiến cho cậu trai trẻ phải sửng sốt mà phải tự bụm miệng lại để không thốt lên một tiếng nào. Trong phòng có những cái kén treo lủng lẳng trên trần, và nhìn rất rõ ràng đó là hình dạng của con người đang bị thứ gì đó giống như khối thịt mưng mủ phú lấy nửa trên. Không rõ trong số họ có ai còn sống hay không, nhưng thi thoảng vẫn có những cái chân bị co giật liên hồi khiến cho việc tiến vào bên trong phòng của Skjold gặp chút khó khăn. Cậu trai trẻ phải rất căng thẳng khi thấy ai đó giật giật giống như bị co cơ, vì không biết đó là do họ còn sống, hay do sinh vật kia đã ký sinh biến đổi chủ thể thành công và phát hiện ra cậu.
Skjold nuốt nước bọt một cách khó khăn sau khi bất động quan sát một hồi. Trong phòng này có tới hơn hai mươi người, và toàn bộ đều trong trại thái treo lơ lửng như con nhộng. Không những từ chân mấy cái kén, mà còn ở phía trên trần nhà lẫn mấy bức tường, nơi nào có đám kí sinh kia bám vào đều chảy ra một thứ nước nhơn nhớt vàng khè trông rất giống chất thải hỗn tạp của con người. Những thứ nhơn nhớt này vô cùng hôi và có ở khắp nơi trên thuyền, và càng nhiều hơn ở chỗ mấy cái kén.
Đảo mắt qua mấy cái kệ dụng cụ, Skjold lần lượt lướt qua và tìm nhanh những thứ có thể dùng được. Một cái móc nhíp và một cái chặn khóa, đó là những thứ hữu ích trong trường hợp này. Sau khi lấy được dụng cụ mở khóa, Skjold cố nhớ lại xem viên đá năng lượng để mở cửa dẫn lên boong thuyền trưởng cất chỗ nào. Trong trí nhớ, cậu chỉ biết thuyền trưởng hay cất đồ có giá trị trong hộc tủ, nhưng đó là giấy tờ quan trọng hay vật kỷ niệm. Còn viên đá ma thuật, cậu nhớ ra nó được trang trí trên tủ kính phía sau bàn làm việc của thuyền trưởng, nhưng cần phải có mô hình mở khóa tủ kính thì mới lấy được. Trong trường hợp này, cách nhanh nhất là phá tủ kính và lấy viên đá rất dễ dàng, nhưng làm vậy sẽ gây ra tiếng động và lũ quái vật sẽ kéo đến chỉ trong tích tắc. Nếu bị vây hãm trong phòng thuyền trưởng, cậu sẽ cầm chắc cái chết vì từ phòng thuyền trưởng đi đến cửa boong thoát lên trên có khoảng cách một hành lang dài.
Gạt bỏ hết những suy nghĩ phức tạp, chuyện cấp thiết bây giờ nhất vẫn là vào được phòng của thuyền trưởng Hrodgæir, vì trong đó có đủ hai món chìa khóa giải thoát cho cậu khỏi con tàu ma này. Bây giờ không phải là lúc lưỡng lự hay do dự suy tính, Skjold cất dụng cụ bẻ khóa vào túi quần xong lại âm thầm rời khỏi căn phòng đó và khóa cửa một cách nhẹ nhàng để phòng trường hợp sẽ có một sinh vật biến dị nào đó thức tỉnh và gây tiếng động thu hút thêm những con khác đến. Cậu lần lượt đảo hết một vòng ở tầng dưới và khóa hết mọi cánh cửa trong âm thầm trước khi quay trở lại tầng trên.
Hành lang tầng trên cũng giống như những gì Skjold nhớ, đá năng lượng ánh sáng vẫn hoạt động chỗ có chỗ không, và khu vực ở trước cửa phòng thuyền trưởng là hoàn toàn tối. Trước khi bắt đầu bẻ khóa phòng thuyền trưởng, Skjold đi dạo vòng quanh để xác định khu vực này an toàn thì mới dám hành động. Đây là nơi cậu bị sinh vật biến dị giết, nên cậu rất mẫn cảm và cảnh giác hơn so với khu vực xung quanh.
Dựa trên sơ đồ, phòng của thuyền trưởng Hrodgæir là nơi cuối cùng của hành lang. Nếu có nơi nào khác để ẩn trốn thì chỉ có căn phòng quan sát cá nhân nhỏ ở phía đối diện phòng của ông ta, và đó là nơi Skjold kiểm tra sau cùng sau khi xác định dãy hành lang đã an toàn. Cẩn thận từng chút một, Skjold hướng ánh sáng của sợi dây ngọc trai máu vào phía cánh cửa đang mở hờ. Cậu thấy trong đó có một tảng thịt mưng mủ tràn ra sàn, phần thịt thừa chèn cả cánh cửa không thể đóng sập lại được.
