Sống lại ở thế giới khác
Viết theo ngẫu hứng
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 08: Underworld

Chương 195: Từ Tarmu, đến Ur và Thánh đô Masaat – Shedu.

0 Bình luận - Độ dài: 7,897 từ - Cập nhật:

Sống lại ở dị giới.

      Chương 195: Từ Tarmu, đến Ur và Thánh đô Masaat – Shedu.

          Theo hướng dẫn của Teresa, tôi đã tranh thủ cưỡi Wyvern nhanh nhất có thể để đến thị trấn Tarmu vào lúc mặt trời vẫn chưa ló dạng. Không giống với những thành phố có mực dân số đông ở những vương quốc lớn thường sẽ đóng cổng chính và ngừng sinh hoạt về đêm, Tarmu là một thị trấn gần biển nên sinh hoạt ở đây hầu như là sự luân phiên, không có dấu hiệu nào là ngơi nghỉ ở bến thuyền.

Để tiết kiệm thời gian, tôi đã tạt vào thị trấn này một cách không chính thức mà chỉ dạo mua hải sản ở bến thuyền khi trùng hợp bắt gặp những chuyến tàu đánh cá đêm đã về bến khi còn bay trên không. Tôi đang vội, nhưng giờ này mấy cửa hàng thực phẩm trong thị trấn chắc chắn vẫn chưa hoạt động, mà những mẻ cá vừa bắt vào bờ vẫn còn rất tươi mới nên tôi mua thẳng luôn mà chẳng cần trả giá gì cả. Không chỉ có cá, mà còn có cả tôm, cua, mực, với những thứ này tôi đoán thực đơn trên thuyền trong mấy ngày tới sẽ phong phú hơn đây.

Sau khi thanh toán toàn bộ cho đống hải sản tươi, tôi nhờ người ở bến tàu vận chuyển toàn bộ những gì tôi đã mua ra cổng thị trấn, nơi tôi đang để Dead Lord chờ đợi với một chiếc xe hàng. Tất nhiên là Dead Lord cũng đã cải trang bằng một cái áo khoác đen trùm đầu để tránh người khác để ý rồi. Còn chiếc xe hàng thực chất là một loại xe tù được tạo nên bởi những khúc xương trong binh đoàn của Dead Lord, nhưng vì có vải trắng phủ lên phần khung, cộng thêm trời vẫn tờ mờ tối nên chẳng ai có thể nhận ra sự khác biệt này cả. Người ở bến cảng vận chuyển ra tới cổng thị trấn, Dead Lord sẽ khuân vác toàn bộ hàng lên xe, sau đó chúng tôi mon theo lối mòn mà đánh xe rời khỏi thị trấn Tarmu. Lúc đi đủ xa thì tôi thu toàn bộ thực phẩm vào dị không gian của mình, Dead Lord cũng hủy triệu hồi xe hàng và đánh ngựa chở tôi đi thẳng đến thành phố Ur ở gần đó.

Con tử linh mã của Dead Lord to hơn những con ngựa bình thường nên vượt địa hình khá êm, đảm bảo được tốc độ tối thiểu tôi cần lúc này. Nếu chỉ tính chiều cao thì khi nó đứng bốn chân bình thường đã cao tầm ba mét rồi, nhỉnh hơn chiều cao của Dead Lord một chút. Vì thế, khi cưỡi trên lưng của một con ngựa to lớn như này tôi cũng có một cảm giác là lạ khó tả. Nếu diễn tả một cách thô thiển, thì có thể ví tôi lúc này giống như một con thạch sùng cố bám lấy lưng con vật đang chở mình đi để khỏi té giữa đường vậy. Cưỡi trên lưng ngựa của kẻ bề tôi không hề giống với cưỡi trên lưng ngựa của người yêu, không có chút lãng mạng nào ở đây cả, chỉ có sự hồi hộp và lo sợ khi nào mình té ngựa thôi.

Vì đi vượt địa hình một cách dễ dàng, nên khi đến mỏm đá của một ngọn đồi có tầm nhìn về cổng thành phố Ur thì chúng tôi đã dừng lại để cải trang lại lần nữa. Lần này không thể đánh liều triệu hồi ra một cái xe hàng giả như ban nãy được vì trời đã hừng đông rồi, nếu để binh lính gác cổng thấy thì sẽ rất phiền phức. Bên cạnh đó, Dead Lord cũng không thể khoác tạm một cái áo choàng đen dùng mũ che mặt được nữa. Giờ muốn vào thành mua lương thực thì chỉ còn cách biến Dead Lord thành một hiệp sĩ hộ tống mặc giáp kín như bưng từ đầu đến chân mà thôi. Còn tôi, sẽ hóa thân thành một tiểu thư giàu có như lời Teresa đã nhắc nhở lúc trước. Còn thể hiện bản thân là một cô tiểu thư giàu có như thế nào thì chắc tôi phải ngẩm lại điệu dáng bề trên của Jerene mà học theo thôi. 

Theo đúng kế hoạch, giờ tôi đã diện một bộ váy trễ vai tay phồng sặc sỡ có đính nhiều đá quý, đầu thì đội mũ lông lệch một bên, móc dù vào cổ một tay, tay còn lại cầm quạt gấp che nửa mặt để tôn lên nét cao quý khi người khác nhìn vào. Còn Dead Lord và con ngựa của hắn đã được tôi phù phép lên một bộ giáp bạc bóng loáng với những đường hoa văn màu vàng ánh kim uốn lượn dọc từ đầu đến chân, còn điểm xuyến thêm những đôi cánh thiên thần ở những điểm nổi bậc như cầu vai, ngực giáp và phần mũ nữa. Trông hắn lúc này chẳng khác gì một tên hiệp sĩ hộ vệ có tướng người to con đi theo hộ tống tôi cả. Chỉ buồn cười là, hắn vốn là kẻ thuộc về thế giới bóng tối nhưng lại phải khoác lên mình một bộ giáp bạc có thuộc tính ánh sáng. Thế nhưng, mặc thế này sẽ ít gây chú ý khi vào thành hơn là để hắn mặc nguyên bộ giáp bóng tối. Bộ giáp ánh sáng chỉ gây ấn tượng với người khác khi gặp lần đầu, nhưng rồi họ sẽ nhanh chóng quên đi khi không còn nhìn thấy nữa. Còn nếu là bộ hắc giáp thường ngày của Dead Lord, thì không những sẽ gây ấn tượng trong lần đầu gặp mặt, mà còn sẽ khiến người ta nhớ mãi người đã mặc bộ giáp đen nhánh đầy nguy hiểm ấy. Lý do khiến người ta không nhớ kẻ mặc giáp bạc, mà chỉ ghi nhớ kẻ mặc hắc giáp. Là vì, phàm những gì có tính chất thánh thiện thì thường người ta sẽ mặc định rằng những thứ ấy sẽ không làm hại họ, nên họ sẽ rất nhanh chóng quên đi. Còn những thứ thuộc về bóng tối tà ác, dù chưa thật sự trở thành nạn nhân, nhưng họ sẽ vô thức tự lập ra một ý thức phòng vệ và lưu nhớ thứ họ cần phải cảnh giác. Đó là lý do vì sao hắc giáp sẽ khiến binh sĩ canh gác để ý nhiều hơn là vậy.

