“Không dùng súng, nhắc lại, không dùng súng. Tiết kiệm đạn. Dùng vũ khí cận chiến.”
Tất cả thành viên trong đội Samiel đều nghe rõ lời gã tông đồ qua bộ đàm. Không ai phản đối. Tình thế quá gấp gáp để họ có thể phản đối.
Thế rồi đội Samiel tràn ra. Từ chỗ nấp, Walk thấy Anton lao ra trước tiên, mồm gào lên “Giết chết mẹ chúng nó!”. Thế rồi những tên vệ binh kỳ cựu khác lao ra, tay cầm gậy sắt, dao găm, mã tấu… đâm bổ vào bọn băng đảng mà chém giết. Không cần biết là ai, đội Samiel cứ chém bừa vào bất cứ thứ gì đang chuyển động, trừ những thứ đeo miếng phản quang trên vai. Trước lúc đi, Samiel phân phát miếng phản quang cho mỗi người, bảo rằng sẽ có việc dùng tới. Giờ thì nó đang phát huy tác dụng.
Tiếng la hét, tiếng chém giết làm Walk run rẩy. Run vì sợ, và cả vì hưng phấn. Walk có thể cảm thấy máu sôi lục bục dưới da thịt, nở những bong bóng và nổ bọt tanh tách. Dường như việc chửi Pitt giúp Walk xả hết bí bách, bực bội, khiến nó ‘đàn ông’ hơn. Và cơn gió hoang mạc đầy mùi máu tươi như kích thích cái phần vốn tồn tại nhưng ngủ quên quá lâu bên trong Walk.
Thế rồi, như không thể kìm được nữa, Walk rời khỏi chỗ nấp với cây gậy sắt buộc vào cổ tay bằng vải để khỏi tuột. Nó chạy ra, nhè vào một cái bóng đang bước xuống xe tải mà đập. Gậy vụt trúng đỉnh đầu, mạnh đến mức nghe rõ tiếng nứt sọ. Gậy rung bần bật, tay Walk tê rần, gan bàn tay như sưng lên. Nhưng Walk không chùn, mà ngược lại hăng tiết hơn. Nó bổ thêm một gậy, rồi một gậy, lại một gậy nữa vào cái bóng xấu số.
Walk dừng tay, nhận ra mình vừa giết người. Lạ thay, nó chẳng có mấy cảm giác. Gió buốt Miền Tự Do đã nuốt chửng nỗi kinh hãi giết hại đồng loại của Walk.
Ai đó đã nói, con người ở Miền Tự Do được tự do sống, tự do chết và tự do giết.
Bấy giờ, đội Samiel nhận ra lũ băng đảng áp xe tải đều mang súng Ak-47 – một thứ chỉ có trong đội ngũ vệ binh Cơ Khí Giáo. Walk cũng thấy. Ai nấy kinh ngạc. Nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi, tất cả đều nhận ra Samiel đã đúng. Trong đêm tối mịt mùng và bị phục kích bất ngờ, khẩu súng trường nặng nề đó hóa lại bất lợi. Lũ đánh thuê không kịp phản ứng, không thấy mục tiêu mà bắn, thậm chí bắn cũng chẳng xong vì quên mở chốt an toàn. Và trong lúc bối rối, chúng trở thành lũ cừu cho bọn Samiel giết thịt.
Walk vòng ra bên kia xe tải, thấy một cái bóng mờ nhạt, thấp bé. Một thằng lính đánh thuê chỉ ngang tuổi nó hoặc có thể ít hơn. Thằng đó định quay nòng súng nhưng không kịp với tốc độ vụt gậy của Walk. Tiếng nứt sọ lại vang lên. Lần này Walk ra tay gọn ghẽ, không rườm rà như trước. Hay nói cách khác, nó giết người quen tay hơn.
Âm thanh từ bọn băng đảng yếu dần, trong khi từ bọn Samiel ngày càng lớn. Nhưng những thằng đánh thuê hung dữ nhất bắt đầu lộ diện. Chúng không nhảy xuống xe mà chui vào cabin hoặc đứng trên thùng, xả súng loạn xị ngậu bất kể ta hay địch. Walk vội vã nằm xuống rồi ôm đầu trong khi đạn bắn sát sạt trên tóc. Bấy giờ Walk mới có dịp nhìn rõ những xác chết trên mặt đất. Tất cả đều trẻ măng, trạc tuổi nó. Cũng giống quân viễn chinh Sinnai, những đứa trẻ con của Miền Tự Do phải cầm vũ khí từ sớm rồi giết chóc kiếm miếng ăn. Một ý nghĩ vọt qua đầu Walk nhanh như thế. Chúng hoàn toàn thua thiệt so với đám Samiel vốn toàn những vệ binh dày dạn kinh nghiệm và khát máu hơn hẳn.
