Mười lăm năm trước, Billy đến Vùng 2 cùng với một nhúm người. Ban đầu, nơi đây còn chẳng có tên là ‘Vùng 2’, chỉ đơn thuần là một miền đất trống trải trong sắc vàng nhợt nhạt. Máy thăm dò địa chất cho thấy mạch nước ngầm ở đây khá sâu và mất nhiều thời gian đào bới. Sẽ tốt hơn cho Billy nếu có máy móc hỗ trợ, nhưng Đại Thủ Phủ từ chối yêu cầu đó của hắn.
“Anh không có quyền đòi hỏi, Billy. Anh là tội phạm của Heaven. Giao cho anh cải tạo Vùng 2 đã là quá nhân nhượng rồi, lại còn muốn đòi hỏi? Không, Billy. Muốn làm thế nào thì làm, máy thăm dò địa chất đã là quá thể rồi!”
Người đại diện Đại Thủ Phủ quát vào mặt Billy như thế. Hắn không dám phản kháng. Luật lệ tầng lớp ở Heaven đã in sâu vào đầu hắn: một giáo chúng phải làm việc và tuân lệnh theo sự sắp xếp của Đấng Chúa Máy Móc. Mọi lời phàn nàn hay cãi lại đều được liệt vào chống đối.
Không còn cách nào, Billy cùng đám người phải làm việc. Dựng Trại, khoan giếng, xây nhà… tất cả đều bằng tay trần và sức người. Được nửa năm, Trại chưa xong mà giếng cũng không có, những con người khai hoang Vùng 2 ngủ giữa màn trời chiếu đất, nước vớt tạm từ con sống cách đây mười cây số.
Ngẫm lại, Billy tự thấy mình ngu. Thà rằng gã chấp nhận án khổ sai đi khai thác đá ở Vùng 1 rồi chờ cơ hội ân xá, có thể năm mười năm khổ cực nhưng chí ít là không cần lo lắng về an toàn. Vùng 2 thì khác. Mỗi ngày, Billy và đám người xung quanh lại tự hỏi Zombie ở đâu trong những cánh rừng cự sam cách đây một cây số? Chúng sẽ tràn ra từ hướng nào? Rồi nhiều người bỏ đi, chủ yếu vì sợ. Xung quanh Billy chẳng còn mấy ai. Hắn không nghĩ mình sẽ sống sót qua một năm.
Bỗng một ngày kia, một người lạ mặt xuất hiện, trung tuổi, gầy gò, có những nét lạ lùng không giống với dân lang bạt. Và càng lạ lùng hơn khi ông ta ẵm trên tay một bé gái có mái tóc vàng cùng đôi mắt xám. Không ai biết người đàn ông đến từ đâu, là ai hay đứa bé mắt xám có quan hệ thế nào với ông ta.
“Anh là Billy? Tôi có thể sống cùng các anh không? Tôi tên là Chop.” – Người đàn ông cất lời.
Vì thiếu nhân lực và thấy Chop không nguy hiểm – dù hơi khó gần – nên Billy đồng ý. Dăm ngày sau, Billy chợt thấy Chop đến chỗ mình và nói:
“Anh không thể tiếp tục. Mọi người ở đây không thể tiếp tục. Hàng rào chưa đủ chắc và quá sơ sài, giếng không có nước. Cứ thế này, các anh sẽ chết sau nửa năm.”
“Hết cách rồi!” – Billy cười gượng – “Tôi đã tới đây để đổi lấy tự do. Ông biết Hang Ổ Dị Giáo có câu gì không? Tự do sống, tự do chết! Nếu đây là số phận mà Đấng Chúa Máy Móc ban tặng thì tôi chấp nhận việc đó.”
“Chết thì tự do toàn diện, nhưng sống mà không có tự do cũng là thiệt thòi.” – Chop nói.
“Ông nói thì hay lắm! Bố già!” – Billy cười khẩy – “Ông có cách gì?”
