Đoạn 1: Thành phố của máu và tiền.
Chương 05: Cú nốc ao (5)
0 Bình luận - Độ dài: 5,837 từ - Cập nhật:
Chúng tôi ngồi trong phòng kỹ thuật của viện bảo tàng, yên lặng lắng nghe những gì đang được phát trên đài. Người buộc tội Gauntlet hôm trước - Adega, đã xin lỗi công khai. Giờ đang là 7 giờ rưỡi, Kite và tôi đi làm sớm để kịp nghe bằng đài ở viện bảo tàng. Qua trình bày của cô trên đài, tôi đã hiểu sự tính toán của Kite khi nhắc Gauntlet cầm cả vỏ túi bỏng ngô về.
“Thuốc độc được cho vào sau khi Gauntlet đã ăn xong nên anh ta sẽ không chịu bất cứ ảnh hưởng gì. Đó là một con người tinh ranh, tôi tin là anh ta sẽ hiểu.”
Chúng tôi nhanh chóng trở lại vị trí gác sau khi đã nghe đủ thông tin. Kite lại ngồi với cuốn sổ tay, hí hoáy viết, tôi thì bước loanh quanh trong bảo tàng, tự lẩm nhẩm những câu thuyết trình mà Kite từng nói. Tôi chú ý đến cách nhấn giọng sao cho trầm bổng, hạ thấp tông ở những phần mà mình không chắc chắn, dõng dạc ở những đoạn hào nhoáng. Tôi tự thấy khá hài lòng, nếu để tôi tiếp bà khách hôm trước, có thể bà ta cũng sẽ khen tôi.
Thỉnh thoảng, tôi có thấy ông Brandy đi ngang qua ở khu vực bên kia. Ông sẽ cất tiếng chào tôi hoặc hỏi tôi có ổn không. Tôi nghĩ ông đã hơi lẫn, hoặc ông cố tình chào lại nhiều lần như thế cho có việc để làm.
Đến trưa, khi xuống phố, Kite và tôi đến một bưu điện khác với lần trước. Anh mua một quả cầu thủy tinh đồ chơi ở quầy hàng lưu niệm, cậy đáy nó ra, nhét mảnh giấy sáng nay anh viết vào trong. Thế rồi anh đi đến khu gửi quà và gửi nó đi đâu đó. Sau đó, chúng tôi xuống phố và ăn ở một quán bình dân.
Kite lấy ra một tờ giấy khác, đưa cho tôi, nói:
“Đây là kịch bản bằng chứng ngoại phạm cho cái xe. Tôi đã gửi bản tương tự cho người của ta ở công ti cho thuê xe, nếu cần thiết, anh với hắn ta sẽ hợp tác để diễn một vở.”
Tôi đón lấy tờ giấy, nuốt nốt miếng đang dở trong mồm và bắt đầu nheo mắt đọc.
“Tôi gặp anh ta trong một quán rượu, nếu để cụ thể thì là quán Men&Steel. Anh ta lúc đó trông rất buồn đời, giống một người bán hàng không đạt đủ chỉ tiêu. Quán thì khá vắng, tôi mặc bộ đồ cũng chỉn chu nên chắc anh ta tiếp cận với ý muốn tôi mua hàng. Trao đổi một lúc thì tôi biết được anh ta đến từ một công ti cho thuê xe.
Anh ta đề nghị một kèo cá cược, cá rằng: chiếc ly tiếp theo trong quầy sẽ được rót vào bằng màu gì. Tôi đoán là đỏ rum do vị khách gọi đồ uống trông như đang rất lạnh, ông ta sẽ cần một ly rum để làm nóng người. Trong khi đó, anh ta đoán là vàng hổ phách. Tôi thắng kèo cá. Anh ta giả vờ buồn khi thua cuộc. Tôi biết là anh ta giả vờ vì kèo này rất có lợi cho anh ta: tôi thắng cuộc thì thuê xe sẽ được tặng miễn phí một buổi với mẫu xe mới nhập của công ti, nếu tôi thua cược thì tôi vẫn sẽ thuê xe. Anh ta bán được hàng rồi, chắc là tôi đã mắc mưu.
Tôi quen anh Kite ở một buổi triển lãm xe. Kite lái rất ổn nên tôi đã hẹn anh cùng thử chiếc ấy trong buổi sáng đó.”
“Nếu anh trả lời lưu loát quá thì sẽ rất giống đọc lại kịch bản. Đừng học thuộc, học ý chính thôi, khi buộc phải trả lời thì hãy nhấn nhá dài ra để tỏ vẻ mình đang nghĩ ngợi.”
