Sống lại ở dị giới.
Chương 196: Phước lành từ thánh lực.
Điện thờ chính mà hiện tôi đang tạm ở lại được gọi là tòa thánh Shedu, và tôi đang chuẩn bị có một cuộc họp với các đại linh mục của các dòng phái tại phòng hội nghị chính. Tôi đã nghe sơ về vấn đề ở đây, và đã bảo ông Yeoman tập họp mọi người lại để thảo luận vấn đề sương độc Abyss. Tôi không dám nói mình có kinh nghiệm đầy mình để giải quyết dứt khoát vấn đề này, nhưng tôi có thể tìm hiểu sơ thông tin từ những người sắp gặp mặt, và sẽ dựa trên đó để tìm ra sự chênh lệch khi giáp mặt trực tiếp với sương độc đang lan tràn ở ngoài kia.
Như linh mục Yeoman báo cáo là đám sương này đã có được tầm hai năm gì đó rồi. Ban đầu những đám sương này không nhiều và cũng chẳng dày đặc như hiện tại nên các mạo hiểm giả hay khách hành hương từ vương quốc Bravo sang đến đây đều không để ý gì nhiều. Chuyện chỉ bắt đầu trở nên đáng chú ý khi phát hiện nhiều báo cáo của các mạo hiểm giả báo lại rằng hang ổ của lũ quái vật đều tỏa ra những đám sương ấy, chúng khiến con người bị ức chế sức mạnh và đồng thời khiến quái vật hung hãn hơn. Vì đám sương độc này mà công việc của các mạo hiểm giả đã trở nên khó khăn hơn trong những nhiệm vụ thảo phạt quái vật hoang dã, hay phá triệt để những cái hang trú ẩn có khà năng mang lại mầm họa nguy hiểm cho những ngôi làng hoặc thành thị gần đó.
Công hội mạo hiểm đã bất lực trong công cuộc thảo phạt, vì các thành viên mạo hiểm chẳng phải là một công hội lớn gì mà chỉ toàn những nhóm nhỏ lẻ từ ba đến năm người gom lại tạo thành một đoàn thể, nên việc tập họp tất cả đi chinh phạt hang ổ quái thú không mang lại kết quả khả quan. Cuối cùng những binh sĩ được đào tạo bài bản đã vào cuộc. Sức chiến đấu một sĩ binh bình thường cũng chỉ đạt mức trung bình, nhưng vì có đội hình và khí cụ tốt hơn so với những mạo hiểm giả nên họ có ưu thế hơn trong việc chinh phạt hang quái vật.
Nhưng, tuy tin tức chinh phạt của các sĩ binh chính quy mang về là kết quả chiến thắng, cơ mà họ đã vô tình góp phần khiến cho đám sương độc ấy lan tràn ra nhiều hơn, và cũng khiến chúng mất kiểm soát không chỉ còn rò rỉ ở trước của hang quái vật nữa mà đã lan ra khắp nơi. Trong quá trình chinh phạt, chỉ vì muốn có kết quả tốt nhất, ít thiệt hại nhân mạng lẫn tài lực nhất, nên họ đã dùng bom cho nổ các hang ổ đấy. Báo cáo thiệt hại quả thật rất thấp, kinh phí thuốc nổ và vật đốt cũng không cao, nhưng hậu quả để lại lâu dài chẳng ai có thể giải quyết được. Cho đến nay, trừ vương đô của vương quốc Bravo được các pháp sư tài giỏi lập kết giới cầm cố chống chịu ra, thì phần lớn vương quốc đã bị sương độc xâm chiếm để quái vật hoành hành rồi. Trong hai năm qua, đã không biết bao nhiêu đợt người của Thần Điện Nirvana lẫn các pháp sư từ Ivory đến rồi đi mà cũng không có cách giải quyết. Họ chỉ có thể hợp lực dựng kết giới ngăn chặn không cho sương độc tràn vào thủ đô Bravo thôi, còn lại tốn thời gian vài ngày thanh tẩy bao nhiêu thì lớp sương ấy tự động lấp đầy lại bấy nhiêu trong thời gian chỉ vài giờ. Vì vậy tất cả đều kết luận, không tìm ra được vị trí xả sương độc thì sẽ chẳng bao giờ thanh tẩy được vương quốc Bravo.
“Vậy, sự việc đi đến mức này là do sự thiếu hiểu biết của những binh lính Bravo trong lúc thực hiện nhiệm vụ à?” Tôi thả bản báo cáo xuống bàn quay qua hỏi ông Yeoman trong lúc chờ những đại linh mục của các dòng phái khác đến. “Từ những bài báo cáo của các mạo hiểm giả về khả năng của sương độc, mấy tay lãnh chúa với thị trưởng một thành không tìm hiểu gì về chúng mà cứ thế cho nổ hang ổ của lũ quái thú, xong rồi để lại một mầm họa chết người. Ít ra bọn họ cũng phải lập ra một giả định sau khi cho nổ bom thì có khả năng rơi vào tình huống tệ nhất chứ?”
“Họ mặc định sương khói gì cũng đều sẽ bị lửa của thuốc nổ thiêu rụi, nên họ cứ thế mà làm thôi thưa Thánh Nữ.” Ông Yeoman nở nụ cười méo mó, giống như kiểu cấp dưới đang phải chịu đựng sự phẫn nộ từ cấp trên vậy.
“Trong lúc vận chuyển thuốc nổ vào hang quái vật thì các binh lính không dùng đuốc lửa soi sáng à? Hay do giới quý tộc lãnh chúa của vương quốc Bravo giàu đến độ cấp một lượng lớn đá soi sáng để cho quân đội dùng?” Tôi hỏi dò lại.