Nhưng trước khi vào thành, thì vẫn còn một bước chuẩn bị cần thiết phải thực hiện. Ngựa của Dead Lord quá to lớn, nên để tôi ngồi cưỡi một mình trên đó trước khi vào thành thì đó là chuyện không thể. Hơn nữa, giờ hàng người đang chờ kiểm soát vào thành cũng chưa nhiều nên tôi quyết định bảo Dead Lord chặt cây tạo cho mình một cỗ xe kéo có kích cỡ phù hợp với con ngựa của hắn. Chiếc xe này không cần quá to lớn và ngán đường trong thành phố, chỉ cần đủ to và có thể chất một ít hàng lên sau ghế ngồi là được, về phần trang trí thì tôi sẽ đảm nhận. Một tên hộ vệ to lớn, và một con ngựa ngoại cỡ tuy không phải hiếm gặp ở thế giới phép thuật này, nhưng cũng sẽ đủ gây ấn tượng trong lần gặp đầu tiên.

Cũng không mất nhiều thời gian để Dead Lord cùng đám thuộc hạ của hắn chặt cây để đóng thành một cái xe kéo, rồi tôi tra trí thêm một chút. Vì chất gỗ còn mới và hương mùi gỗ, nên tôi quyết định biến chiếc xe kéo này thân thiện với thiên nhiên luôn. Giống với một phần kiến trúc của người Elf, tôi cho chiếc xe có một vái vòm đầy dây mây và lá xanh hoa trắng để che chắn phần trên, thân xe sẽ mang một lớp vỏ sần sùi nhưng hơi ẩm ướt giống như vẫn còn sống, và mọc thêm vài nhánh cây non và hoa li ti ở xung quanh. Bánh xe, là sự kết hợp của phần khung và dây mây non xanh vẫn còn điểm vài chiếc lá, và cuối cùng là phần dây kéo và khung cưỡi để kết nối với con ngựa đều là dây mây phủ đầy hoa lá nhiều màu.

Với chiếc xe kéo vô cùng thân thiện với thiên nhiên cùng vật kéo và hộ vệ hộ tống, tôi đã gây được nhiều sự chú ý khi xếp hàng chờ kiểm tra lúc vào cổng thành. Ban đầu tôi chỉ định tạo một cái xe kéo bình thường, nhưng vì máu mê cái đẹp của thiên nhiên nên tôi đã biến chiếc xe kéo tạm bợ dùng một lần thành một chiếc xe hoa có thể dùng lâu dài. Khi lượt của tôi càng tiến gần tới cổng thành, thì tôi càng giữ chặt cây quạt gấp trong tay và luôn dùng nó để che nửa gương mặt vì quá nhiều người để ý. Tôi có thể thấy được những ánh mắt tò mò đang nhìn vào trong xe, vì họ muốn xem xem người ngồi trên chiếc xe này là người như thế nào.

Khi đến lượt kiểm tra của tôi, thật tình thì tôi vẫn chưa muốn lộ mặt mà chỉ muốn đưa thẻ chứng minh thân phận mạo hiểm giả của bản thân thôi, nhưng vì thấy lính gác đang dần vây xung quanh càng nhiều lên nên tôi đành xuống xe bỏ quạt gấp xuống để chứng minh thân phận, cũng để tránh họ làm khó dễ thêm. Tôi không dùng thẻ mạo hiểm cấp cao tên Yuki, mà chỉ dùng cái cấp thấp dưới tên Lena mà trước đây tôi đã làm, và cũng vừa làm mới lại thông tin trong thời gian gần đây trước chuyến đi lên phương Bắc. Trên thẻ ghi rõ ràng là mạo hiểm cấp B+ và chân dung của tôi cùng nơi cấp là vương đô Orvel. Nhưng khi thấy nhân dạng của tôi rồi thì mấy tên lính gác tự nhiên trở nên ngẩn ngơ ra và cứ nhìn tôi mãi, khiến tôi cũng có phần khó chịu mà xòe quạt gấp ra che mặt lần nữa. Đến khi Dead Lord đánh tiếng hậm hừ đằng sau thì chúng mới tỉnh mộng mà gấp rút điền tên tôi vào danh sách khách vãng lai và đóng ấn ký tên xong tôi mới được vào thành một cách hợp lệ. Qua khỏi khu kiểm tra ở trạm gác cổng thành rồi mà tôi vẫn có thể thấy vài tên linh gác vẫn ngó theo xe tôi bằng ánh mắt si mê không lối thoát. Có thể là tôi hơi tự luyến, nhưng có vẻ như ngoại hình lẫn nhan sắc của tôi ở nơi này hình như rất hút mắt người lạ nên mới dễ hớp hồn mấy tên lính gác với đám đàn ông khác trên đường như vậy. Chứ nếu như ở vương đô Aden hay Orvel, thì người có sắc đẹp tựa như tôi không hề thiếu. Đặc biệt là gần đây còn có cô nàng Thánh Nữ Teresa nữa, tuy cô ta bị khùng nhưng phụ tùng chất lượng, nhan sắc lẫn vóc dáng của cô ấy thừa sức được điểm tối đa trên thang điểm mười, chắc chắn sẽ khiến đám người ở nơi này đổ đứ đừ.