Lại một lần nữa Skjold nuốt nước bọt, và tìm xung quanh xem có vật gì có để dùng để đẩy cái mớ thịt kia vào bên trong phòng và khóa nó lại hay không. Cậu khá bị dị ứng khi sợ bên trong nó có thứ gì đó sẽ nhảy ra tóm lấy cậu khi vừa quay lưng đi. Loay hoay một hồi, cậu thấy gần đó có một cây lau sàn, đó là thứ cực kỳ hữu dụng trong trường hợp này. Cây lau sàn đã bị một lớp chất nhờn phủ đầy trên đó, nhưng cậu vẫn can đảm cầm lên để giải quyết khối thịt thừa kia. Khi đống thịt mưng mủ ấy đã bị hất vào trong một cách khéo léo thì Skjold cũng nhanh nhẹ mau chóng đóng cửa và chắn cây lau trước cửa luôn.
Quay lại ổ khóa của phòng thuyền trưởng. Skjold bắt đầu lấy dụng cụ bẻ khóa ra tra vào ổ khóa và bắt đầu mò mẫm nhịp từng mối khóa bên trong. Cậu căng trở nên thẳng mỗi khi nhịp trúng được một mối khóa, vì nó vang lên một tiếng lách tách đủ lớn trong môi trường tĩnh lặng hiện tại. Cứ vừa xong một mối khóa, thì Skjold dừng lại một chút để cảnh giác xung quanh lẫn kiềm nén hơi thở của mình. Cậu không thể lỏng tay hay dừng giữa chừng được, vì các mối khóa bên trong sẽ trở về như cũ nếu cậu dừng giữa chừng, chưa kể nó cũng sẽ tạo lên một loạt âm thanh dẫn dụ đám quái vật tới. Đồng thời, cậu cũng không thể giữ tư thế này quá lâu vì càng lâu sẽ càng có nhiều mối nguy hiểm tiềm tàng xung quanh cậu mò tới.
Khi nhịp xong mối khóa cuối cùng, cũng là lúc một tiếng cạch hoàn toàn lớn vang lên, báo hiệu ổ khóa đã được mở và cũng là lúc tiếng của bị thịt rơi lộp độp ở tầng dưới phát ra rất rõ ràng. Skjold thừa biết đó là tiếng của bọn sinh vật biến dị khoét kén chui ra, âm thanh mở khóa lúc này sẽ thu hút những con quái vật ấy đến đây trong chốc lát, nên cậu nhanh chóng cất vật dụng bẽ khóa lại vào trong túi rồi mở cửa trốn vào trong và khóa trái ngay lập tức. Đứng đằng sau lớp cửa, cậu lắng nghe những tiếng bước chân nặng nề và khập khiễng tiến gần về phía phòng thuyền trưởng. Tuy số lượng không đông, nhưng cậu có thể ước tính có cỡ bốn đến năm sinh vật biến dị đang hướng đến chỗ này. Vừa đi, chúng vừa phát ra những âm thanh ra thật rợn người. Những tiếng oe oe kéo dài, hệt như con nít ê a tập nói một mình lúc giữa đêm. Âm thanh của những bước chân khập khiễng còn không rợn người bằng những tiếng nói không thành lời này của đám biến dị, chúng khiến Skjold vã mồ hôi hột và dựng tóc gáy khi núp sau cánh cửa. Cậu không dám thở mạnh, thậm chí là nín thở vì sợ bọn quái vật ấy xông vào căn phòng an toàn nhất thời điểm hiện tại.
Nhìn vào chui đoản kiếm, nó càng ngày càng phát sáng, nó đang báo hiệu có mối nguy hiểm đang đến gần và Skjold lúc này gần như là hóa đá. Cậu không nghĩ mình sẽ chết tại một chỗ đến tận hai lần. Cậu siết chặt chui kiếm, tim cậu đang nhảy loạn lên vì tình huống hiện tại. Cậu sẵn sàng sống mái một phen nếu bị phát hiện ra đang trốn ở đây, dù hiện tại tâm trí cậu lúc này không ổn định chút nào vì sự căng thẳng quá độ.
Một lúc sau không phát hiện sinh vật sống quanh đây, mấy con sinh vật biến dị ấy cũng từ từ rời khỏi. Bên trong Skjold cũng vẫn chưa thể buông lỏng cảnh giác. Cậu dựa trên độ sáng của thanh đoản kiếm mà phán đoán khoảng cách đám biến dị kia đã đi đủ xa hay chưa. Khi ánh sáng của thanh đoản kiếm trở nên mập mờ, thì cậu mới thả mình xuống tựa lưng vào cánh cửa mà thở phào giống như vừa chết đi sống lại. Cậu vã mồ hôi như tắm, tay chân bắt đầu trở nên bủn rủn không còn chút sức lực nào. Trong đầu cậu lúc này có một dòng suy nghĩ thoáng qua, rằng có khi nào nên yên phận trốn trong phòng của thuyền trưởng cho đến lúc chết không? Vì chết trong này ít ra sẽ được thanh thản hơn là mạo hiểm xông ra ngoài kia và nhận một cái kết đắng. Thân xác không toàn thây và nỗi đau dày vò trước lúc chết đã hình thành nỗi ám ảnh ăn sâu vào trong đầu cậu.