Từ góc nhìn của tôi, đây là một câu chuyện bình thường. Kite viết không quá rành mạch, thông tin lẫn vào nhau nên nếu không đọc lại lần hai thì cũng khó nắm được mọi cột mốc. Thế rồi, đột nhiên, tôi cảm thấy thứ gì đó, một gã ở hướng 2 giờ đang nhìn chằm chằm về bàn chúng tôi.
“Chúng ta bị bám đuôi.”
“Ừ, tôi nhận ra rồi, hiện tại có khoảng sáu tên.”
“Chúng có trình độ thấp nên lộ liễu thế à?”
“Không, chúng cố tình để chúng ta phát hiện. Bọn này xác định là liều chết đấy. Nếu giết được chúng ta thì chúng sẽ giết ngay trên phố, dù có bị treo cổ cũng chấp nhận. Ngược lại, nếu bị chúng ta giết, bọn nó cũng thành công đẩy chúng ta vào một vụ trọng án. Một lũ chuột đeo bom bò vào hang tối, chỉ có đi tiếp, không có rút lui, bởi vậy, chúng không sợ bị phát hiện.”
Kite thản nhiên đáp trong khi tôi cố quan sát những vị trí phản chiếu và định hình lại cái quán. Tên hướng 2 giờ là chắc chắn rồi, ngoài ra có một tên đằng sau lưng Kite, hơi chếch góc nên tôi nhìn được, hai tên khác ngồi ở gần cửa, một tên đứng bên quầy, một tên ở sau tôi chếch về phía bên phải.
“Đừng tỏ ra dấu hiệu gì đặc biệt, chúng ta sẽ rời khỏi quán theo một cách thông thường và đi về phía bưu điện, suốt quãng đường, tôi sẽ không quay sang nói một câu nào, hãy thật tập trung và lao theo tôi vào con ngõ. Nuốt tờ giấy đi.”
Tôi nuốt những miếng sau với cái mồm nhạt thếch. Tuy rằng đã quen với sự căng thẳng và hay để tính mạng mình treo lủng lẳng trên dây, đây là lần đầu tiên tôi bị đặt vào tình huống thế này. Bọn tôi không thể giết chúng. Chúng thì sẵn sàng nổ súng trên phố nếu cần thiết. Kite vẫn cố tỏ ra bình tĩnh dù tôi thấy những đầu ngón tay của anh ấn chặt vào bàn.
Kite đứng dậy trước, miết tay vào bàn tạo ra tiếng kêu ken két của mồ hôi. Gân tay anh nổi rõ và mồ hôi ra nhiều hơn. Tôi thì cũng chẳng khá hơn là mấy, nhanh chóng đứng dậy vào theo người đồng nghiệp của mình ra quầy để trả tiền. Tôi tận dụng khoảnh khắc đứng lên để lướt một đường bao trọn những kẻ bám đuôi. Thể hình của chúng thuộc dạng tầm trung, dễ hòa vào đám đông, trừ tên đang đứng bên quầy phải cao ngang ngửa Gauntlet.
Bất cứ lúc nào chúng tôi cũng có thể dính một phát đạn vào đầu. Từng tích tắc trôi qua thật chậm. Tôi đã nghĩ tính mạng của Kite và mình chỉ dựa vào sự may mắn. Bọn chúng không phải là cảnh sát vì trên lý thuyết chúng tôi trong sạch hoàn toàn. Bọn chúng là một tổ chức nào đó đang nhắm đến Kite - kẻ sở hữu quyền lực không nhỏ trong thành phố này.
Sát khí và những hành động gượng gạo được từng vị khách trong quán cảm thấy rõ ràng, tôi có thể nhìn thấy sự kinh hãi trong đôi mắt họ. Chúng tôi bước, bọn chúng bước theo, dí sát như loài kí sinh chết tiệt. Ra đến ngoài đường, chuyện vẫn như thế, chúng tôi rảo chân về phía bưu điện còn bọn kia vẫn cách một khoảng không đổi.
Những con ngõ cứ qua dần, qua dần, mỗi lần nhìn thấy một góc khuất lại là một lần tôi căng người lên để sẵn sàng nhảy theo Kite. Nhưng tính đến hiện tại, vẫn chưa hề có gì xảy ra, chỉ còn hai con ngõ cho đến khi hết đường. Chúng tôi sẽ phải hành động sớm thôi.
Tôi vẫn nhớ khoảnh khắc ấy, rõ ràng là tiếng súng nổ trước còn Kite lao vào người tôi sau. Anh bị động trong việc này và con ngõ nào không phải do anh chọn. Chúng chỉ là nơi để ẩn nấp thật nhanh khi sự kiên nhẫn hiếm hoi của đám kia cạn. Kite đã dính đạn, tôi đã nhìn thấy máu anh loang ra trên áo một cách nhanh chóng, thế nhưng anh vẫn rút súng, tháo vát tận dụng những đồ đạc gần đó để giữ khẩu súng sao cho nòng hơi thò ra ngoài. Anh đang lừa bọn nó để câu thời gian.