Phớt lờ đi những ánh nhìn của đám đàn ông mặt dày, tôi lại tiếp tục tiến hành mục đích của mình khi đến đây. Dù chỉ là mới sáng sớm, nhưng thành phố Ur này cũng khá náo nhiệt. Dòng người xếp hàng vào cổng thành và cả hoạt động của người bên trong thành nữa, tất cả đều mang lại cho tôi một cảm giác nơi này có đầy sức sống. Nhà cửa nơi đây mang hơi hướng tựa như những ngôi nhà bùn cát vuông vứt của Ba Tư, và những quốc gia khác thuộc vùng Trung Đông ở kiếp trước của tôi, đặc biệt là những mái chóp hình bầu dục của những tòa nhà sang trọng quý phái. Cách người dân ăn mặc phần lớn thì đúng là người Ba Tư rồi đấy, vừa khăn quấn bụng rồi khăn quấn thành nón đội đầu cùng một viên ngọc đính ở giữa. Kể cả hương liệu họ bày bán trên phố cũng khiến tôi có chút hoài niệm, nào là bột tiêu, bột nghệ, thì là, ngải đắng, bột ớt, cà ri và vô số hương liệu khác ở phiên chợ sớm. Và gần khu chợ lại có một tiệm hoa trồng đủ loại hoa nữa, trong đó mùi hoa nhài giống với mùi cơ thể của Teresa là hương thơm ngào ngạt nhất, nhưng tôi chẳng cần gì ở đó cả. Đúng là, dù không biết đường ở thành phố này, nhưng tự tin vào khứu giác bản thân để đi đến được chợ thì tôi đúng thiên tài rồi.

Mà kể ra chợ của thành phố Ur cũng không đến mức quá khó tìm, nó gần như là nằm ở khu trung tâm luôn rồi, cách bố trí khu chợ cũng tựa như phần lớn của các thành phố khác mà tôi đã từng đi qua. Giờ đã đến chợ rồi thì không chỉ hương liệu, tất cả lương thực ngũ cốc gì tôi cũng sẽ thu mua hết mà chẳng cần trả giá. Tôi đưa tiền cho Dead Lord để vào chợ mua hàng, còn tôi thì chỉ cần ngồi trên xe phe phẩy chiếc quạt chờ người ta giao hàng chất lên sau xe giúp mình thôi. Tất nhiên thùng hàng nào vừa được chất lên xe thì tôi liền lén hút nó vào túi không gian của mình khi người bán hàng vừa quay đi rồi. Tuy việc chiếc xe của tôi dừng ở ven khu chợ sẽ thu hút rất nhiều ánh mắt tò mò, nhưng vì tôi chỉ đến đây một lần và sẽ chẳng có lần thứ hai tôi đến đây để hốt lương thực nữa đâu nên cũng chẳng lo việc người ta sẽ nhận ra tôi.

Sau khi hốt hết những gì có thể hốt ở khu chợ, Dead Lord cũng đã hỏi thêm được vài cửa hàng cách đây mấy con phố có thể cung cấp một ít thực phẩm cho chúng tôi, vì thế tôi đã bảo hắn dắt ngựa kéo xe đến những cửa hàng ấy để hốt cú chót trước khi rời khỏi thành phố Ur. Hy vọng hành động thu mua lương thực này của tôi không gây ảnh hưởng quá lớn tới sinh hoạt chung của thành phố. Tôi cũng biết quy tắc khi thu mua lượng lớn lương thực dự trữ ở một nơi xa lạ, chỉ có thể mua nhiều nhất là bảy phần và chừa lại ba phần để nơi đó còn có lương thực duy trì sinh hoạt vài ngày chờ đợt hàng tiếp theo.

Lúc rời khỏi thành phố Ur thì cũng đã hơn chín giờ, toàn hộ quá trình thu gom lương thực ở đây chỉ tốn tầm ba đến bốn giờ. Tất nhiên là lúc xuất thành tôi cũng vẫn phải giữ nguyên dáng vẻ bí ẩn ngồi trên xe để Dead Lord phục vụ. Đến khi ra khỏi tầm nhìn của những lính canh, tôi cho xe chạy nhanh hết mức để lủi vào rừng cây đủ khuất thu hồi lại cả chiếc xe lẫn mấy thùng lương thực vào không gian của mình. Sau đó lại leo lên lưng con tử linh mã để Dead Lord hộ tống đến thành phố thánh Masaat.

Tôi đã hứa với Teresa là sẽ về sớm nhất trong vòng hai ngày, nhưng cá nhân tôi lại muốn giải quyết mọi chuyện trong thời hạn ngắn nhất là một ngày. Số lượng lương thực mua từ thị trấn Tarmu lẫn thành phố Ur cũng được kha khá, nếu về thuyền lúc này thì tôi đoán cả đoàn sẽ được ăn uống thoải mái trong vòng một tuần. Nhưng một tuần vẫn là chưa đủ, vì tôi chẳng biết chuyến đi này đến bao giờ mới kết thúc. Vì vậy, đến thành phố thánh gom thêm đợt lương thực nữa để kéo dài thêm được bữa ăn nào thì hay bữa nấy, tôi không muốn phải thấy cảnh người trên thuyền vì thiếu ăn mà trở nên óm đói bệnh tật.

Và xui thay, khi xem lại bản đồ thì tôi thấy quãng đường từ thành phố Ur tới thành phố thánh Masaat lại gấp đôi từ Tarmu đến Ur. Nhưng với thú cưỡi vượt địa hình của Dead Lord, tôi nghĩ mình sẽ đến được thành phố thánh trước khi mặt trời đứng bóng. Tôi chỉ mong sao từ đây cho đến gần ngoại ô thành phố thánh sẽ có cái ốc đảo hoang vắng nào đó để tôi tạt vào tắm rửa và thay đổi y phục Thánh Nữ mà Teresa đã cho mượn. Tiện thể hóa ra một binh đoàn hộ tống Thánh Nữ như cô nàng tóc vàng hoe đó đã nhắc nhở trước luôn.