Skjold không muốn một lần nữa trải nghiệm cái cảm giác thân xác bị đâm lỗ chỗ, nội tạng vương vãi khắp nơi trên sàn thêm lần nữa. Cậu nhìn thanh đoản kiếm trong tay và tự hỏi chỉ dựa vào thứ này thì cậu có thật sự sẽ sống xót rời khỏi đây hay không. Cậu đã bắt đầu hoài nghi về chuyến đi này, hoài nghi về cuộc sống của mình, và hoài nghi về độ chân thật của tất cả những gì đang xảy ra kể từ khi nhận được hai món bảo vật này từ già làng. Liệu tất cả có phải là một giấc mơ, và khi tỉnh lại thì cậu vẫn sẽ đang ở trong căn phòng ấm cúng của mình tại làng Sjolund hay không.
Dù sao thì cũng đã vào được phòng của thuyền trưởng, cách mở cửa boong tàu để thoát khỏi đây chỉ còn một bước, cậu không thể nào không thử cược một lần. Sốc lại tinh thần lần nữa, Skjold tìm kiếm chiếc chìa khóa mở cửa boong trong ngăn kéo. Khi tìm được, vô tình móc chìa khóa ấy lại có mô hình chiếc mỏ neo vừa khớp với lỗ khóa của hộp kính chứa viên đá năng lượng ở trên đầu tủ. Skjold lần này không cần phải đập hộp kính để lấy đồ bên trong nữa rồi. Cậu định lấy chìa khóa xong thì sẽ ôm hộp kính ra cửa boong và sẽ đập nát nó tại đó để lấy viên đá khởi động cửa boong tàu. Giờ mọi chuyện trở nên suôn sẻ hơn những gì cậu nghĩ, điều đó khiến cậu có thêm động lực và niềm tin sẽ rời khỏi được đây.
Dù mục tiêu đã gần ngay trước mắt, nhưng Skjold cũng không lơ là hạ thấp cảnh giác. Cậu vẫn nhớ tiếng động lúc vừa vào phòng thuyền trưởng đã dụ bốn năm con quái vật biến dị đến đây. Khi trở ra, thế nào cậu cũng sẽ giáp mặt chúng và cần phải có cách đối phó với đám sinh vật biển biết đi trên cạn này mà không thu hút thêm bất kỳ con nào tới.
Skjold bắt đầu kiểm tra toàn bộ căn phòng của thuyền trưởng, và trong đầu liên tục suy nghĩ để tìm ra cách ứng phó phù hợp. Cậu cần phải lợi dụng nhược điểm của lũ sinh vật này mà đánh lừa, đó chính là chúng chỉ nghe được mà không thấy hay đánh hơi được. Quanh đi quẩn lại một hồi, cậu thấy chiếc đồng hồ cúc cu treo trong phòng là thứ hữu dụng nhất ở thời điểm hiện tại. Chỉ trong giây lát, trong đầu chàng trai phương Bắc đã có kế hoạch thoát khỏi nơi này. Nhưng trước đó cậu cần phải kiểm tra lại lộ trình thoát hiểm đôi chút.
Skjold cẩn thận mở cửa phòng không gây chút tiếng động, và dùng một quyển sách để chắn ngay mép cửa để nó không tự động khép lại. Skjold giơ đoản kiếm lên ngang tầm mắt, vừa nâng từng bước nhẹ nhàng di chuyển ra hướng hành lang chính vừa để ý độ sáng của chui kiếm có thay đổi hay không. Khi tới khúc cua, cậu nép mình vào sát vách tường và ghé mắt nhìn trộm ra. Vừa mới lộ nửa mặt, đột nhiên có một sinh vật biến dị quay mặt về phía cậu khiến cho chàng trai trẻ giật mình mà trợn trừng mắt. Khi nhận ra sinh vật đó không phát hiện ra cậu, mà nó chỉ vô tình vừa đúng lúc xoay người khi cậu vừa thò đầu ra thì lại thở phào nhẹ nhõm nhưng cũng chẳng dám thở mạnh.
Skjold nhanh chóng điểm số bọn biến dị, số lượng đã giảm nhưng cậu không loại trừ chúng vẫn còn đang quanh quẩn đâu đây, hoặc là chúng đã trở về tầng dưới hoặc đi nhầm vào căn phòng nào đó ở tầng này. Nghĩ đến đó, cậu biết mình cần phải khóa cả lối đi từ khoang dưới dẫn lên đây nữa. Việc chiếc đồng hồ cúc vu vang lên chắc chắn sẽ kéo không ít đám biến dị chạy vào phòng thuyền trưởng. Nhưng lối đi xuống tầng dưới lại ở gần cửa boong chính, một khi đồng hồ reo vang thì cậu cần phải khóa được cửa tầng hầm trước khi có thêm sinh vật biến dị nào thoát ra làm phiền cậu mở cửa boong tàu. Để làm được điều đó, cậu phải ước tính lượng thời gian mình di chuyển tới trước cửa boong tàu một cách lặng lẽ, xuyên qua đám biến dị mà không để bị bắt.