“Nào, chúng ta sẽ trèo sang phía bên kia đường.” Kite nói, tay bịt chặt vào vết thương, mặt nhăn nhó.
Anh đặt bước đầu tiên lên một hộp gỗ cũ, bước thứ hai lên thùng rác, thế rồi, anh khụy xuống, ngay ở chân tôi. Đó không phải một cú trượt chân thông thường, tôi thấy cơ thể anh sụp xuống một cách mất tự chủ như nóc căn hầm bị đánh bom. Anh chịu chấn thương rất nghiêm trọng trong phát đạn ấy. Máu bắt đầu nhỏ lên màu sơn xanh bẩn thỉu của thùng rác.
“Nào, chúng ta sẽ trèo sang bên kia…đường.” Tay Kite nhuốm hỗn hợp tởm lợm từ rác và máu của chính mình. Anh lại nói với tôi câu đó trong khi tôi cúi mình xuống để xốc anh dậy. Đây không phải lần đầu tiên tôi chứng kiến đồng nghiệp mình bị bắn nhưng chắc chắn chưa một lần nào tôi cảm thấy mình có nhiều suy nghĩ như lúc này.
Thật buồn cười, tôi mới chỉ quen anh ta vài ngày, tôi còn đến đây với tâm thế không muốn kết thân. Chính tôi cũng không biết mình sẽ có cảm xúc cho đến tận khi nhìn anh ta gục xuống. Có phải vì khi nãy anh ta đã đỡ cho tôi phát đạn đó không? Không, tôi không rõ.
Tiếng hò ngoài phố văng vẳng sau lưng tôi, có lẽ người ta đã bắt đầu la hét vì tiếng súng. Đám kia sẽ chịu áp lực và sẽ sớm lao vào đây – như tôi hồi còn làm trong băng đảng, bởi vậy, tôi cần nhanh hơn nữa. Tôi cúi đầu mình thật sâu, tóc mái rủ dài trước mũi tôi, cố nhìn xem vết thương của Kite ra sao. Một tiếng thở dài được thốt lên trong vô thức sau khi thấy viên đạn không ghim vào nội tạng, trường hợp này tôi đã gặp khá nhiều lần và cũng coi như có kinh nghiệm.
“Bình tĩnh nhé!” Tôi hét trong khi xốc Kite qua vai mình. Sức nặng đè lên tôi ở một mức vừa phải, đủ để tôi có thể vươn chân hơn nửa mét để đặt bước lên những món đồ chất đầy trong ngõ. Chỉ một lúc sau, tôi leo được tới đỉnh.
Ở khoảnh khắc đó, tôi vẫn nhớ kĩ lúc đấy là lúc mình lấy hơi vào phổi, khoang đầu tôi tĩnh lặng trong một luồng gió lạnh mới tràn vào. Đấy suýt nữa là hơi thở cuối cùng của tôi. Trong sự lặng lẽ đến dị thường, tôi nghe được tiếng cò súng được kéo của một khẩu ổ xoay. Chúng thường được dùng trong những vụ ám sát trên phố vì nhỏ gọn, dễ cất giấu nhưng vận hành thì cũng rắc rối và mất thời gian.
Trước mặt tôi là phía bên kia con ngõ, ngăn cách với bên này bởi một hàng rào lưới - nơi mà tôi đang đứng là đỉnh của nó. Cách mặt đất phải hơn hai mét. Kite đang nằm trên vai tôi, chúng tôi là một mục tiêu mà thậm chí kẻ mù với may mắn cũng có thể bắn trúng. Tôi đã lựa chọn nhảy, thả mình vào không trung trước tiếng nổ một đơn vị thời gian nhỏ đến nỗi không thể miêu tả được.
Sự nhẹ nhõm khi rời khỏi mặt đất nhanh chóng chuyển thành cơn hoảng loạn sau từng tích tắc rơi tự do.
Tôi chúi người về phía trước khi đáp đất, bàn chân đau điếng và tê dại, tiếng đạn vang sau lưng rõ ràng đến sợ. Vai tôi bắt đầu cảm thấy những tiếp xúc đầu tiên với sự nhớp nháp và nóng của máu thấm từ áo Kite ra. Tôi vác anh chạy một mạch về một bệnh xá gần đó với sức lực không biết lấy từ đâu. Chúng tôi đã để lại rất nhiều dấu vết, nhưng thà để như vậy còn hơn Kite chết.