Cấu trúc địa hình từ thị trấn cảng Tarmu, cho đến thành phố Ur, giờ đến cả đoạn đường tới thành phố thánh Masaat, hình như tất cả đều có xu hướng sa mạc hóa khi càng cách xa với bờ biển. Phải nói, từ Tarmu đến Ur thì tôi còn thấy được vài nhánh rừng thưa và khí hậu ở đó cũng khá mát mẻ, nhưng từ khi rời khỏi khu vực thành phố Ur rồi thì tôi chẳng còn nhìn thấy bóng dáng của cái cây nào cả, thậm chí nhiệt độ không khí ngày càng có xu hướng nóng dần lên. Với cái cái khí trời oi bức kiểu này, nếu được tắm tiên một cái ở ốc đảo nào đó thì sướng phải biết.

Nhưng tiếc là điều ước tắm tiên của tôi đã không thành hiện thực, vì khi đến gần thành phố thánh rồi thì tôi vẫn không thấy một cái ốc đảo nào cả. Tôi nhanh chóng ngó quanh địa hình xung quanh, vừa kiểm tra xem gần đây có người hay không, cũng như là tìm chỗ để thay bộ đồ Thánh Nữ vào. Ở những cung đường mòn bên dưới, tôi vẫn thi thoảng thấy có vài đoàn người đang đều di chuyển hướng về một con đường chính là dẫn đến thành phố Masaat. Ngoại trừ mấy xe buôn của thương nhân ra thì đa số là những người mặc trường bào đủ kiểu, đủ loại màu sắc. Tôi đoán đó là các tín đồ của những dòng đền thuộc trường phái khác nhau trong thành phố.

Khi kiểm tra được vị trí có khả năng ít ai nhòm ngó tới nhất, thì tôi đã tới đó để thay y phục. Không được tắm rửa trước khi thay bộ đồ khác có khiến tôi hơi khó chịu một chút vì đoạn đường vừa rồi bụi cát hơi nhiều, nhưng để vào trong nội thành rồi tắm cũng chẳng sao cả vì có hồ nước nóng tắm sướng hơn nhiều. Mặc bộ đồ Thánh Nữ mà Teresa cho mượn xong thì tôi mới biết một điều, cô nàng Thánh Nữ tóc vàng hoe này mặc đồ bó hơn tôi nghĩ. Dù đây là trường bào có tà áo trước lẫn sau, nhưng sau lớp tà áo thì bộ đồ Thánh Nữ này chẳng khác gì một bộ đồ bơi một mảnh thít lấy vòng ba lúc mặc. Kể cả vòng một khi nhìn từ bên ngoài thì chỉ có cảm giác được ôm trọn và đường chân ngực được nâng lên, nhưng khi mặc vào rồi thì lại có thêm cảm giác như bị tràn đầy và bầu ngực có thể bị trượt sang hai bên bất cứ lúc nào vì bên hông hai bên phần ngực áo đều thiếu vải. Nếu không có những mối dây giúp cố định khuôn ngực dưới lớp áo giống áo lót thì tôi nghĩ, có khả năng cao mình sẽ bị lộ hàng nếu hoạt động mạnh trong bộ trường bào này.

Mà bên cạnh đó, ý nghĩa bộ trường bào của Thánh Nữ là tượng trưng cho sự thuần khiết, hay đại loại vậy, nhưng vì sao bộ đồ của Teresa lại khiêu gợi quá trời vậy nè? Mặc vào vừa bó sát cơ thể, lại vừa có cảm giác như bị lộ hàng thì không nói đi, thế mà còn chơi kiểu hở lưng bạo đến mức xẻ sâu đến hông muốn thấy bờ mông luôn. Bảo sao cô ta dặn dò tôi rằng không nên mặc đồ lót khi mặc bộ thánh phục này, vì một khi mặc đồ lót thì người ta chắc chắn sẽ biết tôi mặc gì ngay. Nhưng cũng có một điều may mắn là, tôi và Teresa đều sở hữu mái tóc dài quá eo, cho nên tôi có thể xỏa tóc tự nhiên để che bớt phần nào tấm lưng trần của mình.

Khi mặc những phần còn lại bộ đồ Thánh Nữ của Teresa xong, tôi chỉ có thể rút ra một điều. Đó là bộ đồ này không hề tôn lên sự trang trọng hay trong sáng của Thánh Nữ, mà là thử thách độ trong sáng của các tín đồ khi nhìn vào Thánh Nữ. Tôi chưa từng thấy bộ trường bào nào của giáo hội mà giống như bộ váy dài xẻ tà hai bên hông lên đến tận eo, và kết nối hai mảnh trước sau với nhau bằng những đoạn vải ren mỏng chồng chéo lên nhau để tăng phần khiêu gợi. Bộ đồ chỉ đủ che phía trước từ ngực trở xuống và nửa dưới phía sau là từ hông trở xuống, còn lại đều thiếu vải từ vai, lưng cho đến hai bên hông. Nếu không có những phụ kiện mặc đi kèm như bao tay dài tới bắp tay và giày bốt cao tới đùi, thì tôi còn tưởng đây là bộ đồ ngủ dùng để hâm nóng tình cảm với người tình nữa đấy. Cuối cùng là chiếc mũ cao tầng của Thánh Nữ, nhưng tôi phân vân rằng không biết có nên đeo băng bịt mắt cho giống với Teresa không. Cuối cùng tôi bỏ qua cái khăn che mắt mà dùng chiếc khăn vải xoan của mình để dùng làm mạng che mặt, vì nếu đeo cái khăn bịt mắt thì không cần soi gương tôi cũng đủ biết bản thân mình gợi tình đến cỡ nào, và tôi không chấp nhận mặc như thế trước mặt đám đông, trừ khi mặc để cho một mình Audrey nhìn thì tôi chấp nhận.