“Mẹ kiếp chúng mày! Chết đi!” – Thằng lính đánh thuê nào đó gào lên, vừa bắn vừa xả súng – “Tao là Hook! Thằng nào ngon lên đây! Ngon thì lên đây!”
Hook bắn như điên, bắn cả vào những thằng đồng đội của nó dưới đất. Bọn Samiel vội tản ra, nấp sau những chướng ngại vật và để yên cho Hook bắn. Thế rồi súng ngừng bắn, Hook vội vã thay băng đạn. Walk bỗng thấy Pitt từ đâu lù lù xuất hiện, áp sát chiếc xe tải rồi mở cửa cabin nơi Hook trốn, cười gằn:
“Bố đến đây, con trai. Để bố dạy dỗ con nhé!”
Pitt tóm cổ Hook lôi xuống, đấm đá thằng này bằng cái tay to khỏe của gã. Có lý do cả. Bởi Pitt chưa nuốt trôi mấy câu chửi thẳng mặt của Walk, không biết cách nào để phát tiết, nay lại gặp đúng bao cát người. Hook xụi lơ sau cú đấm đầu tiên, mất giọng sau cú đấm thứ hai và gục hẳn sau khi hứng trọn cú đấm thứ ba vào lồng ngực. Chuyện sau đó chỉ Walk thấy: Pitt đấm thằng Hook đến độ mồm nó lòi hết lưỡi ra ngoài, nôn ra cả cuống. Như chưa hả giận, Pitt rút thanh mã tấu sau hông, chặt một đường bén ngọt. Lát sau, gã giơ đầu của Hook lên cao, cười sằng sặc:
“Thằng nào thích được dạy dỗ nữa?”
Đạn Ak-47 bắn về phía Pitt như điên. Gã mặt sẹo vội lăn đi tránh né nhưng vẫn không quên mang theo cái đầu của Hook như chiến lợi phẩm. Walk ôm đầu, vừa cầu cho đạn không bắn vào mình vừa lăn lê bò toài vào chỗ nấp. Một thằng đánh thuê nào đó đang xả đạn, bắn rất ghê và thay đạn rất có nghề, khác hẳn lũ đồng đội yếu kém.
Thế rồi thằng đánh thuê nguy hiểm đó rời khỏi xe tải, vừa chạy vừa quàng súng qua đầu mà bắn ra đằng sau. Trời tối nhưng Walk thấy rõ nó bắn thế nào. Walk càng có lý do tin tưởng rằng thằng này là một lính đánh thuê kỳ cựu. Ở Miền Tự Do, băng đảng đánh nhau chủ yếu bằng vũ khí lạnh, súng ống chỉ dành cho thủ lĩnh hoặc những thằng cứng tay nhất. “Đây có lẽ là một thằng như thế!” – Walk nghĩ.
Súng hết đạn, cái bóng đen chạy vụt qua chỗ Walk. Bộ đàm của Walk vang lên giọng Samiel:
“Đừng để nó thoát!”
Như phản ứng vô điều kiện, Walk nhổm dậy đuổi theo. Dù biết mình không thể đánh lại thằng lính đánh thuê đầy kinh nghiệm đó nhưng Walk vẫn đuổi. Với nó, mệnh lệnh của Samiel là mệnh lệnh của Đấng Chúa Máy Móc.
Walk chạy, thanh gậy sắt kéo lệt sệt trên mặt đất những tiếng rát tai. Nó đuổi theo thằng lính đánh thuê vào một ngôi nhà gỗ, dùng hết sức bình sinh nhảy tới rồi vung gậy vụt bừa. Gậy vụt trúng chân làm thằng lính đánh thuê ngã sấp mặt. Walk nhổm dậy, vung gậy đánh tiếp. Thằng lính đánh thuê lăn sang, gậy đập hụt kêu ‘Bình!’ một tiếng trên sàn gỗ. Thay vì chạy tiếp, thằng lính đánh thuê nhào đến đấm một cú trời giáng giữa mặt Walk. Walk hoa mắt, lỗ mũi ộc máu, sau đổ vật xuống sàn. Thằng lính đánh thuê trèo lên người nó rồi bóp cổ. Hai bàn tay như kìm sắt siết chặt cổ Walk như siết miết thịt sống. Walk không thở nổi, hai mắt lồi ra vằn đầy tia máu, miệng ú ớ:
“Địt… mẹ…”
Bàn tay đang siết cổ Walk bỗng dưng nới lỏng, tựa thể tiếng chửi thề của Walk có tác dụng. Thằng lính đánh thuê cất lời, thảng thốt:
“Walk? Sao mày ở đây?”