Ở thành phố của tiền và tội phạm này, việc người bị bắn là chuyện không hiếm gặp và hầu như mọi bệnh xá ở đây đều sẵn sàng tâm lí để đón những bệnh nhân với vài lỗ trên người. Tôi đẩy cánh cửa của bệnh xá, kêu toáng lên những câu hỗn loạn mà chính tôi cũng chẳng hiểu, một người trực quầy hét váng và tiếng lọc cọc của chiếc giường có gắn bánh xe chạy tới. Tôi đặt Kite xuống đó, anh có vẻ đã quen với cơn đau và đang chấp chớp ở giữa sự tỉnh táo với trạng thái hôn mê sâu vì mất máu.
Tôi cùng hai y tá đẩy chiếc giường thẳng đến trước cửa phòng mổ khẩn cấp thì họ đi chuẩn bị cho ca phẫu thuật. Kite vẫn đang hơi cười, chân co giật, tay đầy máu tóm vào thành giường. Tôi không biết anh đang ở trong cơn mê sảng hay đang chống chọi với nỗi thống khổ một cách kiên cường nữa.
“Này, Alex, nếu giờ tôi nói tôi chưa từng giết người thì anh có tin không?”
Kite hỏi, giọng giật, miệng cười. Tôi bối rối trước câu hỏi ấy của anh. Chúng tôi làm dịch vụ giúp người khác hạ thủ, liệu Kite đã từng giết người chưa?
Tôi nhìn đôi mắt đang liên tục co giật, nhìn cái miệng không rõ là cười hay đang cắn chặt răng đến mức tê cả lợi. Lương thiện không ở đây, rõ ràng là thế, nhưng có một thứ gì khác tồn tại, giống như một cảm giác mơ hồ về việc phía sau tấm rèm treo cửa đen kịt là một chậu hoa nhỏ đặt sát kính để ngóng trông ánh nắng.
Bằng phép màu và sự ảo tưởng, tôi đã đáp lại anh một cách thật e dè.
“Tôi tin.”
Cái miệng méo mó kia nặn rõ ra nụ cười, đôi mắt cũng vậy. Trong khoảnh khắc đó, tôi đã nghĩ mình đã đúng, và thực sự thì có những người bị hiểu lầm.
“Haha, anh lại bị lừa rồi. Tôi, đã từng giết người. Tôi, sẽ không nhận được sự che chở của Đấng Tối Cao nữa… cầu nguyện là vô ích... Giữ những lời kinh cầu cho mình đi, vì sẽ chẳng ai cất chúng lên khi chúng ta chết đâu…”
Tiếng Kite cười đầy kinh dị và đáng thương cứ yếu dần, hai y tá và một bác sĩ trở lại trong trang bị đầy đủ. Tôi có nghe loáng thoáng tiếng người ta an ủi tôi và bảo rằng tôi có thể ngồi chờ ở đây. Nhưng trong khoảnh khắc đó, tôi chỉ thấy sự sợ hãi - một nỗi sợ mà lũ chuột thối nát đã từng trải qua. Một nỗi sợ chết thuần túy tới từ mong muốn đeo bám thế giới này. Khi những kẻ như chúng tôi được thanh lọc bởi những kẻ như chúng tôi, khi rác đè bẹp rác, đó là niềm hân hoan của thành phố này. Đứng về phía sinh mạng của Kite, không chỉ không có thần thánh mà ngay cả loài người cũng không góp mặt.
Kite chết, đó là một niềm vui ấy chứ?
Nhưng không phải với tôi, và vì tôi cô độc với cảm giác này, tôi thấy thật sợ hãi.
Cuộc phẫu thuật trôi qua một cách êm xuôi, tôi bị nhắc nhở vì đã vác bệnh nhân không cẩn thận khiến cho viên đạn vào sâu hơn. Kite về nhà ngay trong sáng hôm sau, công việc ở bảo tàng tạm thời được chúng tôi gác lại. Ông Brandy có gọi điện hỏi thăm, cũng nói là không cần phải lo về công việc ở bảo tàng và nơi đây sẽ luôn sẵn sàng cho chúng tôi trở lại.
Kite nằm trên sofa trong phòng khách suốt, theo chuẩn đoán của bác sĩ, anh sẽ cần nửa năm để tĩnh dưỡng về cả mặt tinh thần lẫn thể xác nhưng tôi tin anh sẽ rút ngắn khoảng thời gian đó lại rất nhiều. Từ lúc tỉnh lại, anh luôn đọc báo, nghe đài, tìm kiếm các tin tức.
“Người bị hại là Kite Kenson, một nhân viên viện bảo tàng thành phố. Vì có đồng nghiệp đi cùng cứu thoát nên anh đã may mắn giữ được mạng và đang có tình trạng sức khỏe ổn định. Băng nhóm manh động kia đã tẩu thoát khỏi hiện trường. Đây lại là một vụ được thực hiện bởi nhiều đối tượng sau vụ của võ sĩ…”
Tôi và Kite im lặng trước bản tin đó, anh có vẻ như nhẹ lòng hơi, thả người chìm sâu hơn vào chiếc ghế êm ái. Thế rồi, đột nhiên, người đồng nghiệp của tôi cất tiếng khi tôi nghĩ anh đã chìm vào giấc ngủ.