“Sẽ không đâu Thánh Nữ, đá phát sáng tuy không phải là mặt hàng hiếm có gì, nhưng cũng không phải đồ rẻ tiền để quân đội một nước dùng đại trà đâu ạ.” Ông linh mục lại giải thích. “Loại đá phát sáng này chỉ thường gặp ở những nơi riêng tư như trong những nhà giàu có, những nơi kinh doanh sang trọng, hoặc ở những điện thờ của các giáo phái thôi.”
“Tôi thừa biết đá phát quang thường được dùng ở những nơi nào, nhưng trọng tâm tôi muốn nói đến ở đây là sự vô trách nhiệm của mấy tay lãnh chúa và thị trưởng của vương quốc Bravo, khi ra chỉ lệnh cho nổ hang quái thú mà không suy xét trước sau.” Tôi thở dài, tựa lưng vào ghế và nhìn ra phía cửa trông ngóng những đại linh mục khác mang thêm thông tin mới tới cho tôi.
Việc ở lại đây một ngày đã nằm trong kế hoạch của tôi từ trước rồi, nhưng để giải quyết sương độc Abyss thì là phát sinh ngoài kế hoạch. Tôi không biết mình có thể giải quyết được vấn đề này hay không nữa là... với lại người trên thuyền vẫn còn đang chờ tôi mang lương thực về nữa. Nhiều nhất là ba ngày, nếu tôi thật sự không giải quyết được triệt để đám sương độc kia trong thời gian ngắn thì tôi đành cho họ cái hẹn, khi nào việc cá nhân tôi giải quyết xong thì sẽ quay lại đây để giúp họ giải quyết vấn đề. Hy vọng đến khi đó tình hình ở đây không trở nên quá tệ.
“Những người còn lại sẽ đến sớm thôi, thưa Thánh Nữ.” Dường như ông Yeoman biết tâm trạng của tôi lúc này nên mở lời khuyên.
“Ngài Yeoman, chắc ngài biết tôi vẫn còn một hành trình còn dang dở ở phía trước chứ?” Tôi hỏi lại.
“Tôi cũng biết chút ít.” Ông ấy nói với vẻ nhún nhường.
“Chuyện sương độc tôi vô tình biết ở đây không phải là không quan trọng, nhưng việc ở vương quốc Ila Erone ở phía bên kia bờ biển quan trọng cũng không kém.” Tôi lại thở dài, mắt vẫn hướng ra phía cửa mong chờ có hình bóng của các đại linh mục bước vào. Tôi cũng trực tiếp nói thẳng. “Ở vương quốc Ila Erone kia, thức ăn thiếu thốn đến độ con người phải ăn cả đồng loại. Thai phụ và trẻ nhỏ không khác gì là những món ăn thịnh soạn trên bàn ăn của quý tộc. Kể cả những tu sĩ ở những đền thờ trong vương quốc đó cũng không thoát khỏi số mệnh ăn hoặc bị ăn. Các nữ tu thì càng có số phận thống khổ hơn tất cả, họ vừa bị ép trở thành công cụ giải tỏa tình dục cho lượng lớn binh sĩ, trong khi tinh thần họ vẫn biết mình sẽ bị đem lên bàn ăn sau khi đã bị giày vò đủ lâu.” Vừa nói với cảm xúc ngày càng dâng trào, tôi vừa nhớ lại những hình ảnh mất nhân tính trong ngày đầu bước chân lên vương quốc Ila Erone. Tôi ngừng vài giây để điều chỉnh lại bản thân để bụng dưới của mình thôi cồn cào, rồi nhẹ giọng hỏi. “Linh mục Yeoman, vương triều Ila Erone đã làm ra những việc đi ngược lại với nhận thức của nhân loại, vậy liệu họ có còn là con người giống với chúng ta không? Liệu họ có đáng để tha thứ, hay còn có thể cứu rỗi hay không?”
“Dựa trên sự phán xét của Thần Điện,” linh mục Yeoman chấp hai tay trước ngực giữ lấy thánh giá như đang cầu kinh mà nói tiếp, “nếu một cá nhân nào đó mang trên mình tội lỗi chất chồng, thì hãy đưa Sin Eater đến bên cạnh người đó. Nếu Sin Eater ăn hết tội lỗi mà người kia vẫn còn sống, thì họ đáng để được tha thứ và trao cho cơ hội thứ hai để làm lại cuộc đời mới.”
“Nếu tội lỗi đã được ăn hết rồi nhưng Sin Eater vẫn tiếp tục ăn, thì đồng nghĩa kẻ tội đồ đó đã không còn đường cứu rỗi. Vì những việc ác mà hắn gây ra vốn đã nằm sẵn trong ý nghĩ, trong xương tủy, và hắn sẽ bị Sin Eater ăn cho đến khi nào sự hiện diện của tội lỗi không còn tồn tại. Trích từ quyển Phán Xét và Tha Thứ, điều thứ III đoạn 5.4 trong điều luật của Thần Điện.” Người vừa xướng nốt phần còn lại của điều luật là một giáo sĩ cao to, nước da màu đồng và bận một bộ trường bào đen đỏ không khác gì so với linh mục Yeoman. “Hồng y dự bị Mikael Monk thuộc trường phái Itokass, xin hành lễ trước Thánh Nữ.”
“Hồng y dự bị Cardinal Harry thuộc trường phái Iris, xin hành lễ trước Thánh Nữ.” Người này là một linh mục nhã nhặn vẻ ngoài trẻ trung với mái tóc hai mái dài quá vai cùng cặp kính tròn khiến cho người khác nhìn vào tạo nên cảm giác thân thiện, tay còn cầm một cây trượng gỗ có đính ngọc ma thuật.