Chop chìa ra một cuốn sách. Vừa nhìn, Billy đã biết thứ này không tầm thường. Sách đóng bìa da, khâu bằng chỉ tốt, trang sách ố cũ nhưng cứng cáp. “Một vật như thế chỉ có thể đến từ Heaven!” – Billy tự nói trong lòng, cái nhìn của hắn đối với Chop bất giác có thêm phần kinh sợ. Hắn đã nghe chuyện về Heaven, về những Người Babylon sống lơ lửng giữa bầu trời và chỉ thiếu vài cái với tay là chạm đến Đấng Chúa Máy Móc.
“Cơ Khí Giáo – giáo điều căn bản…” – Billy đọc tựa đề cuốn sách – “… ông lấy đâu ra cuốn này? Ông muốn tôi làm gì?”
“Người ở đây uể oải vì họ chẳng có niềm tin. Cho họ niềm tin, họ sẽ giúp anh làm việc.” – Chop nói – “Nhưng nói thì dễ, làm mới khó. Đọc sách đi, có thể nó giúp sẽ giúp anh nhiều điều.”
Billy miễn cưỡng nhận sách, nhận vì chẳng còn lựa chọn nào khác, và vì khi ấy hắn quyết định đánh cược. Hắn đã đánh cược với Heaven khi nhận hình phạt đi khai hoang, giờ đánh cược thêm một lần nữa cũng chẳng thành vấn đề. Đằng nào cũng chết! – Tâm trí Billy đầy tiếng cười nhạo bản thân.
May mắn cho Billy là hắn biết đọc, dù hơi chậm. Nhiều từ ngữ trong giáo điều, hắn không hiểu, phải hỏi lại Chop. Thế rồi hắn thử truyền đạt nó tới những kẻ xung quanh. Ngày đầu tiên, người ta ngáp ngắn ngáp dài và ngủ gật gần hết. Ngày thứ hai rồi ngày thứ ba cũng như vậy. Điều duy nhất giữ chân họ ở lại là vì không có nơi nào để đi, và cũng không có gì để giải trí. Nói cách khác, họ coi Billy như thằng hề thiếu duyên. Billy cũng không từ bỏ, không phải do lý tưởng cao siêu nào dẫn dắt, mà bởi sự đánh cược làm gã hoang tưởng rằng mình sắp thành công.
Ấy thế mà thành công thật. Một tháng sau, những người lắng nghe Billy ‘giảng đạo’ như vớ được liều thuốc tăng lực, tức thì lao động hăng say hơn hẳn. Như được sắp đặt bởi Đấng Chúa Máy Móc, dạo ấy Vùng 2 hạn hán nặng, dân lang bạt di cư liên tục, thế nào lại thường đi qua chỗ của Billy. Người ta dừng chân rồi nghe hắn bốc phét ba lăng nhăng đủ thứ về Đấng Chúa Máy Móc, Chân Thánh Tông Đồ, những điều răn mà loài người bỏ quên, sức mạnh khoa học của Đấng Chúa… đủ thứ. Kẻ không tin thì cười rồi bỏ đi. Nhưng kẻ tin tưởng cũng đông chẳng kém; họ ở lại và cùng Billy dựng Trại, đào giếng, kiếm đủ thứ đồng nát về để tạo hàng rào chống Zombie.
Bốn tháng sau, trước khi mùa đông tràn đến Vùng 2, Billy và mọi người đã dựng xong Trại. Tháng thứ năm, họ khoan được giếng và không còn cảnh ngày ngày xách nước từ con sông cách đây mười cây số. Ngay khi cái giếng hình thành, Billy được mọi người công kênh lên vai như người hùng. Billy vừa sợ vừa lạ.
Một tối nọ, Billy tìm Chop để trả lại cuốn sách. Hồi ấy, Chop sống trong một căn lều như bao người khác, trên tay luôn ẵm ngửa đứa bé mắt xám. Thấy cuốn sách, Chop lắc đầu:
“Giữ lấy, anh sẽ cần nó.”