“Anh vào nhà kho lấy hộ tôi cái mô hình gỗ có hình cánh chim ra với. Nếu tôi không nhầm, chúng ta sẽ chuẩn bị đón khách.”
Tôi bỏ tờ báo xuống, làm theo lời Kite nói. Căn phòng gọi là kho này lộn xộn một cách khó thể tưởng tượng, tôi không thể xác định nó chứa những gì nữa. Có những chai lọ thủy tinh bóng loáng mà lần đầu tiên tôi đi lướt qua đã nhìn thấy, có những hộp dụng cụ làm bằng sắt, gỗ và nhiều vật dụng lớn cỡ cái bàn được nhét vào đó. Nhưng để nói về mặt tổng thể, nó rất bình thường, không giống một cái hầm tội ác bí mật.
Mô hình mà Kite nói là một cặp cánh được khắc bằng gỗ, một bên cánh dựng cao, kiêu hãnh, tràn đầy sức sống một bên rủ xuống, phờ phạc và xơ xác. Tuy rằng độ hoàn thiện của nó vẫn còn chưa cao nhưng cái hồn của nó rất rõ ràng. Hai cánh được gắn vào một khối gỗ hình chữ nhật cứng, đứng được như những chiếc cúp. Tôi đặt nó trên bàn trước mặt Kite để hỏi anh xem có đúng là thứ này không.
“Đây rồi, phiền anh lau nó hộ tôi nữa, đừng để bị bụi, chậc, đoạn này đáng nhẽ có thể làm đẹp hơn mà lại trượt tay mất, cắt bỏ cả một phần khiến nó chẳng cân đối lắm.”
Kite rên rỉ bằng giọng của người ốm nặng. Tôi nhanh tay làm theo lời anh nói.
“Anh khắc cái này đấy à?”
“Ừ, một buổi chiều. Đôi khi, chúng ta phải vắng mặt vì những phi vụ, hãy làm láng giềng tưởng rằng chúng ta có một sở thích tốn thời gian để đỡ bị nghi ngờ. Lại nói về nghi ngờ, đám kia không bị bắt, chúng sẽ không khai những bằng chứng về ta. Cảnh sát thì chưa đến hỏi thăm, điều này hơi bất thường. Tuy rằng có tỉ lệ là những vụ nhỏ và không nguy hiểm đến tính mạng được bỏ qua nhưng tôi vẫn muốn tận tay lừa và nhìn lời khai bịa đặt được viết vào sổ.”
Kite xoay người trên ghế, lại quay lại trạng thái ngủ cho khi tới bữa. Đến xế chiều ngày hôm đó, đúng giờ tan tầm, chúng tôi nhận được những tiếng bấm chuông gấp gáp. Kite đưa mắt cho tôi, gật đầu, anh đang ra hiệu rằng mình đã đoán trước được chuyện gì chuẩn bị tới. Tay nắm cửa được tôi vặn một cách từ tốn và thật nặng nề, nhỡ như người đang đợi là cảnh sát…
Không, đó là một người thanh niên thấp bé, trẻ, có dáng sinh viên, sự năng động và sức sống ngập trong đôi mắt. Anh ta có một mái tóc trông rõ ràng là được chăm chút kĩ, mặc một bộ đồ chỉnh tề với điểm nhấn là chiếc cà vạt sáng màu đầy họa tiết tinh nghịch. Về tổng thể, đứng trước mặt tôi là một người có cá tính, và có thể hơi mộng mơ hoặc là trẻ con.
“Anh chắc hẳn là người đồng nghiệp đã cứu Kite. Câu chuyện của cả hai thật đáng để được nhắc đến thêm nhiều lần nữa trên các mặt báo và đài!”
Kite trong nhà lên cơn ho sặc, tôi cũng gờn gợn cổ họng. Quý ông đây thăm bệnh bằng lời chúc ngược lại hoàn toàn những gì chúng tôi muốn.
“Vâng, mời anh vào nhà.” Bằng phép lịch sự, tôi đáp lại. Người thanh niên có vẻ đã quen tới nhà tôi nhiều lần nên rất thành thạo về chỗ treo áo và những vị trí khác. Thậm chí, tôi không dám nhận mình biết nhiều như anh ta.
“Xin thứ lỗi vì tôi không thể đứng lên tiếp, vết thương nặng quá.” Kite mở lời trước.