“Hồng y dự bị Avaline Linota Elizabethe thuộc trường phái Epona, xin hành lễ trước Thánh Nữ.” Vị đại linh mục lần này là một nữ tu sĩ có mái tóc vàng óng ả uốn lượn xoắn tít thả tự do trông rất cuốn hút, và cô ta cũng có một nét đẹp tôn lên sự cao quý rạng ngời giống như người Elven vậy.
“Tôi thấy bên ngoài vẫn còn khá nhiều vị linh mục khác, hay là mọi người cứ vào đây an tọa trước đi, rồi giới thiệu bản thân sau cũng được.” Tôi giơ tay lên ra hiệu cho những người phía sau chuẩn bị tiến lên giới thiệu từng người một. Tôi không có nhiều thời gian, và tôi đang cần thông tin từ họ. Gần chục vị hồng y dự bị như thế từ từ tiến vào và ngồi vào hai bên trên chiếc bàn dài, còn tôi ngồi ở vị trí chủ tọa trung tâm. Khi tất cả đã yên vị thì tôi lại nói tiếp. “Thứ lỗi vì đã triệu tập mọi người một cách đường đột như thế này. Tôi là Lena Vermillion, tân Thánh Nữ vừa được Thần Điện Nirvana lựa chọn. Tôi đang trên đường đến vương quốc Ila Erone để giải cứu tín đồ của Thần Điện lẫn những tín đồ của các dòng phái khác khỏi số phận cay nghiệt do vương triều Ila Erone gây ra. Nhưng khi đi qua đây thì được nghe đang có vấn nạn sương độc từ Abyssal, nên trừ những thứ cơ bản đã có trong báo cáo tôi muốn nghe chi tiết hơn những thông tin còn lại từ mọi người đang ngồi tại đây. Từ phạm vi lan tràn hiện tại của sương độc, cho đến thiệt hại của các lãnh địa xung quanh lẫn nhân lực của từng thế lực có tham gia vào công cuộc khống chế màn sương. Hoặc tôi có thể dành ra chút thời gian cho các vị trao đổi với nhau, sau đó cử ra một người đại diện trình bày thay cho tất cả.”
“Thực ra mấy câu hỏi vừa rồi của Thánh Nữ tôi có thể thay mọi người trả lời. Dù sao tôi cũng là người tổng hợp tất cả bài báo cáo của các dòng phái mà.” Ông linh mục Yeoman ngồi gần tôi rụt rè lên tiếng.
“Vậy phiền ông rồi, linh mục Yeoman.” Tôi gật đầu chấp nhận cho ông ấy quyền đại diện phát biểu.
“Đầu tiên là về phạm vi lan tràn của sương độc đã được hạn chế, một phần nhờ vào sự cố gắng ra sức lập rào chắn của các pháp sư, và cũng một phần là do càng cách xa trung tâm phát tán thì tốc độ lan tràn của màn sương sẽ ngày càng chậm. Nếu không lập rào chắn thì chưa đến nửa năm nữa có khả năng đám sương đó sẽ phủ đầy trên bầu trời thánh đô này. Vấn đề thứ hai, thiệt hại về tài lực thì không đáng kể, chủ yếu là những trang bị ma pháp đã tiêu hao phần lớn để thực hiện phép lá chắn. Những vật phẩm ma thuật này vừa được các thương nhân tứ phương tài trợ, vừa nhận được từ hội pháp sư Ivory và Thánh Điện. Nói ít thì không ít nhưng nhiều thì chẳng nhiều, chỉ đủ dùng như đang cầm hơi. Còn thiệt hại nhân lực thì con số này chỉ bùng nổ ở giai đoạn đầu, lúc màn sương độc lan tỏa khó kiểm soát nhất. Những người yểu mệnh ấy phần lớn đã nằm gọn trong bụng đám dã thú, kể cả di vật cũng không có được mấy người mang về được. Về sau khi kiểm soát được tình trạng lan tràn của sương độc, thì các pháp sư lẫn linh mục chỉ cần phải đối đầu với những con thú vượt rào mà thôi. Lúc này thiệt hại về nhân số gần như là bằng không, nhưng thi thoảng vẫn sẽ có người bị thương vì nhiều nguyên nhân khác nhau.” Ông Yeoman hơi cúi mình về phía tôi tiếp tục trình bày. “Đó là toàn bộ tình hình của giáo hội chúng ta từ lúc sương độc phát tán cho đến hiện tại. Còn về thiệt hại của những thế lực đồng minh khác, nếu Thánh Nữ muốn biết thì tôi sẽ lập tức gửi bồ câu đưa tin yêu cầu họ cho Người một đáp án chính xác.”
“Không cần thiết phải thế, sẽ rất mất thời gian.” Tôi phẩy tay ra hiệu từ chối. Tôi lại hỏi. “Vậy, vấn đề chính ở đây là gì khi đã có thể kiềm hãm sương độc ở phía bên kia rào chắn?”
“Là nhân lực, thưa Thánh Nữ.” Hồng y dự bị Elizabethe lên tiếng. Cô ta giải thích. “Những pháp sư, thầy dòng, học sĩ của các trường phái đều, đã, và đang gặp phải tình trạng ma lực bị ăn mòn. Dòng chảy năng lượng trong người họ đang ngày trở nên kiệt quệ khi tiếp xúc nhiều với đám sương độc kia. Dù mỗi ngày họ đã cố hạn chế tiếp xúc, nhưng cứ mỗi ngày một chút thì tích tiểu thành đại, và khi nhiễm nhiều quá người đó có xu hướng bị sương độc mài mòn dần theo thời gian.” Cô ấy nhấn mạnh. “Cho đến giờ vẫn chưa có một ai tìm ra được phương án giải quyết triệt để sự ăn mòn này cả. Các giáo sĩ lẫn giám mục bọn tôi chỉ có thể dùng thánh lực cầm chừng giúp người nhiễm bệnh không bị sương độc lây lan nhiều hơn mà thôi. Mà dù có tìm ra cách giải quyết triệt để được đi nữa, thì cũng có khả năng lớn dung tích năng lượng nội thể của những người đó sẽ không thể khôi phục lại bình thường như ban đầu.”