Walk ho sặc sụa, gạt đôi mắt nhòe nhoét ậng nước. Nó quay sang, nheo mắt nhìn thằng lính đánh thuê. Bóng tối che đi tất cả nhưng không bao giờ che khuất ký ức. Dáng hình kẻ thù có chút gì đó quen thuộc, mái tóc ánh đỏ lại càng quen thuộc. Walk há hốc mồm:
“Bob? Bob phải không? Sao lại là mày?”
Trong bóng đêm vô tận của Trại Shit-hole, Bob và Walk hội ngộ. Chúng nó mới tách nhau hơn hai tháng, mà cảm tưởng đã hơn hai năm.
…
Cơ Khí Giáo tuyển trạch tông đồ học việc. Mikael được gọi qua để đánh giá.
Dưới những chùm đèn vàng, Mikael chậm rãi bước. Cái bóng đen của gã đổ thành vệt nom như một vết bẩn di động trên mặt sàn vàng óng tinh tươm của Trụ Sở Giáo Hội. Hai phó tế luân xa đi qua, thấy Mikael thì vội nép mình sang một bên chừa lối cho gã. Trái ngược với những anh em tông đồ khác, Mikael thường không đeo mặt nạ, nên cũng kha khá người biết gã là thủ lĩnh tông đồ.
“Chào!” - Mikael giơ tay với hai vị phó tế - “Năm mới không đói khát nhé!”
“Vâng… năm mới không đói khát, thưa ngài!” - Một tay phó tế luống cuống đáp lại.
Hai phó tế vội vã rời đi, dấm dúi như vừa làm chuyện khuất tất mà không muốn ai khác phát hiện. Mikael ngoảnh lại, nhận ra hai vị phó tế đang nhìn mình. Họ giật thót, bèn đi thẳng, tuyệt không quay về phía sau một lần nào nữa. Loại biểu hiện đó, Mikael gặp suốt, hồi học việc còn khó chịu, giờ lên thủ lĩnh tông đồ thì thành quen. Có dạo gã nghĩ rằng chỉ cần làm bộ dạng què quặt, miệng há ra cho dãi chảy lòng thong là đám người trong Trụ Sở Giáo Hội co giò chạy hết, hệt như lúc người ta gặp Zombie. Tông đồ và Zombie – hai cá thể khác biệt tưởng chừng không liên quan mà đôi khi rất tương đồng.
Nhiều người khác đi ngang qua gã thủ lĩnh tông đồ. Từ các tỷ muội và huynh đệ mặc áo chùng màu trắng, các phó tế luân xa rồi các vị linh mục luân xa – tất cả đều chung một biểu hiện như hai phó tế mà Mikael gặp ban đầu. Bất thình lình, một giọng nói vang lên:
“Đến rồi à, Mikael? Lại đây, lại đây! Tôi đang mong cậu lắm!”
Đương lơ đãng, Mikael nhìn về phía trước. Ở cuối hành lang, một vị hoàng y đang dang tay chừng với gương mặt hớn hở, chừng như chỉ đợi Mikael chạy đến là ôm chầm lấy. Nhưng Mikael không chạy, chỉ đáp:
“Hoàng y Hofsner. Cho tôi chút bình yên không được à? Đã đến giờ đâu?”
Vị hoàng y không dang tay nữa mà vừa tiến đến chỗ Mikael vừa cười cười nói nói:
“Đến đúng giờ là vì công việc, đến sớm là để trò chuyện, không phải vậy sao?”