“Xin anh cứ nghỉ ngơi! Ôi, đây là cái mô hình về ý tưởng hồi trước anh nói với tôi à? Thật tuyệt! Những nét đục này rất độc đáo! Có cảm giác như chính anh đã đeo đôi cánh này và tả lại nó vậy!”
“Đừng quá lời vậy, độ hoàn thiện của nó còn chưa cao, đợi khi khỏi đợt này, tôi sẽ tiếp tục. Drum, đây là Alex, đồng nghiệp và ân nhân tôi. Alex, đây là Drum, phó chủ tịch hội chơi mô hình thành phố. Anh có thể hỏi Drum về bất cứ thứ gì. Sắt, gỗ, carton, giờ còn có đá nhân tạo với gỗ ép nữa, Drum thông thạo về mọi loại mô hình.”
Drum cười sảng khoái khi được khen, tay đeo găng tay vào rồi mới cầm đôi cánh lên. Anh ta có vẻ không biết gì về những phép lịch sự cơ bản, hoặc là vì quá ham mê vào món đồ nên quên mất cả bối cảnh quanh mình.
“Cái này tầm 3 ngày công hả?”
“Tôi còn kém, tốn tận 5 ngày, vậy mà vẫn còn chưa xong hẳn.”
Drum hỏi một câu và Kite trả lời một đáp án khác, khác hẳn với những gì đã trao đổi với tôi. Dứt lời xã giao và có được thông tin mình cần, Drum tiếp tục đắm chìm vào những chi tiết trên đó. Phải tầm mười phút trôi qua, Drum mới buông một hơi thở dài thật nặng. Kite hơi giật mình như vừa thức dậy từ giấc ngủ, tôi gấp tờ báo mình đã đọc đến lần thứ ba lại, căng tai ra để nghe nhận xét từ anh chàng kia.
“Cảm ơn vì chuyến đi, tưởng tượng những gì mà người mang đôi cánh này trải qua thật là một trải nghiệm điên rồ. Mô hình với tôi chính là như vậy, để trốn khỏi thế giới này. Tôi không thích hàng đại trà đang dần trở nên phổ biến hiện nay mà thích những món được làm từng chi tiết bằng tay như của anh, Kite ạ. Đây, hôm nay đến thăm người bị bắn lần đầu tiên, tôi không biết quà cáp gì cho phải nên đành tặng chai rượu này.”
Drum nói một tràng xúc động kèm những tiếng thở mạnh trong khi lục chiếc cặp nhỏ để rút chai rượu ra. Chai này có khổ bé, thân màu đỏ rất đậm đến ngả sang nâu, trông qua như chai thuốc, có niêm phong rõ ràng bằng sáp phủ đầy quanh nắp. Tôi có thể đoán được giá trị của nó là không nhỏ. Kite là một người đáng quý với Drum đến thế sao? Hay chỉ là vì tài chính của anh ta dư dả nên có thể mua đồ sang tặng bạn.
Vị phó chủ tịch chả lịch sự hay lễ nghĩ gì mấy, bỏ về luôn, tôi bắt đầu nghĩ anh ta ít khi gặp người khác. Một người sống trong nhà quanh năm, nhợt nhạt, nhỏ bé, chìm vào những món mô hình. Anh ta không đáng ghét, sự hồn nhiên của anh ta giống những đứa trẻ. Tôi cũng có thiện cảm đôi chút với Drum khi nghĩ kĩ.
“Drum là một người nhiệt tình, tốt tính, anh sẽ làm mọi thứ để bảo vệ người mình yêu quý trong những cuộc tranh luận. Tài chính của anh ta thuộc vào hàng không phải lo nghĩ, tiêu tiền không vào những bữa ăn của mình mà dồn vào mô hình nhiều hơn. Có thể nói, Drum sống cuộc đời sung sướng của riêng mình.”
“Anh khắc cái kia trong 5 ngày hay một buổi chiều?”
“Cất lại vào kho đi, một buổi chiều khác tôi sẽ hoàn thành nó.”
Kite không trả lời thẳng vào câu hỏi nhưng tôi cũng tự đoán được. Hôm đó, anh nói rằng chúng tôi nên ăn tối sớm vì nhỡ có khách tới vào giờ muộn hơn nên ngay sau khi Drum về, các món đã được bày lên. Bữa ăn kết thúc lúc 7 giờ tối, suốt bữa, Kite đã ngồi được. Anh trông như đang cố làm quen với đau đớn chứ không phải vết thương đã đỡ.
Thời gian của ngày hôm ấy cứ trôi qua thật chậm. Tôi thì đọc báo và sách, não vẫn canh cánh chuyện cảnh sát có tới hay không. Kite thì nhắm nghiền mắt, không rõ đang ngủ hay đang thức. Tôi thường thấy anh có một giờ giấc sinh hoạt bất thường nên khi ốm bệnh càng khó đoán hơn.