Skjold bắt đầu sắp xếp kế hoạch lại trong đầu. Đầu tiên, cậu sẽ mang thêm một thanh chắn cửa tầng hầm, và sau đó sẽ chỉnh thời gian hẹn giờ để đồng hồ kêu vang. Kế đó, trước khi đồng hồ gõ chuông, thì cậu phải di chuyển đến cửa boong nhanh nhất có thể, đồng thời cũng phải nhẫn nại canh cửa tầng hầm cho đến khi đám biến dị trên tầng này chạy hết vào phòng thuyền trưởng thì cậu mới đóng cửa tầng hầm, mở cửa boong chính. Việc đóng cửa tầng hầm chắc chắn sẽ tạo ra tiếng động không hề nhỏ, chắc chắn sẽ dụ ngược đám biến dị quay lại về phía mình. Thế nên, cậu cần phải canh thời gian cho thật chính xác, trước khi đám biến dị đó một lần nữa chạy về phía cậu thì cậu cần phải mở được cửa boong chính trong thời gian sớm nhất. Nghĩ đến đây thôi cậu cũng cảm thấy đây chẳng khác gì trò chơi căng não, vừa đi thăng bằng trên dây cả.
Kế hoạch đã đâu vào đấy, Skjold nhanh chóng lựa chọn một thanh gỗ tương đối cứng treo sau lưng mình, đồng thời nhét chiếc chìa khóa lẫn viên đá năng lượng vào túi quần mình. Cậu lại bắt đầu nhẩm tính trong miệng thời gian cần phải di chuyển lén lút đến đầu hành lang, vừa bắt đầu điều chỉnh hẹn giờ chiếc đồng hồ. Sau khi bố trí xong mọi thứ, cậu nhanh chóng rời khỏi phòng thuyền trưởng, men theo vách hành lang mà di chuyển một cách thận trọng. Khi ra được hành lang chính, trước mặt cậu là những dáng đi khập khiễng siêu vẹo của đám quái vật. Cậu thủ thanh đoản kiếm trong tay và lặng lẽ di chuyển theo sau mỗi bước đi của lũ sinh vậy này. Mấy bước đi của chúng phát ra âm thanh lộp cộp của đế giầy va vào mặt sàn gỗ nhưng lại không thu hút con quái vật nào đến cả, có lẽ vì chúng nhận ra đó là bước đi của đồng loại nên mới không có biểu hiện gì.
Khi đi được quá nửa hành lang, Skjold lẩm nhẩm ước tính thời gian đồng hồ sắp gõ chuông cũng đã gần đến. Cậu thầm tính trong đầu, và cũng càng trở nên căng thẳng và cảnh giác hơn khi giữ khoảng cách tương đối gần với lũ biến dị này. Nếu cậu sơ ý để lộ sự hiện diện của mình thì chắc chắn chúng sẽ bỏ qua cái đồng hồ mà tấn công cậu.
Khi nhẩm ngược về không, thì Skjold nhanh chóng ngồi chồm hổm xuống nép mình vào mép tường trước nửa nhịp. Vừa lúc, tiếng chuông đồng hồ trong phòng thuyền trưởng vang lên đã gây được sự chú ý của mấy con quái biến dị ở tầng này. Chúng nhanh chóng di chuyển nhanh nhất có thể về phòng phát ra âm thanh bằng nhiều tướng đi cong cong vẹo vẹo. Thấy chúng đi đủ xa, Skjold lại tiếp tục tiến về phía cuối hành lang trong sự thầm lặng nhưng với tốc độ nhanh hơn, lúc này cậu vẫn chưa thể để lộ sự hiện diện của bản thân được.
Những tiếng chuông vẫn vang lên inh ỏi tại căn phòng ở phía cuối hành lang, Skjold vừa di chuyển một cách thận trọng cũng vừa để ý lắng nghe âm thanh ồn ào ở tầng dưới. Cậu biết rằng, đám biến dị trong căn phòng dụng cụ trước đó và những phòng khác đang cố phá cửa để lên trên. Cũng may là trước đó cậu đã cẩn thận đề phòng khóa cửa tất cả các căn phòng dưới đó nên mới có thêm một lớp bảo hiểm trong kế hoạch này.
Khi thấy khoảng cách đến cửa boong tàu đủ gần, Skjold không còn thận trọng nữa mà phóng từng bước lớn đến đó ngay, đồng thời cũng mạnh tay đóng sầm lại cửa hầm dẫn xuống tầng dưới và lấy thanh gỗ sau lưng cài chốt lại. Tiếng động cửa hầm vừa đóng, thì tiếng cửa vỡ dưới đó cũng vang đến chỗ cậu. Đám biến dị đông đến một đàn bắt đầu chạy lên các bậc thang để phá cửa hầm, chúng đã xác định được vị trí của Skjold ở phía sau cánh cửa đó.
Còn về phần mình, sau khi chốt then cài cửa hầm xong Skjold cũng biết chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa là đám biến dị tầng này sẽ quay lại đây. Nhìn chui thanh đoản kiếm đang phát sáng ngày một rõ ràng hơn, cậu trai trẻ biết mình chẳng còn nhiều thời gian. Cậu nhanh chóng lắp đá năng lượng vào cánh cửa, rồi tra chìa khóa vào ổ để chuẩn bị mở. Khi viên đá năng lượng trên cánh cửa đổi màu, thì Skjold biết nó đã nạp đủ năng lượng và giờ đã có thể xoay chìa khóa để mở cửa.