Vị hoàng y vỗ vai gã thủ lĩnh tông đồ như chỗ quen biết lâu năm. Mikael không đáp lại. Chẳng riêng mình gã mà với bất cứ ai, Hofsner cũng đều nhiệt tình xởi lởi, thành ra cả Trụ Sở Giáo Hội này bói ra một lô một lốc những người ‘thân thiết lâu năm’ với vị hoàng y. Nếu xếp những nhân vật đó thành bản danh sách, Mikael thực không biết mình ở vị trí nào. Là thân thiết ‘sơ sơ’ hay thân thiết ‘bình thường’? – Gã tự hỏi, rồi đoán mình chẳng thuộc cái nào vì mới gặp Hofsner đúng hai lần.
Hofsner xin một điếu thuốc. Mikael đưa cho vị hoàng y một điếu rồi tiện tay châm lửa hộ ông ta. Bấy giờ, Mikael có dịp nhìn kỹ gương mặt của Hofsner: nhiều tuổi nhưng da căng bóng, hồng hào, có nọng dưới cằm, cái mũi to và tròn trịa, mái tóc bóng mượt vuốt từ trán ra sau gáy thẳng tươm, tơi xốp như lớp bông mỏng mảnh. Mikael nghe nói Hofsner mỗi tháng chi ra sáu zol vàng cho mái tóc bông gòn ấy.
“Năm nay tuyển được hai trăm đứa đấy, Mikael! Lâu lắm mới lại đông như vậy!” – Hofsner hồ hởi – “Chắc là đông nhất từ sau thời Ngạ Quỷ đến giờ! Việc sinh đẻ ở các Vùng rất tốt! Công cuộc giải phóng loài người của Đấng Chúa đang cho thấy sự khả quan! Chẳng bao lâu nữa, Ngạ Quỷ sẽ tái xuất!”
Mikael nhướn mày:
“Hai trăm đứa học việc sẽ qua tuyển trạch lần một, lần hai, rồi lần ba. Cuối cùng cũng chỉ chọn được mười đứa xuất sắc nhất. Nhưng thường là không đủ mười mà ít hơn. Tỉ lệ chọn là dưới năm phần trăm.”
Hofsner ngừng cười, tưởng chừng mái tóc bông gòn của ông ta bị dội gáo nước và xẹp xuống. Ông ta nhíu mày:
“Năm phần trăm? Sao ít thế?”
Mikael trả lời:
“Bởi vì tôi chín mươi lăm phần trăm còn lại có thể về nhà, làm những công việc ít nguy hiểm hơn. Chín mươi lăm phần trăm đó có thể sinh con đẻ cái và giúp gia tăng dân số. Với tôi, chín mươi lăm phần trăm đó có ích hơn nhiều so với năm phần trăm còn lại.”
Hofsner cau mày, lắc đầu:
“Nào, Mikael, đừng nói những lời như vậy chứ. Nếu người khác nghe được, họ dễ bắt bẻ rằng anh đang báng bổ Đấng Chúa.”
Mikael nhún vai vẻ không quan tâm.
Hai người đi dọc hành lang Trụ Sở Giáo Hội, nói chuyện phiếm để giết thời gian. Suốt cuộc trò chuyện, Mikael chẳng thấy Hofsner đề cập đến mấy bức thư từ các Trại Vùng 2, cứ như là chuyện ấy chẳng tồn tại, mà toàn kể lể mấy chuyện đâu đâu. Tiến sĩ Breau đã đúng về Hofsner, không phải vì thông minh hay giỏi tiên đoán, mà vì bà nhớ rõ biệt dành của ông hoàng y: Hofsner Ru Ngủ.
“Quay lại chuyện cũ, Mikael. Giáo hội đã giao việc cho tôi, vậy nên tôi phải làm hết sức.” – Hofsner chuyển chủ đề – “Anh nên rộng lượng hơn. Thời đại đã khác: vũ khí, thiết bị, lương thực… tất cả đều đầy đủ, không phải khổ cực như thời Ngạ Quỷ nữa.”
“Ý ông là nới lỏng tuyển trạch?” – Mikael quay sang.
“Phải, tại sao không?” – Hofsner nói – “Tông đồ đang mất uy thế, không phải sao? Ngày trước, đâu đâu cũng thấy các cửa tiệm treo chữ ‘N.Q.’, đám trẻ tuổi thì xăm ‘N.Q.’ lên tay một cách hãnh diện, mà giờ chẳng còn mấy. Binh đoàn tông đồ từng là thanh kiếm rực lửa của giáo hội, mà giờ chỉ còn vài người, chẳng khác nào một que cời lò. Que cời lò thì không cháy được, Mikael.”