Đột nhiên, tầm sau 9 giờ tối, chuông cửa kêu rất lạ. Nó kêu 4 tiếng liên tục, ngừng một chút, tiếp đến kêu 3 tiếng ngắt quãng nhau. Kite bừng tỉnh, ánh mắt gấp gáp của anh khiến tôi chạy ra mở cửa nhanh hơn. Ngay khi cửa hé ra, người đàn ông kia lách vào nhà ngay lập tức rồi mới bỏ chiếc mũ cao bồi dài cả mét trên đầu xuống. Anh mặc một chiếc áo thun ngắn tay trong một chiếc áo khoác da, trông qua là kiểu thanh niên có số đào hoa.
Tôi ngớ người ra một chút, cảm giác như mình đã từng gặp người này ở đâu. Anh ta hành động bí hiểm giống một người trong tổ chức nhưng không phải, tôi thấy khuôn mặt này ở một chỗ khác.
“Rust.B.McRust?” Tôi gần như đã hét lên khi thấy tay đua nổi danh ấy trong nhà mình. Anh ta là một người có tiếng tăm trong giải đua xe chuyên và bán chuyên, đến mức mà cả cụm từ tôi vừa thốt lên cũng là tên do truyền thông đặt cho anh, chữ B là viết tắt của “Bolt”, cộng với từ Rust có thể hiểu là đinh gỉ mà cũng có thể hiểu theo nghĩa hoa mĩ hơn.
Nhưng thay vì nụ cười tỏa nắng với cánh tay cầm mũ bảo hiểm vẫy cao mỗi khi ra khỏi xe, Rust hôm nay ám một tâm trạng ủ dột và phẫn nộ. Đôi mắt anh rắn đanh lại như đang cố chế ngự điều gì đó trong khi hai vai thõng xuống, khuôn mặt trầm lặng giống bị hớp hồn. Kite bật dậy khỏi ghế, mặt nhăn lại vì đau đớn hoặc lo lắng, hỏi ngay:
“Rust? Cậu sao đấy?”
“Thằng khốn đó đã hại chết Nail rồi!”
Rust gào lên một tiếng và tôi thấy rõ sát khí nổi lên trên mặt Kite. Anh không có vẻ gì là muốn giải quyết vụ này theo một cách thông thường cả. Anh thậm chí còn chẳng biết lý do cái chết, hoặc chuyện gì thực sự đã xảy ra, bản năng anh dường như đã phản ứng với từ “chết” bằng cách đưa ra khái niệm “trả thù”. Bằng toàn bộ sức lực mình đang có, Kite gồng lên và đứng dậy, tập tễnh đi về phía Rust và ôm lấy tay đua ấy. Tôi đứng thẫn người ra vì không hiểu chuyện gì, chỉ biết chắc chắn là mối quan hệ giữa Rust với Kite rất thân thiết.
Sau một lúc, họ mới ngồi lại xuống ghế và bắt đầu câu chuyện. Rust quệt nước mắt mình bằng tay áo một cách tự nhiên, lặng trong một nhịp thở sâu rồi bắt đầu nói, sự nghiêm trọng mà anh biểu lộ lây cả sang tôi khiến việc hô hấp trở nên khó khăn hơn, lồng ngực cứ như muốn dừng thở để giữ bầu không khí này thật tĩnh mịch và trang nghiêm..
“Đầu tiên thì tớ rất xin lỗi vì đã làm phiền trong lúc cậu có vết thương ấy. Tớ vừa từ nước ngoài về vì vụ này, mới xuống tàu đã tới đây luôn. Nail bị thằng quản lý của cậu ấy ép đến mức phải chết rồi!”
“Vậy hắn phải đền cho cái tội đấy bằng cái chết của chính hắn.”
Tuy đã đoán trước được, tôi vẫn hơi bất ngờ trước câu nói của Kite vì nghĩ anh luôn thận trọng, thế nhưng, như thấy được suy nghĩ của tôi, Kite nói trong khi Rust đang ổn định lại tâm lí một lần nữa.
“Rust là người còn thân hơn cả ruột thịt đối với tôi. Nếu phải chọn tin gia đình mình với tin Rust, tôi sẽ chọn Rust. Anh đừng lo về vấn đề bí mật.”
“Cậu cũng biết từ hồi tớ sang nước ngoài cũng đã vài năm rồi. Nail thì ở lại xưởng với chủ mới, cậu thì làm công việc này từ trước. Tớ đoán là cậu với Nail ít liên lạc vì Nail không thích tán nhảm lung tung, điện thoại hay thư từ cậu ấy đều chẳng biết.”
“Cậu ấy là một con người tham công tiếc việc, những thứ đó làm mất tập trung của cậu ấy.”