“Người nhiễm sương độc ngày một tăng, nhưng người được chửa khỏi lại bằng không, với đà này sớm muộn gì cũng sẽ không đủ người để ra tiền tuyến. Một khi những người ở tuyến đầu ngã xuống hết mà người ở hậu phương không đủ năng lực thay thế, thì việc duy trì rào chắn bảo vệ cũng không thể tiến hành được nữa.” Hồng y dự bị Harry nói lên tầm quan trọng của việc thiếu nhân lực. “Đó cũng là lý do vì sao chúng tôi không kịp nghênh đón Thánh Nữ, xin Người hãy thông cảm cho chúng tôi. Dù sao thì, trong mọi trường hợp người bệnh cũng nên được ưu tiên trước.”
“Không sao đâu, tôi không bận tâm những lễ nghi mang tính hình thức. Tôi thích những người làm việc mang tính thực tiễn hơn.” Tôi mỉm cười tỏ vẻ hài lòng, cũng là tán thưởng những người ngồi đây vì họ có lối suy nghĩ và hành động thực tế, hơn là chạy theo chủ nghĩa hình thức nhưng chẳng giúp ích được gì. Tôi lại hỏi. “Thế những người nhiễm sương độc đã được đưa về đây chưa, hay vẫn còn ở bệnh xá ở tiền tuyến? Tôi muốn ghé qua xem tình trạng của những người đó, xem tôi có thể giúp gì được không.”
“Những ai chỉ mới nhiễm sương độc giai đoạn đầu thì vẫn còn trụ lại ở tiền tuyến. Còn những người bị nhiễm sương độc nặng đều đã được đưa về thành để chăm sóc, nhưng dược liệu lẫn y sĩ ở đây cũng không thể chữa dứt điểm mà chỉ cầm hơi cho họ mà thôi.” Hồng y dự bị Mikeal nói, thái độ ông ta tỏ ra rất bất lực.
“Vậy đừng mất thời gian nữa.” Tôi đứng dậy khỏi ghế ngồi. “Hãy đưa tôi đến chỗ những người bệnh. Tôi muốn thử tìm cách chữa bệnh giúp những người này.” Sau lời nói của tôi, sự nghi ngờ đã hiện rõ trên những gương mặt đang ngồi tại đây, nhưng rồi họ cũng ậm ừ rời khỏi chỗ ngồi để hướng dẫn theo ý tôi, dẫn đầu là linh mục Yeoman. Thú thật, tôi chẳng biết sương độc này ảnh hưởng như thế nào đến người khác. Nhưng tôi tự tin rằng thứ sương độc này sẽ không ảnh hưởng với mình, giống với hồi ở ngoại ô Aden vậy.
Về cơ bản, hiệu ứng sương độc ở đây với đám khói độc ở hồ Narsell khiến ai ngửi hay tiếp xúc cũng đều bị ức chế sức mạnh. Ở Narsell là không thể dùng bất kì loại năng lực nào khác ngoại trừ thánh quang hay chữa lành, và cả Thời Không Thuật nữa nhưng chỉ có mỗi tôi là có Thời Không Thuật thôi. Ở đây thì có vẻ như cao cấp hơn một chút, vì loại độc đó trực tiếp đánh thẳng vào mạch năng lượng trong nội thể của con người luôn, khiến người ta không thể sử dụng được bất kỳ loại phép thuật nào kể cả là thánh quang thuật hay thuật trị liệu khi mức độ ăn mòn đã làm nghẽn phần lớn mạch năng lượng trong nội thể. Chỉ cần biết được nguyên lý này, tất sẽ có cách chữa trị cho những người nhiễm bệnh.
Trên đoạn đường đi đến y xá, các hồng y dự bị cũng thay phiên nhau phổ biến thêm những triệu chứng của những người bị nhiễm sương độc từ nhẹ đến nặng. Bệnh tình sẽ được chia ra thành năm giai đoạn. Trong giai đoạn đầu là ở mức nhẹ, người nhiễm sương độc sẽ không biết mình đã bị nhiễm và không có lộ rõ triệu chứng ra bên ngoài. Cách để biết họ đang ở trong giai đoạn đầu nhiễm bệnh là trong lúc dùng năng lượng người nhiễm sương độc thi thoảng sẽ bị mất khống chế hay niệm chú bất thành.
Sang giai đoạn hai, người nhiễm bệnh thi thoảng sẽ cảm thấy đau nói khắp người, tức mạch năng lượng nội thể đang bị sương độc tàn phá dần dần. Lúc này triệu chứng cơ bản đã hiện rõ qua hành động của người bệnh, co giật một cách không tự chủ là dấu hiệu dễ nhận biết nhất.
Tới giai đoạn ba, da của những người nhiễm độc sẽ phát ban những đốm da tối màu rồi dần chuyển sang tím theo thời gian, râu tóc gì cũng dần rụng hết. Ở giai đoạn này người nhiễm bệnh vẫn còn sử dụng được phép thuật, nhưng nếu càng dùng thì độc sẽ càng phát tát càng nhanh, nên các y giáo sĩ đều khuyến cáo không nên tiếp tục dùng phép.