“Ông muốn xây dựng lại Ngạ Quỷ?” – Mikael hỏi.
“Cậu rất hiểu tôi.” – Hofsner cười, hai mắt híp lại, mí mắt béo múp kẻ hai khe hở – “Điều quan trọng hiện này là số lượng. Cái chết của Arkadiel là tiếng chuông báo động. Đội tông đồ hiện chỉ còn mười người, nếu tính cả anh, Mikael. Năm mươi tông đồ sau thế hệ Ngạ Quỷ, nay chỉ còn mười. Sao đau đớn vậy? Tôi nghĩ mình có trách nhiệm trong việc này.”
Mikael bật cười. Gã quay lại nhìn vị hoàng y. Khoảnh khắc đó, hai người mặt đối mặt. Bộ y phục trắng pha vàng của Hofsner hòa với tổng thể Trụ Sở Giáo Hội thành ra ăn rơ, trong khi Mikael vẫn như trước: là một thứ gì đó hoàn toàn lạc quẻ. Gã thủ lĩnh tông đồ cất lời:
“Chắc ông biết Huart Chặt Đầu. Ông ấy từng huấn luyện tôi một thời gian.”
“Tôi biết rõ ông ấy.” – Hofsner nói, vẻ thành kính – “Một thủ lĩnh tông đồ vĩ đại.”
Mikael nhếch môi. Gã tìm thấy ở Hofsner Ru Ngủ một điểm lý thú: nói đúng ý người khác. Biết là bợ đít nhưng Mikael thấy dễ chịu. Giáo hội đã chôn vùi Huart dưới những công trình bề thế hào nhoáng, hiếm ai nhắc đến, mà nhắc đến cũng bằng thái độ khó coi. Hofsner thì khác. Mikael đã định nói một cách gay gắt hơn, nhưng rồi dịu giọng:
“Huart đã từng hỏi tôi ‘Mày vào lực lượng tông đồ làm gì?’, tôi nói ‘Để phục vụ Đấng Chúa!’. Ông ấy hỏi tiếp ‘Phục vụ mặt nào?’, tôi không trả lời được. Khi đó tôi mới chỉ là thằng nhóc mười ba tuổi. Rồi sau đó Huart đưa tôi đến bức tượng vĩ đại của Đấng Chúa Máy Móc nằm ở trung tâm trụ sở này – cái chỗ mà ông và Hội Đồng Tối Cao hay họp.”
“Và…?”
Mikael tiếp lời:
“Ông ấy đưa tôi đến bức tượng, nhưng không phải mặt trước, mà là mặt sau. Hồi đó nơi này mới xây dựng, nhiều thứ còn dở dang, kể cả tượng Đấng Chúa. Để cho các thành viên Hội Đồng có chỗ họp hành tử tế, người ta chỉ làm mặt trước của tượng, mặt sau tạm để đó, đêm đục đẽo làm tiếp.”
“Tôi có nghe việc ấy, nhưng ý anh là…” – Hofsner nói.
“Mặt sau đó nham nhở, xù xì, bẩn thỉu.” – Mikael cắt ngang – “Trong những bức ảnh chụp Hội Đồng Tối Cao vào những ngày đầu tiên, người ta thấy bức tượng đẹp đẽ, nhưng không bao giờ biết mặt sau của nó. Huart nói với tôi rằng các tông đồ phục vụ cho cái mặt sau nham nhở của bức tượng, còn mặt trước đã những người như các ông lo.”
Hofsner im lặng, mặt méo xệch, trái ngược hẳn điệu bộ thân thiện vừa nãy. Mikael tiếp tục:
“Con người có bóng, Đấng Chúa cũng có mặt sau, Hofsner. Người muốn phục vụ mặt trước của Ngài, như ông, thì đầy. Nhưng kẻ phục vụ mặt sau của Ngài, như tôi, như các anh em tông đồ, thì ít, và không thể chọn bừa. Bởi một khi đã trở thành tông đồ nghĩa là không còn sống như một con người nữa. Ông nghĩ tại sao người ta gọi thế hệ của Huart là Ngạ Quỷ? Người không thể giết Zom, nhưng quỷ thì có thể.”
“Cậu đáng ghét thật đấy, Mikael.” – Hofsner cười cười – “Cứ thế này thì không được việc đâu. Đội tông đồ đang thảm hại lắm đấy!”