Xong khâu chuẩn bị của tôi thì Dead Lord cũng đã triệu hồi ra đàn em của hắn tự bao giờ. Số lượng năm chục, không nhiều cũng không ít. Tôi dùng năng lực thánh quang của bản thân để ban phước cho những con Skeleton, và chúng được trang bị cho những bộ chiến giáp Paladin sáng loáng và kín mít từ đầu đến chân. Tôi lại lôi cái xe kéo kết đầy hoa ban nãy ra, và Dead Lord triệu hồi sinh vật kéo xe khác giúp tôi. Lần này không phải con tử linh mã của riêng hắn nữa vì hắn sẽ cưỡi nó đi đầu, còn thú kéo xe cho tôi là một đôi ưng sư Skeleton có vóc dáng một chín một mười với con tử linh mã. Cũng tương tự với lũ Skeleton kia, tôi cũng chúc phúc cho cặp ưng sư một bộ giáp Paladin, nhưng với giao diện hầm hố giống như một con thú bằng sắt thép từ đầu đến chân hơn.

Khi mọi thứ đã sẵn sàng, tôi yên vị trên xe và cả đoàn hộ tống bắt đầu bộ hành ra đường cái, thẳng tiến về phía thành phố thánh Masaat – Shedu với người dẫn đầu là Dead Lord đang cưỡi trên lưng tử linh mã bọc giáp toàn thân với dáng vẻ oai phong bệ vệ. Tuy đoạn đường đến cổng thành không xa, nhưng đoàn binh sĩ của tôi càng tiến về trước thì càng gây sự chú ý cho những người đi cùng đường. Họ bắt đầu tự động dạt ra hai bên để nhường cho đoàn hộ tống của tôi tới cổng thành trước. Không chỉ vậy, đã có người quỳ xuống ngay bên ven đường để bắt đầu lạy lục và xướng lên những lời thán tụng của những con chiên ngoan đạo. Có vẻ như những khách bộ hành trên đoạn đường này toàn bộ là người sùng đạo, nên họ dễ dàng nhận ra vẻ ngoài của đoàn hộ tống của tôi có ý nghĩa gì nên mới quỳ xuống bái lạy chiêm ngưỡng.

Với hành động của những người bộ hành ở dọc đường cái, đã gây được sự chú ý đến những người thủ vệ trên thành cao. Khi đoàn hiệp sĩ hộ tống của tôi đến trước cổng thành, dù cổng thành vẫn rộng mở nhưng tất cả đã đồng loạt dừng lại đứng theo hai hàng một cách tề chỉnh không phát ra chút tạp âm nào, thể hiện rõ sự uy nghi lề lối của những hiệp sĩ được huấn luyện cao cấp. Dead Lord vẫn ngồi trên lưng ngựa và không phát ra một lời nào, hắn chỉ hơi nghiêng đầu dò xét động tĩnh phía sau tường thành kia mà thôi. Tôi không biết lúc còn tại thế Dead Lord có thực sự là một quân nhân thuộc hàng chỉ huy hay không, nhưng theo cách hắn hành động hiện tại thì là ứng sử lịch sự tối thiểu kiểu quân nhân từ phương xa đến một tòa thành xa lạ. Dù không có lệnh của tôi, nhưng hắn đã dừng lại trước cổng thành cách năm mươi mét. Khoản cách này tạo được cảm giác an toàn đối với người trong thành, nói lên được sự thiện chí, và việc hắn vẫn ngồi trên ngựa có ý nghĩa đang đợi người bên trong ra đón tiếp, còn nếu hắn xuống ngựa thì có nghĩa đang cầu sự trợ giúp từ bên trong.

Sau một hồi xì xào rùm beng trên cổng thành, cuối cùng cũng đã có một đoàn hiệp sĩ từ bên trong cưỡi ngựa hộ tống vài người ăn bận giống linh mục ra để hỏi chuyện. Nhưng theo quy tắc thì người bắt chuyện và trả lời là trưởng đoàn hiệp sĩ hộ tống chứ không phải là tôi, nên trong trường hợp này Dead Lord sẽ đảm nhận việc giao tiếp với họ.

“Đoàn người phía trước cho hỏi thuộc giáo đoàn nào? Giáo phái nào? Và từ đâu đến đây? Chúng tôi không hề thấy cờ hiệu của các người, cũng như huy hiệu trên những bộ giáp kia rất xa lạ với chúng tôi.” Người vừa cất tiếng hỏi là một hiệp sĩ có chất giọng mạnh mẽ như tiếng trống trận, ở một nơi ngoài trời thế này mà giọng ông ta cứ oang oang rõ ràng. Nhưng ông ta cũng chỉ là người phát ngôn thay thế thôi, người ra câu hỏi thật sự là một vị linh mục có vải băng choàng đỏ trên cổ kéo dài tới gối và mũ cũng đỏ nốt, có thể ông ta là một vị hồng y hoặc người sẽ lên được vị trí hồng y trong tương lai.

“Đây là đoàn hộ vệ của Thánh Nữ Lena, và người ngồi trên cỗ xe kia chính là cô ấy.” Dead Lord trả lời, chất giọng cũng uy nghiêm không kém đối phương. “Thần Điện Nirvana đã gửi đi thông điệp rằng Thánh Nữ sẽ có chuyến công du lên phương Bắc. Chẳng biết điện thờ ở đây có nhận được thông tin đó không?” Vì là kẻ sống ẩn dưới cái bóng của tôi, nên hầu như mọi sự kiện diễn ra quanh tôi thì Dead Lord đều nắm bắt được hết mà trả lời rất rành rọt. Có điều hắn rất biết tận dụng lỗ hỏng mà cha nuôi của Teresa để lộ trong lời nói để biến thành lợi thế hiện tại. Cha nuôi của Teresa từng nói sẽ có Thánh Nữ công du lên phương Bắc chứ không nói rõ tên Thánh Nữ là tôi hay Teresa.

“Giáo đoàn của Thánh Nữ sao?” Người lên tiếng lần này là ông linh mục kia, giọng ông ta có vẻ bất ngờ và hơi xúc động. Ông ta đột ngột quát lên về phía người của mình. “Tất cả mau xuống ngựa, quỳ xuống hành lễ.” Mọi người ở đó đồng loạt nhanh chóng xuống ngựa và quỳ xuống như lời ông ta nói, không những vậy mà ở phía tường thành những sĩ binh cũng đồng loạt quỳ xuống một chân, tay còn lại cố giữ lấy cờ hiệu. Ông ta lại lên tiếng. “Điện thờ chính của thánh đô Masaat – Shedu đã nhận được tin từ Thần Điện cách đây gần ba tuần rồi, giờ mới có được vinh dự đón tiếp giáo đoàn của Thánh Nữ. Xin lỗi vì sự chào đón thiếu lễ nghi này, chúng tôi sẽ cố hết sức để đón tiếp mọi người thật long trọng. Xin mời Thánh Nữ và các hiệp sĩ hộ vệ vào trong thành.” Ông ta lại quay sang hô lớn về phía tường thành. “Hãy thông báo đến toàn thành rằng, Thánh Nữ từ Thần Điện đã đến.”