Giai đoạn thứ tư, độc toàn thân. Ở giai đoạn này bảy, tám phần cơ thể người bệnh đã chuyển đổi sang màu tím độc hại, thần trí của người bệnh cũng đã bắt đầu rơi vào tình trạng hôn mê. Bên cạnh đó, sương độc dần bắt đầu phát triển biến cơ thể người bệnh thành một ổ bệnh, các mụn độc sẽ xuất hiện trên khắp bề mặt và lớn dần. Chỉ cần một tác động nhẹ cũng đủ làm vỡ những mụn độc đã căng như quả bóng.
Ở giai đoạn năm, hết cứu. Lúc này người nhiễm sương độc đã thật sự trở thành ổ độc bệnh, dù vẫn còn sống và ý thức đã trở lại. Nhưng để tránh trường hợp độc dịch phát tán, người của giáo hội sẽ ra tay trước khi người bệnh đi đến giai đoạn cuối. Những người ở giai đoạn này chỉ còn nước đem đi hỏa thiêu trong môi trường kín để hạn chế sương độc lan tràn ra khu dân cư. Xét theo một khía cạnh nào đó, hành động này vẫn rất dã man khi phải thiêu sống một người. Nhưng đây là biện pháp tối ưu nhất trong tình huống chưa tìm ra được cách chữa trị dứt điểm cho người nhiễm độc. Không biết, đến thời điểm này đã có bao nhiêu người buộc phải bị đưa lên giàn hỏa thiêu rồi.
Khi đến khu y xá thì cũng đã đến cuối giờ chiều, nhưng thứ đầu tiên đập vào mắt tôi là cảnh tượng hàng loạt những túp lều trắng được dựng lên theo hàng lối, và người ra vào tấp nập hệt như một cái chợ hỗn loạn. Bầu không khí ở đây có vẻ như rất căng thẳng, từ những hộ sĩ cho đến những y sĩ cũng đều đang ra hết sức mình cứu giúp người nhiễm độc. Pha chế, bôi thuốc, thử nghiệm máu, thậm chí còn có lều tiến hành luôn cả phẫu thuật để cố nạo vét chất độc trong cơ thể ra ngoài, rồi nhét thuốc vào trong để ức chế độc lây lan. Mỗi người mỗi liệu pháp, kết quả cũng không giống nhau. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ y học ở thế giới này lại tân tiến đến mức đã có thể tiến hành phẫu thuật trên cơ thể người. Dựa trên bản báo cáo, những phương thức chữa trị này tuy có thể chữa được cho người bệnh, nhưng chỉ chữa được số ít. Đa số đều không qua khỏi vì do sương độc hoành hành bên trong nội thể dẫn đến người bệnh bị sốc thuốc trong quá trình chữa trị. Còn số người cứu được, họ vĩnh viễn không thể sử dụng phép thuật được nữa, và tuổi thọ cũng có thể ngắn hơn người thường rất nhiều. Dù được cứu sống, nhưng tương lai của những người này thật là mịt mù.
“Tôi cần một căn lều đủ rộng chứa được ít nhất bốn bệnh nhân. Đồng thời hãy đen những người bị nhiễm sương độc từ giai đoạn một đến giai đoạn bốn đến chỗ tôi. Tôi sẽ tiến hành kiểm tra bằng thánh lực của mình.” Tôi nói ra yêu cầu của mình khi đã tháy đủ cảnh người người chạy đôn chạy đáo trong khu y xá này rồi. Vị trí của y xá này cách xa khu dân cư, nhưng vẫn nằm trong phạm vi khuôn viên của điện thờ. Nơi chữa bệnh cũng là vị trí thoáng gió, đảm bảo không khí lưu thông tránh để lại mầm bệnh đeo bám. Mức độ phòng vệ cũng rất nghiêm ngặt chứ không hề lỏng lẽo, nhưng có sự canh gác của Dead Lord ở trước lều sẽ khiến tôi yên tâm tập trung vào vấn đề của mình hơn.
Theo ý của tôi, chỉ trong chớp nhoáng đội hồng y dự bị đã thật sự lập nên một căn lều lớn hơn những căn lều khác ở khu vực để cho tôi dùng. Bệnh nhân cũng đã được đưa đến theo yêu cầu và tôi bắt tay vào sơ khám cho cả bốn người ngay. Thông qua kiểm tra hơi thở và mạch đập năng lượng của từng người, tôi đã dễ dàng nhận ra sự khác biệt của bọn họ. Hơi thở của những người bệnh sẽ nặng dần qua từng chu kỳ, không phải là do khó thở mà là sự cản trở của sương độc không muốn cho cơ thể người bệnh hấp thụ năng lượng tự nhiên. Điều này khiến tôi nảy ra một lối suy nghĩ táo bạo. Dù sương độc ức chế năng lượng nội thể, không để người bệnh hấp thụ thêm năng lượng từ bên ngoài, nhưng trên thực tế làn sương này không thể trực tiếp tha hóa nguồn năng lượng vốn có, mà nó phải thông qua vật chủ, làm suy yếu vật chủ để những dây thần kinh kích hoạt năng lượng trong nội thể phản kháng lại. Như thế nó sẽ tiêu tốn nguồn năng lượng dự trữ trong cơ thể dần theo thời gian, và cứ qua mỗi một gian đoạn năng lượng yếu đi, làn sương ấy sẽ biến đổi chủ thể thành ổ bệnh từ bên trong từng bước một.
Nguyên lý hoạt động này na ná giống với kháng sinh trong cơ thể người khi gặp phải virus vậy, nhưng điểm khác ở đây là năng lượng và sương độc. Vậy cách chữa trị cũng không đến mức quá khó, chỉ cần tiếp thêm một lượng lớn năng lượng cho người bệnh để ép toàn bộ độc của màn sương ra khỏi cơ thể theo tỉ lệ ba một là được. Nhưng chữa theo cách này thì phải cần nguồn năng lượng cực kỳ lớn, và phải chữa trong thời gian dài hạn để tránh mạch năng lượng người bệnh phát nổ vì quá tải. Và điều kiện tiên quyết, đó là người bệnh cần phải được cung cấp năng lượng sạch tựa như quang thuật. Vì chỉ có quang thuật mới là khắc tin của những tạp chất đến từ Abyssal mà thôi.