Mikael cười đoạn rút điếu thuốc rồi châm lửa, thở phì hơi khói thật dài:
“Quỷ thì không cần thông cảm đâu, Hofsner. Thật đấy!”
Mặt vị hoàng y đanh lại. Nhưng cùng lúc đó, vị hoàng y nhìn thấy cái bóng của Mikael đổ sắc đen lên khung cảnh đẹp đẽ của Trụ Sở Giáo Hội. Hofsner hiểu rằng trong từng viên gạch bóng loáng của Trụ Sở đều có màu đen của các tông đồ.
…
Trong bóng tối, Bob và Walk nhận ra nhau. Bởi lớn lên cùng nhau nên chúng nó đã quen thuộc từng li từng tí của nhau, giả sử bịt mắt lại vẫn nhận ra được. Cả hai đều kinh hoàng. Đầu tháng 11, hai đứa cùng lên xe tải đi viễn chinh. Vào năm mới, hai đứa suýt nữa giết nhau. Giả như trong tay hai đứa đều có súng, có lẽ cảnh giết nhau đã xảy ra thật.
“Mày… mày… sao lại là mày?” – Walk ú ớ.
“Tao đi ngang qua thôi! Sao mày ở đây?” – Bob hoảng hốt.
Khi hai thằng còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì ở cửa, Ramgee bước vào. Walk nhận ra Ramgee bởi mái tóc xù của gã. Chẳng nói chẳng rằng, tên vệ binh kỳ cựu bước đến đấm Bob một cú nổ đom đóm mắt, sau đó vung dao định đoạt mạng. Walk chạy tới tóm lấy tay Ramgee, gào lên:
“Dừng lại! Dừng lại!”
“Dừng lại cái con mẹ mày!” – Ramgee gạt bay Walk ra rồi nhìn nó – “Sao mày cản tao? Mày có quan hệ gì với thằng này?”
“Bob! Cậu ấy là bạn tôi!” – Walk nói – “Cậu ấy là vệ binh!”
“Vệ binh cái đít tao!” – Ramgee cười – “Nó là vệ binh thì tao là Đấng Chúa Máy Móc!”
Nói rồi Ramgee quay sang vung dao vào Bob. Walk gào lên, cảm thấy bất lực vô cùng.
Nhưng rồi Ramgee dừng lại, đúng hơn là một thanh mã tấu đâm thủng ngực Ramgee buộc gã phải dừng lại. Ramgee ngoảnh về phía sau nhưng chẳng thấy ai, hoặc là bóng tối đã che mất kẻ thù. Mã tấu rút ra, Ramgee quỳ trên đất; gã vẫn gắng sức ngoảnh lại, miệng hộc máu:
“Ai… ai…?”
Một cú chém bén ngọt tách lìa đầu của Ramgee với thân xác gã. Cú chém bén đến mức sau khi đầu lìa khỏi cổ một, hai giây, máu mới phún ra thành những vòi nhỏ tưới mặt đất. Và kể cả cái đầu còn chút ý thức của Ramgee cũng không thể nhìn ra thủ phạm. Gã chết với mối ngổn ngang trong tâm trí.
Walk cũng không biết tại sao Ramgee chết, nhưng nó còn sống để hiểu cái gì vừa xảy ra. Bằng cách nào đấy, Samiel đã di chuyển lặng lẽ và lanh lẹ đến mức chẳng ai biết. Và khi mọi chuyện kết thúc, Walk mới hiểu rằng Samiel đã kết liễu cuộc đời Ramgee. Gã tông đồ nhìn Bob, hất đầu:
“Biến ngay.”
Bob cả sợ, vội vã chuồn khỏi căn nhà bằng cửa khác. Bob vừa đi, đám vệ binh kỳ cựu ập đến. Tất cả đều kinh hãi khi thấy cái xác bất toàn vẹn của Ramgee, và kinh hãi hơn khi thấy thanh mã tấu sáng bóng loang loáng đỏ trên tay Samiel. Gã tông đồ nhìn tất bằng con mắt sắc lạnh như chính thanh mã tấu:
“Hắn bất tuân mệnh lệnh. Còn ý kiến gì không?”
Cả đám im lặng. Walk im lặng.
Cuộc chiến ở Shit-hole kết thúc.
Ngày đó, Walk được nhìn thấy một mặt khác của Đấng Chúa Máy Móc, một mặt nham nhở, xù xì và đáng sợ.
0 Bình luận