“Để làm gì?” – Billy ngạc nhiên – “Chúng ta đã có Trại, có giếng, giờ là lúc đi săn. Tôi cần quyển sách làm gì?”
“Hãy trở thành linh mục.” – Chop nói – “Dân Trại này cần có một linh mục.”
Billy há hốc mồm. Gần một năm trước, hắn còn đứng trước vành móng ngựa nghe phán quyết, còn giờ Chop bảo hắn làm linh mục, nghe như một chuyện hài hước được đẩy kịch tích quá đà.
“Ta sẽ viết một bức thư và kể chuyện đã xảy ra ở đây.” – Chop nói – “Anh sẽ được tham khóa đào tạo trở thành linh mục. Trại sẽ được cung cấp vệ binh và lương thực. Bản thân anh sẽ có lương hàng tháng cùng một chút vật phẩm bồi dưỡng.”
“Ông có thể?” – Billy nói, không tin vào tai mình.
“Ta có thể.” – Chop nói – “Và vì anh có tài. Biệt tài của riêng anh.”
“Tôi? Có tài?” – Billy trố mắt.
“Phải, nhưng anh chưa nhận ra.” – Chop nói.
Billy nuốt ực, cảm giác mơ hồ. Rồi hắn tiếp lời:
“Vậy… ông cần gì?”
“Anh thông minh đấy.” – Chop nhếch mép – “Sữa, tã trẻ con, ít quần áo ấm cho đứa bé. Nhiêu đó thôi.”
Đêm ấy, dưới ánh nến tù mù, Chop viết một bức thư ngắn. Billy chưa từng thấy ai viết chữ nhanh gọn mà đẹp đẽ như thế. Vài ngày sau, khi sắp xếp công việc xong xuôi, hắn mang thư quay lại Vùng 1. Hắn không được vào Đại Thủ Phủ nhưng vẫn có thể vào một số Trại. Billy nhớ như in nét mặt của vị linh mục Trại Golden Gate biến chuyển thế nào: đầu tiên là khinh miệt, rồi đờ ra khi thấy bức thư, cuối cùng nở một nụ cười thật tươi với Billy. Hắn được nhận đào tạo làm linh mục.
Một tháng sau, Billy trở về, mang theo xe tải chở đầy khoai tây, bánh mì, nước sạch và hai vệ binh. Dân Trại đón mừng hắn như chào đón người hùng trở về. Giờ đây, những con người xây dựng nên Trại được công nhận như là một phần của Đại Thủ Phủ.
“Trại Eden! Đây là sẽ vùng đất hứa của Vùng 2!” – Billy giơ nắm đấm trước dân chúng. Mọi người vỗ tay theo hắn, và rồi từng người bước lên, cúi đầu trước Billy:
“Cảm ơn Cha Luther!”
“Người là ánh sáng cho Eden, Cha Luther!”
“Tôi biết ơn Cha, thưa Cha Luther!”
Đặc biệt là gia đình ba thế hệ nhà Ed, họ bắt tay Billy và nói không ngớt:
“Cha Luther! Cha là anh hùng! Cha là vị thần của Eden này!
Ngày đó, Billy không còn là Billy. Đấng Chúa Máy Móc đã sắp xếp cho hắn một cái tên khác, một thân phận khác, một con đường khác: Cha Luther ra đời.
Sau đấy ít lâu, Cha Luther phải đeo kính vì cận thị. Chop mở được xưởng sữa chữa máy móc, còn con bé ngày nào ẵm ngửa trong tay Chop lớn lên và làm thợ săn. Bố con nhà Ed bị Zombie vồ chết trên đường, xưởng gỗ thuộc về đứa cháu. Nhà Thờ được dựng lên, sừng sững giữa khu Trại. Cha Luther cũng ngày một đổi khác. Ông ngày một khó tính, nghiêm khắc và không thỏa hiệp - không phải là Cha Luther hồi mới mang tên, càng không phải là Billy ngày trước.