Vừa mở ổ khóa xong, những tiếng kêu lách cách lại vang lên và Skjold lại theo quán tính nhìn về phía sau vung thanh đoản kiếm lên để tấn công một kẻ định đánh lén cậu. Không biết từ bao giờ, một con sinh vật biến dị đã tiếp cận được cậu và chỉ có một mình nó. Một chiếc xúc tu của nó đã bị Skjold chặt xuống khi định đánh lén cậu, nhưng rất nhanh, từ chỗ xúc tu bị chặt ấy nó nhanh chóng tái tạo lại một cái xúc tu mới để tấn công thêm lần nữa.
Cảm thấy không ổn, Skjold không muốn phí thời gian ở lại với sinh vật đáng chết này nên cậu quyết định liều mình kết liễu nó sớm tại đây. Chấp nhận chịu một đòn, Skjold để chiếc xúc tu của con quái kia đánh vào mình, nhưng cậu đã khéo léo lách người sang một bên nên chỉ trúng ở bả vai. Còn đòn tấn công của cậu, nó ghim thẳng ngay giữa đầu của sinh vật kia, và nó bắt đầu xịt những chất nhờn nhày nhụa ra thay cho máu trước khi gục ngã.
Skjold không còn thời gian bận tâm xem sinh vật đó có chết thật hay chưa, vì từ cuối hành lang đã thấy bóng dáng của những con khác đang rít gào chạy về phía cậu rồi. Chàng trai trẻ nhanh chóng phóng mình lên boong tàu, mọi thứ ở ngoài này cũng tệ hại không kém gì bên trong khoang tàu. Dù trên boong không còn sinh vật biến dị nào hay quái vật biển nào, nhưng cả đoàn tàu đã bị dây lưới chằn chịt như tơ nhện phủ kín phía trên giống như một cái lồng giam dần khép kín, chúng lại còn ngọ nguậy giống như sinh vật sống nữa. Chỉ mất chừng hai giây để Skjold nhận ra đó là những chiếc xúc tu của một sinh vật khổng lồ, nó đang cố biến những chiếc thuyền trong mạng lưới này thành một phần cơ thể của nó.
Cuối cùng, Skjold cũng biết vì sao khi ở bên trong thuyền cậu không cảm nhận được sự bấp bênh của sóng biển đánh vào thuyền, đó là vì sinh vật to lớn gớm ghiếc này đang giữ các chiến thuyền khỏi mặt biển. Không còn nhiều thời gian, cậu trai trẻ phương Bắc nhanh chóng chạy về cuối đuôi tàu để hạ thủy ngay một chiếc tàu cứu sinh. Cậu biết, dù lên được tàu cứu sinh rồi thì ngoài kia vẫn còn vô vàn nguy hiểm đang rình rập, nhưng nếu cứ ở trên con thuyền này mãi thì chẳng mấy chốc đám sinh vật biến dị kia sẽ tràn lên boong tàu với số lượng lớn, và cậu sẽ không còn đường lui.
Sau tất cả, Skjold Audunsson thừa thời gian để hạ thủy thành công một con thuyền cứu sinh và đã nhảy lên đó dùng hết sức để chèo ra khỏi vùng biển chết đấy. Khi chiếc thuyền con của cậu bơi đủ xa, thì cậu nhìn về phía sinh vật to lớn kia đang dùng những chiếc xúc tu kết lại thành từng lớp dày đặc phủ kín các chiến thuyền trong lòng nó. Trên thuyền cũng đã thấy lượng lớn bóng dáng của đám sinh vật biến dị thoát ra ngoài. Skjold thở phào vì mình vừa mới thoát khỏi chỗ chết, và cậu cũng thầm mặc niệm cho những người đã hi sinh trong chuyến đi này. Cậu thầm dặn lòng mình lần nữa, khi về đến quê nhà thì cậu sẽ không bao giờ đặt chân lên một con thuyền hay tàu nào lần nữa, và cũng sẽ không ra khơi mà chỉ ở lại nhà của các già làng để phục vụ họ cho đến hết đời.
Vừa tự nhủ lòng xong, Skjold lại tiếp tục ra sức chèo về một hướng có ánh sáng mặt trời, rời xa khỏi vùng biển có mây đen chen kín phía trên. Chẳng bao lâu, chàng trai ấy đã gặp một con thuyền khác có cùng cảnh ngộ với mình, trên đấy có hai người còn sống sót, và dường như thần trí của họ đã không còn minh mẫn sau những gì đã trải qua. Dù không phải người cùng làng, nhưng cũng là thành viên may mắn sống sót cùng chuyến đi tử thần này, nên Skjold quyết định sẽ đưa hai người họ về cùng với mình.
“Đó là toàn bộ câu chuyện về chuyến đi biển có thật mà tôi đã nghe lại được từ người còn sống trở về.” Thiên Thần Daniel chậm rãi kết thúc câu chuyện mình kể, và ông cũng đảo mắt lên nhìn gã thương nhân bậm chợn trước mặt mình. “Quý ngài đây cảm thấy câu chuyện này được chứ? Tôi hi vọng nó không trở thành nỗi ám ảnh ngài vào mỗi đêm.”