          Dù đã nhận được lời mời, nhưng Dead Lord vẫn quay về phía tôi để xin chỉ thị vì hắn biết người có quyền quyết định ở đây là tôi chứ không phải hắn. Đây là sự tinh tế của một kẻ bề tôi, và tôi cũng gật đầu chấp thuận dù thâm tâm lúc này tôi nghĩ không ngờ dễ dàng qua cửa Thánh Đô như vậy, chẳng cần phải xác nhận thân phận một cách rườm rà gì cả. Hoặc cũng có khả năng những linh mục ở đây đều có thể cảm nhận được thánh lực toát ra từ những bộ giáp mà tôi đã chúc phúc, nên không cần thiết xác nhận chi nữa. Chắc trong mắt những linh mục này, chỉ cần mang thánh lực trong mình thì họ sẽ mặc định là người của giáo hội mà không cần hỏi thêm. Nếu muốn hỏi gì thêm thì có lẽ sẽ hỏi trong nội bộ chứ không chất vấn ở chốn đông người. Tôi đánh giá cao sự tế nhị này.

          Khi đoàn người của tôi bước qua cổng thành, thì tôi đã cảm nhận được nhiều luồng năng lượng bao trùm lấy mình. Loại năng lượng này rất thuần khiết, không có nhiều tạp chất như những dòng năng lượng bị ô uế ở bên ngoài tự nhiên. Không những vậy, năng lượng ở bên trong tòa thành này còn có tác dụng thanh tẩy đi những tạp chất, đặc biệt là những vật có liên quan đến năng lượng hắc ám. Đây cũng là điều mà tôi lo lắng cho toàn bộ đoàn hộ tống của mình. Nhưng khi nhìn lại những hiệp sĩ Skeleton ẩn mình trong bộ giáp thánh Paladin, tôi không thấy chúng bị chút ảnh hưởng hay bị suy yếu nào, vì bộ thánh giáp đang hấp thụ những luồng năng lượng có ý thăm dò và còn tỏa ngược ra độ thuần khiết hơn gấp trăm lần so với những sợi năng lượng dò thám kia. Nói cách khác, đoàn hộ vệ của tôi đi tới đâu thì năng lượng thánh lại rò rỉ ra tới đó, những sợi năng lượng bị rò rỉ cô đặc đến mức gần như mắt thường cũng có thể nhìn thấy được. Có lẽ lúc này trong mắt mọi người, đoàn người của tôi đang toát ra một cổ thánh khí thuần khiết mà chẳng thể kiếm đâu ra được nguồn năng lượng thứ hai tương tự giống vậy.

          Coi như tôi đã yên tâm phần đoàn quân của Dead Lord sẽ không bị lộ là Undead tại nơi này. Mà tôi cũng rất cảm thán với một tòa thành to lớn mà chỉ được vận hành bởi tôn giáo chứ không phải bởi một thế lực quý tộc nào. Tôi có thể thấy những ánh mắt sùng đạo ở bất cứ nơi đâu, vả cả cử chỉ lẫn thần thái của họ cũng đã nói lên điều đó. Những tín đồ của các dòng phái khác nhau đều khoác lên mình những tấm trường bào và áo khoác có màu khác nhau, nhưng đức tin của họ lại giống nhau. Đó là bầu không khí trang nghiêm và lòng thành kính mà những người đó đã cho tôi thấy chỉ nơi này mới có được.

          Đoàn hộ tống của tôi được hướng dẫn đi vòng qua nhiều đoạn đường lớn, giống như một nghi thức chào đón của các tín đồ, và họ tung những cánh hoa khắp nơi ở những cung đường tôi đi qua. Họ vui mừng reo hò chào đón tôi như thể chủ nhân của tòa thành đã chiến thắng khải hoàng trở về sau một cuộc viễn chinh vậy. Tôi cũng hơi ngại vì đã lâu lắm rồi không có cảm giác được chào đón và ca tụng như thế này. Lần cuối tôi được nhiệt liệt chào đón như này là ở vương đô Aden thì phải. Khi đó tôi và Jerene đã dẹp yên những tên xác sống ở vùng ngoại ô và trở về, nhưng lúc đó tôi đã mệt rả rời chẳng còn tinh thần đâu nữa mà để cảm nhận sự chào đón nồng nhiệt như lúc này.

          Sau hơn nửa giờ đi diễu hành qua các con đường lớn trong nội thành và vẫy tay cười chào đáp lại sự nhiệt tình với các tín đồ, cuối cùng đoàn người của tôi cũng đã được hướng dẫn đến điện thờ chính của thành phố. Khi đến đây, suy nghĩ đầu tiên lóe lên trong đầu tôi lúc này là mình sắp được tắm nước nóng rồi. Di chuyển cả chặn đường dài để đến đây nên người ngợm dính không ít bụi cát khiến tôi khá khó chịu, giờ thì sắp được giải thoát khỏi sự khó chịu ấy rồi.

“Thưa Thánh Nữ.” Ông linh mục chào đón tôi ở ngoài thành ban nãy lên tiếng. “Giờ cũng chưa quá trễ giờ dùng bữa trưa, nếu Người có yêu cầu thì tôi sẽ cho người nhanh chóng đi thông báo xuống nhà bếp làm vài món ăn mang lên cho Người ngay.”

“Ý kiến không tồi, ngài linh mục...” Tôi ậm ờ giây lát vì chưa biết tên ông ta.

“Yeoman Malculinus, thưa Thánh Nữ.” Ông ta nhanh chóng giới thiệu bản thân. “Người có thể tự do gọi tôi bằng cách nào cũng được.”