Tuổi thọ con người ở Kỷ Nguyên Mới chẳng dài. Những người cũ chết vì bệnh tật hoặc vì Zombie, người mới lại đến, Trại Eden ngày một đông nhân khẩu. Số người biết chuyện về Ed chẳng còn ai, trừ Chop. Câu chuyện về Trại Eden thuở ban đầu mờ đi, giờ chỉ còn là mấy câu truyền miệng không đầu không cuối, vả chăng cũng chẳng ai quan tâm. Nhưng riêng với Cha Luther, ngày tháng ấy còn nguyên vẹn, không thừa không thiếu một chi tiết, cứ như là mới xảy ra hôm qua.
“Đến Trại chưa?”
Cha Luther tỉnh giấc khỏi ký ức, như là vừa ngâm mình trong bồn tắm thì dựng dậy. Bên cạnh vị linh mục, Chop chống gậy vừa đi vừa thở. Cha Luther đáp lời:
“Một chút nữa thôi, bố già. Chúng ta về nhà rồi!”
Chop gật đầu. Ông già chống tay lên gối thở hồng hộc. Cha Luther hỏi:
“Tôi đỡ ông nhé?”
Chop lắc đầu, xua tay đoạn chống gậy đi tiếp. Lúc này Chop và Cha Luther dính bùn đất khắp người, quần áo rách rưới. Nom họ như hai cái bị rách di động trên một quả đồi cằn cỗi hướng về Trại Eden. Tuyết đã phủ lên những trảng cỏ nhọn hoắt và cây khô, cảnh tượng tiêu điều cằn cỗi khó tả. Cũng hệt như Trại Eden đang oằn mình dưới mùa đông và cơn đói.
“Lẽ ra ông không cần phải trả từng thủ cấp về các Trại.” - Cha Luther nói - “Những thợ săn biết họ sẽ chết, họ đã chấp nhận số mệnh của mình.”
“Anh nói y như một linh mục!” - Chop cười.
Nhưng tuyệt nhiên Chop không giải thích tại sao mình phải tốn công như thế. Cha Luther cũng chẳng hỏi thêm. Chop xưa nay vẫn thế: đầy bí mật và khó hiểu.
Chuyến đi vào rừng cự sam do Cha Luther khởi xướng kết thúc theo cách không thể tồi tệ hơn. Tất cả những thợ săn giỏi nhất của cả năm Trại đều đã chết: Eden, Hotspring, Biggy, Zombitchy và Puto. Chop chặt đầu từng người và gửi trả về từng Trại trước lúc quay về Eden.
Dù vậy, cái chết các các thợ săn không vô nghĩa. Nhờ họ, Chop và Cha Luther biết được rằng rừng cự sam đã đầy rẫy Zombie. Vì chúng mà các loài động vật bỏ đi hết, cũng bởi sự bẩn thỉu hôi thối của chúng mà thực vật chẳng thể sinh trưởng. Sản vật trong rừng cứ thế mà bị hao hụt, bị đầu độc, cuối cùng biến mất.
“Giống như ném một sinh vật ngoại lai vào hệ thống môi trường bản địa vậy.” - Chop nói - “Bọn ngoại lai sẽ đánh chén sinh vật bản địa, phá hủy môi trường sống. Chúng sẽ phát triển đến mức không thể tưởng tượng nổi.”
“Ý ông… lũ Zom chính là bọn ngoại lai kiểu đó?” - Cha Luther hỏi.
Chop gật đầu. Cha Luther tiếp tục:
“Nhưng Zom xuất hiện trong rừng đâu phải cái gì mới lạ? Như bọn Hủy Thú chẳng hạn, chúng vẫn lang thang trong rừng đấy thôi?”
“Không, cái này khác.” - Chop nói - “Tôi vừa nói với anh về sinh vật ngoại lai. Chúng phá hủy môi trường sống không phải vì chúng hung dữ, mà vì chúng tiêu thụ và phát triển.”