Mà tình hình chung ở thời điểm hiện tại, từ ngoài nhìn vào thì người có quang thuật không phải là ít, nhưng để chữa trị với tỉ lệ ba một thì cho dù có gom tất cả những người sở hữu phép quang thuật trong thành này lại thì cũng chẳng đủ để chữa trị cho một trăm người đang nằm đây. Đó là chưa kể đến giai đoạn bệnh càng cao thì số lượng cũng sẽ phải tăng lên theo cấp lũy thừa. Giai đoạn một cần ba người cứu một, thì giai đoạn hai sẽ cần chín, giai đoạn ba cần hai mươi bảy, và giai đoạn bốn cần tám mươi mốt người. Và giai đoạn năm nếu cứu được thì sẽ cần đến hai trăm bốn mươi ba người để cứu một. Đó là tính thoáng trong điều kiện năng lực của mọi người đều tương đương với nhau, còn trên thực tế thì sẽ có người mạnh kẻ yếu, và cả trường hợp trước đó người nhiễm bệnh đang ở cấp bậc nào nữa. Ví như người cấp C thì cần người cấp C tương ứng để chữa trị, và cấp B cũng cần số lượng người ở cấp độ tương đương. Nếu đem người cấp C đi trị cho cấp B thì phải bù người vào để thế chất lượng nữa, nhưng làm vậy thì bù bao nhiêu mới đủ để cứu một người? Có thể, những giám mục đứng đầu ở đây cũng đã biết cách chữa bệnh, nhưng muốn dựa vào sức của toàn bộ linh mục và giáo sĩ cả tòa thành này để chữa khỏi cho toàn bộ người đang nằm đây gần như là nhiệm vụ bất khả thi đối với họ. Vì vậy, đối với cách chữa bệnh không thể thỏa điều kiện này họ đã loại bỏ ngay từ đầu rồi.
“Tình trạng của những người giai đoạn bốn còn có thể cầm cự được bao lâu?” Tôi cất tiếng hỏi sau một hồi suy tính nên chữa cho bệnh nhân thuộc loại nào trước.
“Chuyện này rất khó nói, thưa Thánh Nữ.” Hồng y tập sự Harry nói, ông ta cung kính hơi khom người và đặt chéo một tay lên ngực nói. “Tùy theo thể trạng của từng người mà sương độc phán tán nhanh hay chậm, nhưng trung bình người ở giai đoạn bốn chỉ có thể cầm cự được một tuần nếu có y sĩ bên cạnh hỗ trợ.”
“Tôi biết loại sương độc này sẽ phát tán theo độ ăn mòn năng lượng nội thể. Người càng ít năng lượng thì sẽ càng nhanh chóng bị độc phát tát.” Sau khi nghe ngài Harry nói xong thì tôi cũng hạ quyết tâm. “Hãy tập trung những người bệnh ở giai đoạn bốn lại thành một nhóm, đồng thời đem những viên đá ma thuật rỗng đến đây để làm chất dẫn trung gian. Tôi sẽ chữa cho tất cả mọi người.”
“Thưa Thánh Nữ, cách mà Người định chữa trị cho những tín đồ kia liệu có phải là...” Hồng y tập sự Mikael bỏ lửng câu hỏi, giọng ông ta có chút run rẩy như không tin những gì tôi sẽ nói ra.
“Liệu cách chữa trị mà Thánh Nữ muốn áp dụng, có phải dùng năng lượng của Người để truyền vào cơ thể của người bệnh không?” Hồng y tập sư Elizabethe thay Mikael hỏi để muốn xác nhận sự thật.
“Không sai, tôi thật sự muốn dùng cách đó.” Tôi khẳng định. “Tôi sẽ chuyển năng lượng của mình vào những viên pha lê rỗng, kế đó các y hộ sĩ sẽ dùng năng lượng trong số đá ấy cứu những người trong tình trạng nguy kịch nhất. Sau những người trong tình trạng nguy kịch, thì đợt đá năng lượng ra lò kế tiếp sẽ dùng cho những người bị nhẹ hơn.”
“Thánh Nữ!” Ông Yeoman gào lên thống thiết, quỳ xụp xuống bù lu bù loa lên như đứa trẻ mất kẹo. “Người làm vậy thì áp lực sẽ rất lớn. Chúng tôi ở đây không phải chưa ai từng nghĩ đến cách chữa trị này, nhưng vì nó quá phi thực tế nên không ai tiến hành cả. Muốn dùng cách chữa trị này thì cần phải tiêu tốn biết bao nhiêu là năng lượng thánh quang thuần khiết? Một mình Thánh Nữ sao có thể gánh vác hết tất cả được?”
“Tôi chưa thử thì làm sao mà biết không được?” Tôi nhìn ông ta với vẻ bất lực, rồi hướng ánh mắt lên nhìn những hồng y tập sự còn lại nói. “Mấy người ở đây đâu có ai biết rõ về năng lực của tôi mà lại làm ra vẻ mặt đưa đám như thế? Mấy người còn đứng đó làm gì? Nhìn tôi thì độc tố trong người của bệnh nhân có thể tự khỏi sao? Còn không nhanh chóng thu thập đá năng lượng lại để tôi chuyển năng lượng cá nhân vào cứu người? Mọi người còn chần chờ giây nào thì sinh mệnh của những bệnh nhân càng nguy hiểm thêm giây đó. Nhanh chóng phụ tôi cứu người đi.” Tôi hơi lớn giọng cảnh tỉnh tất cả, cũng là hối thúc mọi người.