“Ám ảnh? Ha. Thật vớ vẩn. Câu chuyện chả có ý nghĩa gì cả.” Lão mập giàu có Vandil tỏ ra khinh khỉnh, dù giờ lưng ông ta đã ướt đẫm mồ hôi trong cái đêm lạnh giá này. “Câu chuyện nói về một lũ ngốc hám lợi và thiệt mạng trên biển. Ta dám cá đó chỉ là một cơn bão bình thường và toàn bộ số thuyền đó vô phúc gặp nạn, chứ chả có sinh vật biển biến dị gì ở đây kí sinh con người cả.” Ông ta dứt khoát đứng dậy, phủi phủi bộ y phục lắp lánh đắt tiền rồi hừ lạnh nhìn quanh. “Câu chuyện vừa rồi của tên tu sĩ này kể chỉ là chuyện nhảm nhí. Chỉ có lũ ngu mới nghe và tin lời hắn.” Nói rồi hắn phất tay kéo toàn bộ thuộc hạ trở về trại của mình.
Khi bóng dáng đoàn người của tay thương giá béo ụ Vandil khuất bóng thì Daniel mới tiếp tục lên tiếng. “Sau khi nghe xong câu chuyện trên, ta tin mỗi người ở đây đều có chính kiến riêng của mình. Tin cũng được, không tin cũng được, ta không chấp nhất chuyện đó. Nhưng, sau này các vị ngồi ở đây có ai ra biển đi ngang vùng đại dương Faith thì nên tránh xa khu đó ra, bởi vì khối thịt nuốt chửng năm chiếc thuyền chiến vẫn còn để lại tàn tích ở ngoài đó.” Nói xong ông lại đảo mắt nhìn quanh mọi người lần nữa rồi mới nói. “Đêm nay đến đây thôi, chúc tất cả mọi người có một đêm an lành dưới ánh sáng che chở của thần minh.”
Sau lời chúc phúc của Daniel thì mọi người cũng chắp tay cầu nguyện giây lát và rối rít mở lời chào ra về. Khi tất cả giải tán hết, trại của nhóm Thanatos lại bắt đầu quây quần bên nhau lần nữa. Đây là thời điểm sinh hoạt riêng của họ, giống như sinh hoạt gia đình vậy.
“Thưa Cha, câu chuyện trên mang một lời nguyền thật chứ?” Ông Locknar ngồi cạnh tò mò hỏi, vì lúc đầu trước khi kể Daniel đã nói như thế với lão béo giàu xụ kia.
“Câu chuyện đó mang một lời nguyền nhất định, với điều kiện ta phải kể toàn bộ sự thật với họ.” Daniel cũng thông thả đáp, ông lại liếc nhìn sang Thanatos và những thành viên khác trong đoàn vẫn đang im lặng từ đầu đến giờ. Ông lại bảo ông cựu thuyền trưởng. “Ta đã không kể khúc kết đúng sự thật.”
“Vậy... nếu bây giờ con tò mò muốn nghe thì liệu sẽ bị dính lời nguyền không?” Ông thuyền trưởng cười với vẻ mặt lo lắng lộ rõ dưới ánh lửa.
“Nếu ta chỉ kể một cách nửa vời thì sẽ không sao.” Daniel mỉm cười rồi đáp ứng sự tò mò cho ông Locknar. “Cái kết...”
“Cái kết của câu chuyện ấy như sau.” Thanatos tiếp lời, thay thế Daniel. “Sau khi chàng trai Skjold kia cùng hai người khác thoát khỏi vùng biển chết đó không được bao lâu, thì ở dưới biển lại xuất hiện đôi mắt đỏ ngầu khổng lồ. Trong khi tất cả người trên thuyền không để ý, thì Skjold đã nhận ra ánh mắt ấy nhờ ánh sáng phát ra từ vòng cổ ngọc trai máu của cậu ta. Ánh sáng trắng tinh khiết. Vừa nhìn xuống biển, thì cậu nhận ra ngay đó chính là con rồng biển khổng lồ trong giấc mơ của mình. Nó đã nuốt cậu hai lần trước đó, và giờ là lần thứ ba. Sau khi bị nuốt, lúc tỉnh lại thì cả ba người bọn họ đã bị tạt vào một ngôi làng chài ven biển, thuộc vùng biển Wyrding rồi.”
“Biển Wyrding... Đó là vùng biển thuộc vùng cực Bắc, nơi đó chẳng phải cách xa đại dương Faith tận một mảng lục địa sao?” Ông Locknar thốt lên kinh ngạc.
“Chuyện này ông không hiểu được đâu.” Daniel nói chêm vào, cắt đi dòng suy nghĩ tò mò vô cùng có hại của ông ta. Vì để một người bình thường như ông Locknar bước qua lằn ranh giới ẩn chứa những bí mật kinh khủng phía sau thế giới này sẽ vô cùng nguy hiểm, và Daniel biết điều đó. “Vấn đề này có liên quan đến những thứ siêu việt trên thế giới này. Ông càng tìm hiểu, thì kẻ thiệt thòi sẽ là chính bản thân ông.” Vị Thiên Thần đảo mắt nhìn lên bầu trời đêm và nói tiếp. “Trời cũng đã khuya rồi, mọi người hãy đi ngủ đi. Ta và Thanatos sẽ canh gác đêm nay.”