Cha Luther rùng mình:
“Ý ông là bọn Zom đang sinh sản?”
Chop gật gù thay cho câu trả lời. Vị linh mục thì thào:
“Không thể thế! Không thể như thế! Zom chỉ bất tử chứ không sinh sản! Cơ Khí Giáo đã nói thế!”
“Trông anh giống linh mục lắm đấy!” - Chop cười - “Nghĩ lại xem, chúng ta đã gặp cái gì?”
Cha Luther rùng mình. Ông đã tìm những ký ức huy hoàng thuở trước chỉ để quên đi chuyện cách đây vài ngày. Vị linh mục không thể quên hình dạng của con quái vật kinh tởm với hình dạng đứa bé khổng lồ, tay chân đầy bọc mủ thối rữa và nôn ra hàng đống Zom từ cái bụng của nó. Không gì tởm lợm hơn thế. Nếu không nhờ Chop che chở và ánh mặt trời ngày mới, có lẽ ông ta đã thành bữa sáng cho lũ quái vật.
“Tôi không muốn nghĩ nữa đâu, bố già.” - Cha Luther nói.
“Anh sẽ nghĩ và anh phải nghĩ, nếu không chúng ta sẽ chết.” - Chop nói.
Đi thêm một quãng, hai người quay về Trại Eden. Ở cổng Trại, hai gã vệ binh nhìn thấy họ thì chạy ra đón. Cha Luther hỏi:
“Trại thế nào?”
“Đang bỏ đi nhiều lắm, bọn tôi không ngăn được.” - Một vệ binh nói - “Một nửa dân Trại đi rồi.”
Cha Luther thở dài. Khi ông bước vào Trại. Người dân nhào ra đón chờ, ngỡ như ông có thể mang về cho họ khoai tây và bánh mì, rốt cục lại chẳng có gì. Họ trở vào, hoặc thất vọng, hoặc làu bàu chửi bới. Người ta không chào đón Cha Luther. Mười lăm năm trước, cũng mùa đông, ông như một người hùng giữa những tiếng reo hò. Mười lăm năm sau chỉ có tiếng quạ than thở vì đói ăn văng vẳng trên những mái nhà xiêu vẹo.
Bi đát cho Cha Luther.
Có lúc, ông muốn mình trở lại làm Billy. Và Billy biết rằng cái Trại này đã hết vẹo, nên đi sớm trước khi cái đói và lũ Zom tràn vào tàn phá tất cả.
“Ta sẽ đến Golden Gate.” - Chop nói - “Ta có thể lấy một ít lương thực.”
“Ông nên nghỉ ngơi, bố già.” - Cha Luther lắc đầu - “Từ đây đến Golden Gate không gần đâu!”
“Không cần, gọi cho ta một đứa thợ săn đi cùng là được.” - Chop nói - “Anh hãy ở lại đây và quản lý Trại.”
Vị linh mục cười chua chát:
“Quản lý? Tôi quản lý cái gì nữa đây, bố già? Nửa Trại đi hết, nửa Trại còn lại muốn xé thịt tôi ra!”
“Làm cái mà anh giỏi nhất ấy, Billy.” - Chop cười - “Làm cái mà anh giỏi nhất.”
Cha Luther ngẩn người. Đã từ lâu lắm, chẳng ai gọi ông là Billy nữa.
Chiều hôm ấy, một chiếc xe đồng nát chở Chop đi về phía đông rồi hướng về Trại Golden Gate. Cùng lúc, dân chúng Trại Eden tụ tập ở Nhà Thờ; họ đến vì chẳng còn gì để làm, và vì hai gã vệ binh thúc ép họ bằng súng đạn. Tại Sảnh Đường, Cha Luther cởi bỏ kính, tươi cười như cách đây mười lăm năm ông đã từng:
“Chào các con chiên của Đấng Chúa. Chúng ta lại gặp nhau. Nếu các con chưa biết thì ta đã từng có một cái tên khác, là Billy…”
0 Bình luận