Sau vài giây thất thần, đám người hồng y tập sự cũng đã tản ra khắp nơi hối thúc những người khác đi gom đá năng lượng rỗng về cho tôi, đồng thời một nhóm khác nhanh chóng xếp nhóm người bệnh giai đoạn bốn lại thành một dãy riêng. Cảnh tượng lúc này vô cùng hỗn loạn, chẳng khác gì bày ong vỡ tổ, bày kiến tha mồi. Nhưng rồi cũng nhanh chóng có kết quả, chỗ tôi ngồi chẳng bao lâu đã chất đầy đá năng lượng rỗng từ trên bàn đến dưới đất. Giờ đã đến lúc tôi cần phải làm tốt nhiệm vụ biến bản thân thành trạm sạc năng xuất cao rồi.
Vì trong tình huống hạn hẹp thời gian, tôi không thể yêu cầu những người này kiếm giúp tôi đá năng lượng có cùng một loại dung tích với số lượng lớn được. Những gì tôi nhận được hiện tại là đủ loại đá có sức chứa khác nhau, nhưng may mắn thay loại đá thuộc cấp bậc nào cũng đã được khắc cấp bậc đó rõ trên bề mặt. Vừa bắt đầu chuyển năng lượng vào từng viên đá, tôi vừa đảo mắt điểm sơ qua tất cả và thấy phần lớn toàn thuộc loại đá cấp C và B, còn cấp D thì cũng có nhưng không nhiều mấy. Trong lúc trích năng lượng bản thân qua những viên đá, tôi cố tình chọn những viên có dung tích lớn nhất làm trước vì đây sẽ là loại đá dùng để cứu người nhiều nhất.
Dù ngồi dưới túp lều của mình, nhưng tôi có thể cảm nhận được những người bệnh này đa số thuộc cấp bậc B và C là nhiều. Đó là lý do vì sao số đá ma thuật rỗng thuộc hai cấp bậc này được tìm về nhanh như vậy. Dù không quá để ý, nhưng lúc vào trạm y xá này tôi vẫn có thể thấy được một vài lều dùng đá năng lượng truyền tải năng lượng vào người nhiễm độc để giúp họ cầm chừng sự lan tràn của độc tố, trong khi đang chờ đến lượt chữa trị. Gần giống với việc vô nước biển cho những người suy kiệt trong bệnh viện vậy. Nhưng ở đây điều khác với việc vô nước biển là năng lượng khi đưa vào cơ thể người đủ một liều nhất định thì sẽ có thể bài trừ được độc tố, và giúp người bệnh nhanh chống khôi phục. Còn các chức năng nội tạng muốn hoạt động lại bình thường thì phải trải qua thêm khâu điều trị bằng cách thực dưỡng và luyện tập đi kèm. Tóm lại, chỉ cần tống chất độc ra khỏi cơ thể là sẽ có cơ hội hồi phục lại, rèn luyện thêm vài tháng là có thể sử dụng lại ma thuật như trước.
Một loáng sau, tôi đã truyền năng lượng vào những viên đá rỗng được phần lớn, và chợt nhìn lại thì quanh mình những núi đá và thùng chứa giờ đã không còn. Ở trên bàn chỉ còn vài viên, và dưới ghế chỉ còn chưa đến bốn thùng. Phải biết, một thùng gỗ có thể chứa được hai mươi bốn viên đá năng lượng, mà khi bắt đầu mọi thứ đều chất quanh tôi cao như núi. Giờ thì trống trải đến mức khiến tôi cảm thấy số đá mình vừa trích năng lượng ra chả thấm vào đâu đối với mình.
“Linh mục Yeoman!” Tôi hô to sau một hồi đảo mắt tìm kiếm người trong đám đông đang lúi húi trước lều của mình. Tôi lại hỏi. “Lại vừa chuyển thêm mấy thùng đá năng lượng đi à?”
“Vâng thưa Thánh Nữ.” Ông ấy lấy chiếc khăn choàng màu đỏ của mình lau đi những giọt mồ hôi. “Vì Người trích xuất năng lượng ra đá quá nhanh, nên chúng tôi phải huy động vài đội xe kéo đến liên tục luân phiên chuyển tải chúng đi đến những lều khác để cho Người có không gian làm việc.”
“Sản lượng được bao nhiêu và tôi đã tốn bao lâu để chiết đầy số đá đó?” Vừa nói, tôi vừa cầm những viên đá rỗng còn lại lên để trích nốt năng lượng sang chúng.
“Thánh Nữ đã trích xuất gần được một ngàn hai trăm năm mươi thùng, đồng nghĩa đã có gần ba mươi ngàn viên đá ma thuật được nạp đầy năng lượng chỉ trong vòng một giờ. Tất cả đã được phân bổ hợp lý ra các lều khác để đưa vào chữa trị cho người bệnh trong thời gian nhanh nhất.” Ông Yeoman vừa nói, vừa cầm một tập giấy nhăn nhúm để báo cáo. Dường như tập giấy ấy là do ông ta vừa vội ghi chép vừa không ngơi tay vận chuyển hàng đi nên mới khiến chúng nhăn nhúm như thế.
“Vậy còn đá rỗng nữa không?” Tôi giơ viên đá vừa được nạp đầy năng lượng lên cho ông ta thấy và nói. “Chỉ cần một đầu ngón tay của tôi chạm lướt qua viên đá là nó cũng đã được nạp đầy rồi. Đây là những viên cuối cùng rồi đấy.”