“Vậy nếu Cha đã nói vậy thì... Con xin phép được đi nghỉ, Cha cũng hãy giữ gìn sức khỏe.” Ông Locknar cũng đủ thông minh để biết Thanatos và Daniel không phải người bình thường, vì vậy ông không tò mò nữa mà trở về lều của mình. Những gì họ không muốn nói ra thì chắc chắn sẽ không ai hỏi được, và đó là những bí mật mà người như ông không thể nào tiếp cận được. Vì một khi tiếp cận những bí mật đó, đồng nghĩa sinh mạng ông sẽ không còn an toàn trước những thế lực siêu nhiên đằng sau.
Khi mọi người đã giải tán hết, chỉ còn lại Thanatos và Daniel thì hai người mới bắt đầu trò chuyện. Vị Thiên Thần hỏi trước. “Làm sao cậu biết cái kết của câu chuyện trên? Tôi nhớ là mình chưa kể với cậu gì hết mà?”
“Nghe đến khúc cuối rồi còn không tự nghĩ ra được sao? Trước đó ông đã từng nói với tôi có manh nối của vùng đất vô định Aidan ở vùng biển Bắc Wyrding; Cổng Đen, thông qua một nhân chứng tại làng chài gần ven biển còn gì.” Thanatos xoay xoay ly trà trong tay, làm nó ấm lên rồi hớp một ngụm.
“Vậy, làm sao cậu biết khúc cuối Skjold lại bị con rồng kia nuốt lần nữa?” Daniel tiếp tục hỏi.
“Quá rõ ràng rồi. Đó là Leviathan – Deyidelus; một trong những con rồng cổ đại nắm giữ sức mạnh hủy hoại thế giới, nhưng tính tình rất bao che và nhỏ mọn. Nó đã nuốt cậu nhóc kia hai lần rồi thì chắc chắn lần cuối sẽ không tha.” Thanatos đặt ly trà xuống, nhoài người về phía sau lấy một rỗ bánh nướng ra nhâm nhi. “Ai bảo mấy người này rảnh rỗi kiếm đường chết. Con thủy quái trong câu chuyện trên chính là một trong những đứa con của Deyidelus. Cả gia đình tên đó bị nhốt trong phạm vi của đảo Aidan, nên chỉ khi hòn đảo dịch chuyển thì chúng mới dịch chuyển theo. Và cách Deyidelus nuốt chửng con mồi của mình ba lần, đó chính là cách nó cướp đi linh hồn của nạn nhân và họ mãi mãi sẽ bị giam cầm trên Aidan mà chẳng ai có thể biết hay tìm đến cứu. Đó là lời giải thích vì sao những nhân chứng cho câu chuyện vừa rồi của ông đều trở nên điên loạn và mất trí. Còn chàng trai tội nghiệp Skjold kia sẽ lúc tỉnh lúc mê. Cậu ta sẽ cảm nhận được toàn bộ nỗi đau khổ trên Aidan lúc chợp mắt, và khi tỉnh lại lúc thực tại thì cậu ta sẽ không nghĩ mình đã thoát ra khỏi ngục giam kia, và trở nên điên loạn dần dần. Một kẻ không thể phân biệt được đâu là mơ đâu là thực vì cực hình, quả là một đứa bé khốn khổ.”
“Phải, đứa trẻ khốn khổ tội nghiệp.” Daniel cũng đồng tình. “Ngục giam của cậu ta chính là viễn cảnh chuyến đi biển cuối cùng của đời mình. Cũng tức là câu chuyện tôi vừa kể ban nãy đấy. Điều đó sẽ lập đi lập lại cho đến khi thần trí của thằng bé không còn gì nữa, nhưng điều đó vẫn sẽ tiếp tục cho đến khi nào Deyidelus cảm thấy thỏa mãn. Nhưng với tính cách của tên đó, muốn thỏa mãn hắn chắc phải vài chục ngàn năm dày vò tinh thần con mồi thì mới chịu buông tha. So với tuổi đời loài người thì đó chẳng khác gì hình phạt vĩnh cửu cả.”
“Bởi vậy người ta mới nói. Thà đắc tội với kẻ ác còn hơn là đắc tội với những bà mẹ đơn thân, kết cục của kẻ thủ ác sẽ rất thảm.” Thanatos nuốt một cái bánh nướng mà không cần nhai rồi lại nói tiếp. “Mà bà mẹ đơn thân này lại có quyền năng kinh người trong tay nữa thì ai mà chịu cho nổi.”
Nghe Thanatos nói xong thì cả hai cũng đều thở dài. Họ cứ thế tiếp tục trò chuyện xuyên đêm mà chẳng có chủ đề gì, chỉ có những kẻ sống lâu như họ mới có thể nói chuyện được kiểu như vậy.
Quay trở lại vương đô Orvel, tại dinh thự nhà Red Heart. Vào buổi sáng tinh mơ với bầu không khí se lạnh, tiết trời lúc nào cũng âm u vào những tháng cuối năm khiến cho rất nhiều người không muốn rời khỏi chiếc giường êm ái của mình. Thì lúc này, ở phòng riêng của Audrey, cặp tình nhân đang sưởi ấm cho nhau bằng bài thể dục buổi sáng. Chẳng là công chúa Lena không hề biết cưỡi ngựa, nên sáng nay cô đã yêu cầu Audrey phụ đạo cho mình một khóa ngay trên giường. Trong lúc thực hành, cô muốn phàn nàn với anh về buổi họp ở đền thờ mà cô phải có mặt mấy ngày nay, chuyện đó đang lãng phí thời gian ở cạnh anh khi cô có mặt tại Orvel.
Cuộc vận động của cả hai đi từ giai đoạn hâm nóng dần dần đến giai đoạn kịch tính. Nhưng Audrey lần này hoàn toàn để cho Lena nắm thế chủ động, còn anh thì chỉ hướng dẫn Lena động tác hông lúc cưỡi ngựa sao cho đúng mà thôi. Dù nói cả hai đã từng trải qua rất nhiều đêm mặn nồng, nhưng người đúc kết kinh nghiệm qua từng ấy trận chinh chiến chỉ có mỗi Audrey, còn Lena thì như con cá chết mỗi khi cô bị Audrey làm cho mềm người. Còn lúc này, khi gần bước vào giai đoạn cuối thì dưới lầu lại có một âm giọng vang lên khiến cho công chúa Lena phải giật nảy mình.
“Thánh Nữ Lena ới ời! Mới sáng ra tập thể dục hăng hái thế?” Chủ nhân của giọng nói đầy châm chọc này là Thánh Nữ Teresa, cô ta vừa đón xe ngựa đến đây và vô tình nghe thấy âm thanh rên rỉ của Lena từ xa nên tò mò đến xem. Đối với người thường, đáng lẽ sẽ chẳng ai nghe thấy tiếng động trong phòng của Audrey cả. Nhưng vì Teresa và Lena đều là Á Thần, nên Thánh Nữ rất nhạy cảm khi nghe thấy tiếng mơn trớn của Á Thần khác khi ở gần.
Phía ở trên phòng ngủ, sau khi nghe thấy giọng của Teresa thì Lena tự nhiên cứng người, nhưng phần hông lại không thể ngừng hoạt động. “Lena, em thả lỏng một chút. Dưới đó chặt quá.” Audrey nhắc nhở, nhưng anh càng nhắc nhở thì cô nàng lại càng bối rối thịt chặt thêm mà di chuyển hông dữ dội hơn.
“Em... em xin lỗi. Em sẽ kiềm chế lại.” Cô rối rít, nhưng hành động lại khác với những gì cô nói. Cô đang hồi hộp vì Teresa đang đứng dưới kia. Cô biết Thánh Nữ có thể nhìn thấy mình đang làm gì ở trên này, và cảm thấy xấu hổ khi bị người khác bắt gặp mình trong tình trạng hiện tại. Cô nhắm tịt mắt mà rít lên. “Audrey, em không được rồi.”
Dưới lầu, Teresa lại cười khúc khích một cách gian xảo mà theo dõi cả hai đang làm chuyện đó ở bên trên. Dù không dùng năng lực của bản thân, thì Teresa vẫn có thể thấy cái bóng của Lena đang nhấp nhô qua khung cửa sổ. Nhìn cái bóng di chuyển mỗi lúc càng mãnh liệt, cô biết hai người trên kia cũng gần xong rồi nên cô bèn tìm cái cớ rút lui trước khi bị Lena thò đầu ra chửi cho một chập. “Công chúa... à không, Thánh Nữ Lena, tôi sẽ chờ cô ở phòng khách nhé. Hôm nay tôi có vài thông tin đặc biệt dành cho cô đấy, nên tập thể dục buổi sáng cũng đừng có quá sức nha.”
Nói xong cô nàng Thánh Nữ ấy cũng lon ton nhảy chân sáo về phía phòng khách của tòa nhà chính, miệng còn ngâm nga vài âm điệu trông rất vui vẻ. Còn ở phía trên phòng, Lena đã ngã ngựa giữa đường trước khi Audrey đạt đến giới hạn. Cô đổ gục xuống nằm lên cơ thể của Audrey và dụi đầu vào lòng anh ta mà thút thít. Đây lần đầu tiên trong đời Lena thấy tủi hổ đến vậy khi bị người tha thấy toàn bộ cảnh mình học cưỡi ngựa. Dù không phải bị nhìn thấy trực tiếp, nhưng với năng lực của Teresa thì chẳng khác gì cô đã bị Thánh Nữ xem trực tiếp lúc hành sự cả. Sau chuyện lần này, Lena lại có thêm một lý do để trù ẻo cô nàng Thánh Nữ sa đọa đó. Và cô đã trù cho Teresa ăn điểm tâm sẽ bị sặc, uống nước sẽ bị nghẹn.
8 Bình luận