“Được, hãy làm như lời ông nói, linh mục Yeoman.” Nói xong tôi lại ngó quanh khu điện thờ vừa mới đến mà hỏi tiếp. “Vậy, ta và đoàn người của mình có thể tạm nghỉ ngơi ở đâu ngay tại điện thờ này? Ta cũng muốn tắm gội một chút sau một quãng đường dài.”

“Ồ, là tôi thiếu tinh tế. Người muốn tắm gội sao, vậy tôi sẽ gọi vài nữ tu đến phục vụ Người tắm hồ.” Ông ta lại vội vàng định rời đi.

“Khoan đã, chí ít ông cũng phải hướng dẫn ta đến nơi mình sẽ tạm nghỉ chân chứ.” Tôi vội gọi ông ta lại và nói thêm. “Hơn nữa, ta cũng không cần người phục vụ đâu. Không phải ta chê bai người khác, nhưng ta có thói quen tự lo cho mình.”

“À, tôi hiểu rồi. Dù sao Thánh Nữ cũng chỉ mới tầm đôi mươi nên ngại lộ thân thể trước người khác cũng là chuyện bình thường.” Ông ấy nở nụ cười thánh thiện tươi rói, tỏ ra đã thông hiểu mọi chuyện theo cách ông ấy nghĩ. “Vẻ e ngại thẹn thùng của Người quả thật rất thuần khiết, sự thuần khiết này đúng là chỉ có thể xuất phát từ Thánh Nữ đến từ Thần Điện mà thôi. Vậy tôi sẽ tôn trọng sự lựa chọn của Thánh Nữ, nhưng chúng tôi vẫn mong Người đừng từ chối một vài tu nữ tới lui để phục vụ việc sinh hoạt cơ bản cho Người.” Ông ấy lại khom người dang tay hướng dẫn. “Còn giờ xin hãy theo tôi. Tôi sẽ hướng dẫn Người đến biệt viện trong điện thờ. Ở đó Người có thể tự do sắp xếp vị trí canh gác của các hiệp sĩ hộ tống cạnh Người.”

“Phiền ông đi trước dẫn đường rồi.” Giờ ông linh mục này nói gì tôi cũng đành ậm ừ theo ý của ông ta luôn, vì trí tưởng tượng của ông ta quá phong phú. Dù ông ta vừa nói tôi thẹn thùng nhưng tôi đã lộ biểu cảm đó bao giờ đâu mà ông ta nhìn ra được. Lúc đó tôi chỉ hơi bối rối một tí vì ông ta bảo sẽ cho người tắm rửa giúp tôi thôi chứ tôi chả e thẹn gì cả. Mà sao cũng được, sau khi tắm rửa và lắp đầy cái bụng thì tôi sẽ bắt tay vào việc chính. Tôi đã không ăn gì từ bữa trưa hôm qua tới giờ rồi.

          Một lúc sau, ông linh mục Yeoman cũng đã hướng dẫn tôi đến biệt viện của điện thờ và nơi đây có phong cảnh rất đẹp. Để diễn tả thì quang cảnh nơi đây với bầu không khí giống như là vườn nai quốc gia vậy, nhưng chẳng có con nai nào ở đây cả, bù lại có rất nhiều loại chim và mấy con sóc. Những con vật ở đây dường như cũng rất dạn dĩ, không sợ người lạ. Nếu nơi ở riêng tư của tôi có mảnh sân giống chỗ này thì vô cùng mãn nguyện.

“Chốc nữa sẽ có ít nhất hai nữ tu sĩ đến đây để phục vụ việc sinh hoạt cho Thánh Nữ, nếu có dặn dò hay cần truyền đạt ý muốn gì thì Người cứ việc sai bảo họ.” Ông linh mục lại hơi khom người cười nói toe toét với vẻ khách sáo.

“Mà ông Yeoman này. Vì sao tôi thấy nơi này ít linh mục quá vậy?” Tôi lại bắt đầu dò hỏi vì thấy nơi này rất rộng lớn, nhưng linh mục hoạt động ở đây thì quá ít. Tôi bắt đầu hỏi tới. “Dù có là điện thờ chánh thì cũng phải có vài bóng dáng của mấy học sĩ đi qua đi lại ở đại sảnh lúc vào chứ, nhưng sao tôi chẳng thấy ai vậy? Hay những tu sĩ ở đây không đến điện thờ chính để hoạt động mà chỉ hoạt động trong địa phận điện thờ thuộc dòng phái riêng của họ thôi à?”

“Xin lỗi Thánh Nữ vì sự đón tiếp hời hợt như này, nhưng không phải là không ai đến đây đâu ạ.” Ông linh mục lấy khăn thấm mồ hôi vừa nói. “Gần đây, các đại linh mục, giáo sĩ, tư tế thuộc các dòng phái riêng của các điện thờ thường luân phiên xuất thành để giải quyết vấn nạng sương độc ở phía Tây ạ.”

“Nạn sương độc?” Tôi tỏ ra ngạc nhiên cũng có linh cảm vụ sương độc này dường như sẽ có liên quan đến mình.

“Dạ phải, nạn sương độc này đột nhiên xuất hiện cách đây độ chừng một hai năm đỗ lại. Nghe nói là có một cái hố Abyssal đã đột nhiên xuất hiện, nhưng vì không phát hiện kịp để xử lý nên nó đã to ra và làm ô nhiễm gần như toàn bộ vương quốc Bravo ở phía Tây lục địa.” Ông ta vừa nói, vẻ mặt cũng có chút mất mát buồn tủi. “Giờ đám sương độc ấy đang có dấu hiệu mất kiểm soát muốn lan tràn nhiều hơn, và dần muốn lấn sang lục địa phía Đông. Nếu người của thánh đô không cử các mục sư, giáo sĩ đi giải quyết sự việc thì có lẽ giờ tòa thành này đã không còn tồn tại.”

“Vậy trong khoản thời gian cái cổng Abyssal tồn tại, đã có quái thú nào đi ra từ đó chưa? Còn những người chặn sương độc có bị thiệt hại hay mắc bệnh gì không?” Khi nghe đến cổng Abyss thì tôi đã kinh hồn rồi, mà giờ nó đã tồn tại ít nhất là hai năm nữa. Nếu có một con quái khổng lồ nào bước ra từ đó thì tôi chẳng biết mình có khả năng giải quyết nó hay không nữa. Lần trước cùng với Jerene, tôi đã phải đối đầu với một con quái vật bước ra từ Abyss và mém bị lật thuyền rồi. Vì vậy, tôi vẫn còn rất nghi ngờ khả năng của mình liệu có đủ trình độ nếu phải đối đầu với một con vật nào tương tự như vậy nữa không.