“Xin Thánh Nữ hãy nghỉ ngơi một chút đi ạ. Người vừa mới làm một điều mà cho dù có tập hợp hơn năm mươi pháp sư cấp S lại thì họ cũng không thể hoàn thành công việc trong vòng một giờ như Người đã làm lúc này đâu.” Ông ta cười khổ nói. “Dù bây giờ Người có yêu cầu thêm đá ma thuật rỗng đi nữa, thì với thời gian eo hẹp lúc này chúng tôi cũng không thể nhanh chóng kiếm được nhiều đá rỗng về như thế đâu. Số lượng vừa nãy tập hợp được nhanh là do trạm xá đã dùng hết từ trước và để sang một bên vì chưa có thời gian kịp dọn dẹp mà thôi. Mà Người cũng đã trích xuất nhiều năng lượng như thế rồi, nếu còn tiếp tục nữa tôi sợ rằng thân thể ngọc ngà của Người sẽ không chịu nổi mất.”
“Nếu muốn nghỉ ngơi thì tôi có cần hỏi ông cung cấp thêm đá rỗng đến đây không?” Thậm chí tôi còn chưa cảm thấy hao hụt dù chỉ một phần của một phần trăm năng lượng của mình, nhưng tôi cần khiêm tốn nên sẽ không nói ra điều này. Chưa kịp để ông ta trả lời, tôi lại chỉ tay vào mấy vụn thủy tinh và bột mịn trộn lẫn với nhau ở một bên nói. “Tôi thừa biết điện thờ của các dòng phái khác đều sẽ có nhà kho chứa những viên đá ma thuật rỗng chưa kịp nạp đầy. Hãy tập hợp hết lại đây những viên có cấp bậc càng cao càng tốt, còn những viên cấp D này đừng đưa đến nữa. Tôi hơi vụn về khi phải khống chế sức truyền tải năng lượng ở mức độ cực nhỏ như thế, nên chúng đã vỡ thành bụi vụn như thế này đây.”
“Nếu Thánh Nữ không cảm thấy mệt vì thiếu hụt năng lượng, vậy thì Người cũng hãy dùng chút điểm tâm trong lúc chờ những người khác đi gom đá rỗng về nhé. Hồi trưa hình như tôi có nghe Người nói đã không ăn gì kể từ trưa hôm qua. Giờ cũng gần đến giờ ăn tối rồi, nên Thánh Nữ xin hãy để ý đến sức khỏe của bản thân?” Ông ta lại nở nụ cười trên gương mặt đầy vẻ mệt mỏi.
“Cũng được. Tôi sẽ ngồi ở đây chờ đợt đá rỗng tiếp theo.” Nhìn nét mặt mệt nỏi nhưng vẫn tươi cười của ông ta và những người khác ở ngoài lều, tôi cũng cảm thấy không cần vội vàng nữa. Tôi chợt nhớ ra và nói thêm. “À, sẵn tiện tôi muốn hỏi từ tiền tuyến vận chuyển mấy xe đá năng lượng về đến đây sẽ cần tốn bao nhiêu thời gian?”
“Không biết quy mô Thánh Nữ muốn hỏi đến là bao nhiêu xe? Nếu xe ít không tới mười chiếc thương buôn thì có thể đi nhanh, một ngày là đến. Còn nhiều cỡ mười lăm đến hai mươi xe thì có thể ba ngày, hoặc nhiều hơn hai mươi xe sẽ tốn ít nhất là bốn ngày.” Liệt kê xong, linh mục Yeoman nhìn tôi hỏi. “Thánh Nữ định vận chuyển đá rỗng ở tiền tuyến về và chuyển đá đã nạp đầy năng lượng ra đó à?”
“Phải, nhưng mà tôi thấy thời gian có vẻ hơi lâu.” Tôi lại nói tiếp ý định của mình. “Nếu thay vì vận chuyển đá đi tới đi lui mất thời gian, thì tôi định bản thân mình sẽ ra tiền tuyến sẽ tiết kiệm thời gian hơn. Tất nhiên là tôi sẽ cần một hoặc hai người chỉ đường, cũng như nhờ vào gương mặt quen thuộc của mấy ông thay tôi nói chuyện với người của khu vực tiền tuyến luôn, để tránh làm lỡ mất thời gian tôi bắt tay vào việc chiết năng lượng.”
“Thông báo! Có tin khẩn từ tiền tuyến.” Hồng y dự bị Harry từ ngoài lều đi vội vào báo cáo, vừa thở hổn hểnh vừa nghiêm túc nói. “Ở biên giới rào chắn của giáo phái Iris của tôi vừa truyền tin về. Có hai chiếc xe ngựa từ trong đám sương độc hướng vương quốc Bravo vừa phá vỡ một phần rào chắn ma thuật để vượt qua biên giới và tiến thẳng đến ngôi đền giáo phái tôi.” Ông ta ngập ngừng nhìn tôi giây lát, rồi lại nói tiếp. “Đáng lẽ chuyện sẽ không có gì để báo cáo lên đây. Nhưng trong đoàn người của hai chiếc xe ngựa đó, có hai cô gái trông rất giống Thánh Nữ. Không biết Thánh Nữ có biết hai cô gái đó không?”
Vừa nói, linh mục Harry vừa hạ thấp đầu cây trượng về phía tôi, viên ngọc trên cây trượng phát ra hình ảnh của hai cô gái tóc bạch kim thả tự do dài quá eo giống hệt nhau. Tôi đã phải ngẩn người ra vài giây, vì một người tôi nhận ra đó là Gwenlis – hộ vệ cạnh công chúa Adelia, người còn lại là ai thì tôi lại không biết. Nhưng trông thái độ của cả hai thì tôi đoán đây là người quen của Gwenlis, và cũng có thể là chị em song sinh của cô ta. Tôi tự hỏi, từ khi chia tay ở thành phố Dwelling tại vương quốc Slain thì cô ta đã mất tích ở đâu cho tới tận bây giờ?
4 Bình luận