Kite và Rust chia nhau một nét sáng thoáng hiện lên trên mặt - một cử chỉ dãn lông mày rất ngắn và nhỏ mà tôi vừa chứng kiến. Họ đang hồi tưởng về người bạn quý giá ấy, chắc vậy.
“Ừ, chính thế. Thế nhưng mà mới hôm trước, tớ nhận được một lời nhắn qua điện thoại. Nó đọng lại từ đêm trước đó, do tớ không kịp bắt máy nên chỉ còn là lời nhắn. Đó là từ Nail, tớ có mang bản sao lưu ở ngay đây, mọi thứ đã được giữ bí mật.”
Trong nhà có bốn cái đài, Kite đưa cuộn băng cho tôi và tôi chỉ cần chạy đến một trong số chúng để lắp vào. Rust lại gục đầu xuống thật sâu, ôm sọ như sợ những âm thanh ấy. Sau tiếng lách cách, giọng của cuộn băng bắt đầu chạy trong không gian.
“Rust, tiếc là tớ không thể nói chuyện với cậu và Kite một cách trực tiếp, tớ đã phát điên với cái điện thoại rồi mà nó vẫn bảo là để lại lời nhắn. Tớ không gọi cho Kite vì biết công việc của cậu ấy, rất có thể cậu ấy sẽ làm gì manh động, tớ sẽ chỉ kể cho cậu thôi, nhờ cậu nói lại với Kite theo cách êm dịu nhất nhé.
Hồi trước, chúng ta luôn tự hào vì chiếc xe rỉ sét số 63 của mình, huấn luyện viên chiến thuật là Kite, cậu thì cầm lái còn tớ thì lo máy móc với săm lốp. Tớ vẫn nhớ như in cái lần mà cô gái cầm cờ trong giải nghiệp dư đầu tiên chúng ta thắng gọi điện gạ cậu sau cuộc đua, cả ba chúng ta châu đầu vào trêu cô ta. Thật hài hước, tình yêu tốc độ là vậy đấy, chỉ có đường đua và động cơ. Thế rồi chúng ta chinh phục đủ loại giải đấu, cho đến cuộc đua đường trường ấy, khi cậu đã thực hiện cú ngoặt đuôi số 63 mang tính thương hiệu của mình. Một thời thật đẹp.
Dạo gần đây tớ bị vắt kiệt bởi tên chủ mới, nó chửi rủa, nó rền rú, nó bắt ép tớ phải theo ý nó dù điều đó trái với quy tắc riêng của tớ. Tớ bị thế này tầm gần một năm nay rồi, nó khiến tớ mất cả tình yêu vào cái nghề tớ đã đổ máu để được làm. Cái thời với các cậu, tớ nhớ nó, nhưng tớ chỉ là một tay thợ máy có cái danh đã tạo ra chiếc Rỉ Sét 63, tớ không làm việc khác được. Ông chủ cũ là người rất tốt, tớ không muốn gara ông chết trong tay nó nên tớ đã thề rằng mình sẽ không bao giờ rời khỏi đấy.
Thật bí bách, ở chỗ tớ, không còn khúc cua nào nữa, chỉ có bức tường và vực thẳm. Tạm biệt, Rust, mong là tớ dùng cái điện thoại này đúng, nếu được, xin hãy gửi lời này của tớ đến Kite nữa. Cảm ơn hai cậu vì cuộc đời này, tớ chưa từng hối hận về bất cứ điều gì và lần này cũng vậy. Tớ luôn không giỏi nói năng, lần này cũng vậy.”
Cuộn băng kết thúc, tôi không dám nhìn họ. Đến cả tôi - một người ngoài cuộc, cũng thấy sự đau đớn trong giọng của người thanh niên đó. Nghe giọng anh, tôi nghĩ đến một người lực lưỡng, hiền lành, một người lao động điển hình như sách giáo khoa. Trong đoạn băng, tiếng gió rít gào, không khó để tôi đoán anh đã gọi cuộc gọi đó trên cầu bắc qua một con sông lớn. Anh đã gieo mình xuống đó.
Sự tò mò của tôi không thể thắng được lí trí. Tôi không hề quay mặt lại để quan sát họ cho đến khi những âm thanh đầu tiên vang lên sau quãng nghỉ dài đầy cảm xúc.
“Hắn sẽ chết trong vết bánh xe của cú ngoặt đuôi số 63.” Kite nói, giọng anh hơi run như nén tiếng khóc. Tôi biết rằng trong vụ lần này, việc buộc tội tên quản lý và bắt hắn vào tù vì hại chết người là không thể vì hắn không làm như vậy. Nhưng người đồng nghiệp của tôi sẽ tiếp nhận và xử lý dù rằng nó trái với pháp luật, vì đó là Kite.
0 Bình luận