“Tạ ơn Thánh Nữ đã quan tâm.” Miệng thì nói cám ơn, nhưng tâm trạng của ông Yeoman đã hiện rõ qua đôi vai đang thòng xuống của ông ta. “Người đi chặn sương độc không ai thiệt hại về nhân mạng, nhưng họ lại gặp trở ngại trong việc lưu chuyển năng lượng trong người. Đây là một loại bệnh chỉ khi tiếp xúc với đám sương độc màu tím kia lâu ngày mới bị phát tát, còn lại không có thêm triệu chứng nào khác cả. Còn về quái thú bước ra từ cánh cổng Abyss thì không có con nào cả. Nhưng vì ảnh hưởng của sương độc nên những con quái thú hoang dã đã trở nên manh động và hung tợn hơn rất nhiều. Kể cả thực vật cũng chết dần chết mòn, hoặc bị biến đổi cấu trúc để có thể sinh tồn.”

“Sự việc lại tệ đến thế à?” Tôi cũng cảm thấy đồng cảm với ông ta. “Vậy nguyên nhân khiến điện thờ chính vắng bóng người sinh hoạt là do cổng Abyssal sao? Quả nhiên, không phải cổng Abyss nào cũng giống cổng Abyss nào.”

“Thánh Nữ nói vậy, là cánh cổng thứ hai đã xuất hiện rồi sao?” Ông linh mục Yeoman thẳng người lo lắng.

“Đã xuất hiện, và cũng đã được đóng lại rồi.” Tôi cố trấn an ông ta. “Cánh cổng lần trước tôi gặp phải, nó cũng từng tỏa ra những làn hơi độc kèm theo một bày xác sống nữa, và hơi độc ấy khắc chế các pháp sư không để họ sử dụng phép thuật nguyên tố. Nhưng thánh thuật chữa lành của các mục sư vẫn sử dụng được.” Tôi lại thở dài vì thấy nét căng thẳng không vơi bớt trên gương mặt ông Yeoman. “Tóm lại thì, sau khi nghe đặc điểm của hai cánh cổng Abyssal, có vẻ như đặc điểm chung của chúng là đều gây ức chế khả năng sử dụng phép thuật và làm cho người tiếp xúc trở nên yếu dần theo thời gian. Chỉ có những ai sử dụng được thánh thuật thì mới có khả năng đối phó với đám sương độc ấy.”

“Thánh Nữ, Người nói như thế có nghĩa là...” Ông ta trở nên xúc động trong giọng nói, vẻ mặt thì hiện rõ sự mong đợi giúp đỡ từ tôi.

Tôi đã phải đấu tranh tâm lý giữa chuyến đi còn đang dang dở, cùng với sự thiếu hụt lương thực trên thuyền đang đợi mình và sự cấp bách của tòa thánh đô đang đối diện với nguy cơ diệt vong này. Cuối cùng tôi hạ quyết tâm nghe theo tiếng con tim mách bảo. “Đã không biết thì thôi, biết rồi thì tôi không thể bỏ mặt mọi người như thế này được. Mọi người sẽ không cần phải hi sinh nhân lực để kiềm hãm sự lan rộng của sương độc nữa đâu. Hãy tập hợp những linh mục và tư tế có thẩm quyền lại đây. Sau khi thu thập đầy đủ thông tin từ họ rồi thì tôi sẽ tự lên kế hoạch giải quyết đám sương độc kia cùng đội hiệp sĩ riêng của mình.”

~*~

          Khi Lena tuyên bố sẽ nhúng tay vào giải quyết vấn nạn sương độc từ cổng Abyss, thì cô không hề biết rằng mình đã bị Teresa lừa đi làm công thế chỗ cô ta. Việc cô nàng Thánh Nữ tóc vàng khuyên cô đi mua thêm lương thực dự trữ là thật, nhưng lượng lương thực dự trữ trên tàu vẫn còn có thể dùng được tận đến một tháng một cách thoải mái. Teresa đã nhờ Rebecca, Alida và ông quản gia Gin phối hợp diễn một vở kịch để làm Lena tưởng rằng lương thực trên thuyền đang trong tình trạng rất thiếu thốn, và cô sẽ tự đề cử bản thân đảm nhận chuyến đi này. Nhưng, Lena đã quên mất một điều rằng, Teresa có thông tin từ những giấc mơ tiên tri nên cô thừa biết tại khu vực sương độc là địa điểm thích hợp nhất để đoàn của Thanatos gặp Lena.

Với lại, việc cô chủ động phá bỏ bào thai của Lena cũng có một nguyên nhân đặc thù khác. Một là vì sương độc cổng Abyss sẽ ảnh hưởng rất tệ đến thai phụ lẫn bào thai trong thời kỳ đầu, khả năng cao sẽ khiến thai nhi bị biến dạng lúc sinh hoặc thai phụ sau khi sinh sẽ bị ăn mòn ma lực suốt cuộc đời còn lại. Điều đó tùy thuộc vào việc thai phụ muốn giữ lượng độc tố ấy cho bản thân hay truyền sang đứa con. Tất nhiên là sẽ chẳng có bà mẹ nào lại muốn con mình mang nặng đẻ đau bị dị dạng lúc sinh cả, việc Lena giữ số độc ấy lại cho mình là câu trả lời hiển nhiên. Và điều thứ hai, đó là vì cô không muốn thấy tương lai của cặp song sinh ở thời không này có một kết quả bi thương giống với cặp song sinh ở một thời không khác. Còn về việc làm sao để đảm bảo lần kế tiếp Lena chắc chắn sẽ mang thai sinh đôi? Đó là vì cô tin tưởng vào gen sinh đôi đã được di truyền từ đời mẹ của Lena cho đến đời của cô ta rồi, nên Teresa tự tin đợt mang thai kế tiếp của cô nàng tóc bạch kim ấy chắc chắn sẽ là song sinh.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận