Đoạn 1: Thành phố của máu và tiền.
Chương 08: Khúc cua tử thần (3)
0 Bình luận - Độ dài: 3,668 từ - Cập nhật:
Đêm ngày hôm sau, tôi cùng Kite ngồi trên chiếc xe đã cải tiến và tới điểm chuẩn bị. Với vị trí giữ máy kéo cáp phía ghế sau, tôi chỉ có một khoảng trống rất nhỏ để lách người vào, lom khom tóm hai bên chốt giữ cáp của hai cái máy.
Bọn tôi đỗ xe xuống vệ đường bên cạnh phần nhô ra, ánh trăng rọi rõ hai chốt kim loại đã ghim chặt vào mặt đất. Kéo cáp ra, móc vào chốt, lại lên xe ngồi ngay lập tức, việc anh phổ biến thứ cần làm trên đường đã giúp tiết kiệm kha khá thời gian:
“Để thực hiện một cú rê đuôi, tức là thực hiện một hành động di chuyển bất bình thường với một chiếc xe, các bánh xe cần phải hoạt động một cách bất bình thường. Bánh trước nhanh, bánh sau chậm. Bánh trước chậm, bánh sau nhanh. Bánh trước chết cứng, bánh sau nhanh. Vậy để bánh xe hoạt động bất bình thường thì phải thế nào?
Can thiệp trên xe là rất tốt, nhưng rất khó, cú rê đuôi số 63 là một trò may rủi cực kì nguy hiểm. Về cơ bản, nó vẫn là một cú rê đuôi bình thường nhưng điên rồ hơn, ngu dại hơn, tỉ lệ thành công thấp hơn hẳn. Nhưng bằng một cách nào đó, Rust được định mệnh cử ra để thực hiện nó. Cậu ấy đã làm nó hàng ngàn lần trong biết bao nhiêu buổi tập và biểu diễn, và, trái với điều tôi đã nói năm đó, cậu ấy luôn luôn thành công, kể cả với một tay.
Những sợi cáp này sinh ra để tăng tỉ lệ thành công của chúng ta.
Cú ngoặt đuôi số 63 gồm 2 phần.
Một là phần tăng tốc đến mức phải tự bật cười vì nghĩ mình sẽ chết và bẻ lái – một sợi cáp sẽ kéo chúng ta vào vòng cung cần thiết để tránh bị văng ra - anh phải rút nó để chúng ta có thể thoát khỏi vòng cung.
Hai là phần giật lùi lại để vẽ ra nét chéo của chữ R, một sợi cáp sẽ giúp chúng ta khựng lại dễ dàng hơn, rút nó để chạy hẳn ra ngoài.
Anh sẽ phải căn chuẩn để rút chốt cho mỗi lần. Máy sẽ luôn kéo để duy trì dây ở trạng thái căng, tránh việc nó bị mắc vào bánh, anh chỉ cần rút chốt khi cảm thấy mình cần phải rút. Và chuyện này sẽ chỉ diễn ra đúng một lần thôi, chiếc xe này chỉ là một mồi nhử. Tôi còn cần lắp cả giá súng tự động nữa…”
Kite điên mất rồi, cái xe trần trụi của chúng tôi trông như một cục thiếc được vò thô thiển bởi một đứa trẻ, nó không có bất cứ dấu hiệu nào của sự an toàn. Vậy mà giờ, anh đang lùi chiếc xe lại trên một con dốc cong queo và tôi đang ngồi trên nó! Một cái cười khẩy đã được anh ném ra, chắc là vậy, và rồi tôi bị dán chặt vào ghế. Tôi mất một vài tích tắc để lấy lại sự minh mẫn cần có vì tôi không hề nghĩ gã điên kia sẽ rồ ga kinh như vậy. Anh ta có biết chết là gì không cơ chứ!
Chuẩn bị tới khúc cua, tôi căng tay lên tóm hai cái chốt tháo dây. Bộ não thường ngày đột nhiên trở thành một công cụ mạnh mẽ đến mức khó tin, từng khoảnh khắc mà đuôi xe kéo lê trên đất, khi mà tai tôi chẳng còn nghe rõ được tiếng gì, mọi việc được bộ não làm trôi qua thật chậm. Tôi nhìn hình ảnh này, giả lập hình ảnh ngay sau đó, tiếp tục lặp lại quá trình đó cho đến khi một tín hiệu được ra.
“Ha!” Tôi đã hét câu đấy vì phấn khích và đống chất kích thích vừa sinh ra đầy trong não.
Chốt đầu tiên được rút, sợi dây kéo bắn văng ra xa như một quả bóng xì hơi, cái xe kêu một tiếng rõ to. Kite đổi số, quay đầu lại phía sau nhìn đường và hàm răng nhe ra cười của anh hiện lên thật rùng rợn không hiểu vì sao. Sợi dây thứ hai thì nhẹ nhàng hơn, tôi rút chốt chỉ sau khi Kite lùi được một vài phân. Một lúc sau, tôi mới để ý là mình đã nhướn cả hai lông mày lên, sự bình tĩnh vẫn chưa thể quay trở lại trên cơ thể đang đập thình thịch này.
“Vui nhỉ?” Kite nhếch lông mày, cười theo cái điệu khoe mẽ của các minh tinh để trêu tôi.
“Ha hà.” Tôi dằn mạnh từng tiếng cười giả để đáp lại.
Vệt bánh chúng tôi để lại trên đường rõ ràng hình chữ R thiếu nét, nó gần như một bằng chứng hiển nhiên. Hai sợi cáp ngoằn nghèo như cái dây chun đứt. Một hiện trường đồ sộ với đủ thứ thông tin, tôi nghĩ là vậy. Kite bước một cách cẩn thận, nhón chân qua các chướng ngại vật vô hình – những chi tiết mà có thể làm hỏng lời nói dối mà chỉ anh mới biết.
“Một dây bị bụi, một dây không… nhưng nói chung là rất ít bụi.”
Anh lùi lại, nheo mắt để làm gì đó. Dưới ánh trăng mờ ảo này, khá khó để quan sát tường tận từng điểm trên mặt đất như anh sẽ làm. Tôi nhìn Kite ngây ra như phỗng một lúc cũng bắt chước theo. Điểm nhìn của tôi đặt vào khu đất chòi ra mà cũng là nơi gây án, cứ nhìn, nhìn đến mức mắt dại đi và mọi vật bắt đầu mờ dần. Thế rồi, ngay sau đó, dưới sự điều tiết của mắt, mọi thứ lại rõ ràng như trước và vòng lặp ấy cứ kéo dài đến vô tận.
“Xong được rồi.”
“Nhưng nãy giờ anh đang làm gì thế?” Tôi phải ngập ngừng một lúc trước sự nghiêm túc hiện giờ của Kite.
Anh nhếch miệng cười, gật đầu để ra vẻ là mình chắc chắn sẽ nói nhưng vẫn còn chưa vội cất lời.
“Điểm tôi vừa quan sát là lá cây. Như anh đã biết, hoặc như tất cả mọi người đều biết, một thảm lá cây có rất nhiều khe trống và vì vậy nên việc quan sát một thảm lá rất khó bởi chúng ta luôn có cảm giác lá cây phân bố đều nhau rồi. Giống như nhìn vào một rổ rau, chẳng thể nói được nó đang lệch về bên nào.
Nhưng khi nheo mắt lại, tự điều chỉnh tiêu cự mắt để làm mờ, nó sẽ làm một việc là biến những gì chúng ta thấy thành trạng thái vùng màu. Tức là vùng nào lá thưa, màu sắc sẽ khác, ranh giới giữa cách mảng màu cũng rõ ràng hơn, nói chung là nó triệt tiêu yếu tố gây sao nhãng là các khe hở giữa các lá. Tôi dùng cách đó để nhìn rõ những dấu vết để lại trên thảm lá.”
Tôi trầm hẳn xuống, tựa lưng lên ghế một cách rõ ràng hơn lúc trước, sốc trước cái mẹo điên rồ này của Kite. Anh – cũng như tôi – đều thấy được đối phương đang biểu cảm gì nên chỉ cười một tiếng đắc thắng. Tôi thấy hơi ngứa ngáy trước việc chúng tôi chưa thể thành thật lắm, cả hai vẫn còn rất kịch.
“Về lắp giá súng tự động, ngủ một giấc, mai đi giết người.” Kite ngân nó thành một giai điệu rất thơ, rất rất thơ là đằng khác. Nó chạy vào tai như một dòng điện, tôi rùng mình, run rẩy, nó thậm chí nảy qua nảy lại trong đầu. Chữ “giết” được dằn xuống như một cái bánh tạm thời bị dí dù người làm ra nó biết rằng chỉ rất sớm thôi, nó sẽ nở bung lên.
Chiếc xe vào trong một gara khác. Cái trước đó đã được thu dọn vì Kite bảo tuyệt đối sẽ không để cho bất kì ai thấy một cái xe ra vào cùng một địa điểm. Nơi chúng tôi tới lần này cũng nằm trong một góc khuất, tất cả chỉ có một hộp dụng cụ, một nguồn điện và một thiết bị mà theo lời anh là giá đỡ và bắn tự động. Bọn tôi lắp đặt chúng một cách rất nhanh.
Thế rồi, khi mọi chuyện đã xong, tôi vẫn đứng bên chiếc xe như chờ đợi hiệu lệnh tiếp theo.
“Thế có về không?”
Tôi hỏi sau một lúc lâu nhìn anh trầm ngâm giữ vô lăng.
“Không, tôi quá lười để ra đường rồi lại còn phải lén lún, ở đây luôn đi.”
Kite ngả đầu lên cái ghế đã được tối giản hóa, tức là đã được gỡ hết đệm, hết xốp, hết vải, chỉ trơ ra một lớp khung kim loại lạnh toát. Anh nhắm mắt lại dù ánh đèn dây tóc lờ mờ trên đầu vẫn còn sáng, báo hiệu điểm kết thúc của ngày hôm nay. Kite luôn dậy đúng ở khoảng thời gian anh muốn, tôi nghĩ là vậy, và anh rơi vào giấc ngủ cũng rất nhanh.
Tôi co người vào góc của căn phòng, kéo một đầu gối lên, không hề tắt đèn mà đã thả lỏng ra để chuẩn bị ngủ. Tư thế được coi là tra tấn cột sống này là cách ngủ thường thấy của tôi từ cái hồi mà thứ để dựa lưng là bức tường âm ấm nằm trên cái cống xả nước luộc của nhà hàng. Nguồn nhiệt kì dị đó sưởi cho tôi sống qua những đêm lạnh.
Nửa đêm, một tiếng động làm tôi sực tỉnh. Đó là Kite. Anh không còn ngả đầu lên ghế mà gục trên vô lăng, rũ rượi như vừa trải qua một trận đánh căng thẳng. Đôi mắt xanh kia mở trừng trừng nhưng rồi lại dịu xuống thật nhanh. Tính lí trí cần thiết của một con người quay lại trong cặp mắt đó, nó hơi buồn nhưng không hề bất ngờ vì sự mất kiểm soát của bản thân vừa xảy ra.
Anh vuốt tóc ngược ra sau, tự hích lên một âm thanh ngắn như tiếng cười động viên chính mình rồi lại ngửa đầu ra ngủ.
Tất cả những điều đó được tôi thấy qua một nửa con mắt trong tư thế y hệt như cũ. Nhưng dù là vậy, tôi vẫn không dám chắc Kite hoàn toàn không biết tôi đã tỉnh, nhưng một phần nào đó trong tôi trấn tĩnh lại rằng việc anh để tôi trong cùng một không gian ngủ đồng nghĩa với việc anh đã đoán được việc gì có thể xảy ra.
Mà từ bao giờ tôi đã coi Kite toàn năng thế này?
Anh ta cũng chỉ là con người thôi, vậy mà càng lúc tôi lại càng thấy anh ta là một tay đạo diễn thâm niên đang xem và dẫn dắt tôi diễn trò. Tôi ghét mà cũng không thể ghét cảm giác được hoặc bị nhìn thấu như bây giờ. Tôi thấy khá an toàn, có lẽ đây chính là suy nghĩ của những con vật nuôi trong nhà. Chúng biết mình không thể giấu, hoặc chỉ giấu một cách thô sơ để đảm bảo người ta thấy được, chúng vui vẻ khi có người suy nghĩ hộ đến từng chi tiết.
Nghĩ đến đây thì tôi không thể ưa nổi mình nữa rồi, tay chân ngứa ngáy như bị dính keo vì cảm giác ghê tởm chính những suy nghĩ buông bỏ của bản thân.
Tôi đứng dậy, rón rén từng bước và khe khẽ mở cánh cửa có chiều ngang khiêm tốn đến mức phải lách người mới qua được. Cơn gió lạnh xé tan cái ngoáp ngủ, chân bắt đầu nhẩn nha từng bước nhỏ và ngắn. Ngày mai là ngày tôi giúp giết người rồi, ấy vậy mà cảm giác thật bình thường. Người ta đang xúng xính trong vài lớp áo đông đẹp rồi, ấy vậy mà tôi vẫn chỉ khoác tạm manh vải này.
Tôi liệu còn là con người không? Thích được tính toán hộ như một con cầm thú, không biết ghê tởm khi giết hại chính đồng loại của mình như loài máu lạnh, không cảm thấy thời tiết thay đổi như nòi giáp xác.
Thật buồn cười và trống rỗng.
Tôi thậm chí còn không thấy bất cứ phần nào trong mình đòi được thoát khỏi trạng thái này, khỏi bóng tối của thành phố. Dường như những tế bào cũng phát triển nhanh hơn để kịp liền vết dao chém và cứng cáp hơn để thoải mái phong phanh. Không một ai lo cho tôi cả, giờ, dù tôi có ngã xuống dòng sông kia như biết bao con nợ, cũng không ai khóc cho tôi cả.
Kite đã nói đúng, mà lại nói đến Kite, tôi lại thấy mệt mỏi.
Cái vỉa hè dài đằng đẵng hết nhanh thật. Tôi thường không có nhiều suy nghĩ đến như thế này và chưa từng thấy thời gian có thể bị rút ngắn bởi suy nghĩ mình. Một vũng nước bị dẫm vào tạo ra tiếng nhớp nháp hệt như những vũng máu mà tôi từng phải nai lưng ra thấm hồi còn ở đội dọn dẹp. Tôi không muốn dừng lại.
Nhưng đó là cho đến khi tôi thấy một ánh chớp lóe lên trong con hẻm gần rạp chiếu bóng. Sau một lúc ngẩn người vì nhận ra mình đã đi xa đến nhường nào, tôi chăm chú vào thứ đang lập lòe kia. Nó có dạng hình bán nguyệt, ít nhất là tôi đã thấy nét cong đung đưa qua lại theo nhịp. Nó cứ như thế mãi đến mức tôi phải tò mò bước tới gần vì muốn hiểu đó là gì.
Mong là không phải một con dao đang được mài qua mài lại.
“Giờ này mà anh vẫn còn thức thì quả là kì lạ thật.”
Đó là tiếng của cô Vellington.
Tôi thoáng ngừng lại trước bóng đêm của con hẻm nhỏ. Vellington bảo tôi lạ, nhưng lạ là lạ thế nào khi giờ này rồi mà cô còn đang ở ngoài đường, dính dáng đến một vật kim loại sáng bóng trong một con hẻm đáng nghi. Tôi đã nghĩ đến chuyện bỏ chạy, thậm chí đã tưởng tượng ra cách ghìm lưỡi dao chuẩn bị đâm vào ngực mình từ Vellington như thế nào.
Đúng lúc đó, một sinh vật ấm áp va vào chân tôi khi đang chạy nhanh vào hẻm. Con mèo đó có quay lại và giương đôi mắt to tròn lên như hai quả cầu lơ lửng giữa không trung vào tôi. Rồi thêm những quả cầu tương tự hiện ra. Chúng đã phát hiện ra sinh vật lạ ở đây – tôi. Bằng một cách nào đó, hàng chục cặp mắt mèo trông thật đáng sợ.
“Vào đây đi.”
Vellington nói vậy.
Nó quá tệ cho một lời đe dọa hoặc dụ dỗ, nhưng vì nó quá tệ nên nó có thể làm người ta mất cảnh giác, hoặc là nó không phải một lời đe đọa hoặc dụ dỗ. Tôi chết mất, cái đầu toàn cảm giác kinh tởm nãy giờ không thể nghĩ thông được bất cứ thứ gì.
Nhưng tôi đã bước vào.
Vellington mặc một bộ đồ, không phải váy, còn trông thế nào thì tối quá chả rõ. Cô đang cầm một cái chảo, liên tục vung qua vung lại trên một cái nồi móp méo đổ đầy thức ăn vụn nấu lẫn với nhau. Bọn mèo hoang xung quanh im lặng như những con sói, nhanh nhảu định đớp lấy một miếng nhưng rồi lại rén cái chảo mà phải lảng ra.
“Cô làm gì đấy?”
“Bọn mèo không ăn được đồ nóng nhưng lại thích vội vàng. Tôi đảo chảo cho chúng không lao vào, nhỡ mà bỏng thì lại không ăn được, rồi lại chết… Thế anh đang làm gì mà khóc vậy?”
Sốc hơn cả nghe tiếng đạn bắn, tôi đưa tay lên gạt mắt mình. Da mặt dinh dính, nước mắt đã gần khô hết. Tôi đờ người ra một lúc và rồi vô tình bật cười. Thật kinh dị, rốt cuộc tôi đã đi loanh quanh trên đường với bộ dạng thế nào cơ chứ? Tôi đã chìm sâu vào dòng suy nghĩ hơn cả tưởng tượng.
Cô cũng cười, không quá quan tâm đến câu trả lời của tôi rồi lại quay sang gạt.
“Tôi giúp cô được không?”
“Thôi, cần gì?”
Cô hụt hơi, rõ ràng là thế, có thể cô coi cái trò vung chảo này là một bài tập nhưng đó vẫn là quá nặng. Tôi muốn giúp người vừa giúp tôi nhận ra có thể mình vẫn biết khóc như con người.
“Tôi mượn một tí, làm nóng người cho khỏi lạnh.”
Kì kèo một lúc, Vellington trao chiếc chảo cho tôi. Đáng nhẽ ra đó phải là một hành động rất nổi bật trong màn đêm im lìm này và tôi với cô sẽ phải rất trịnh trọng nhưng đám mèo lao vào nhanh quá. Tôi tóm vội cái chảo, gần như nhảy tới, xô mình vào Vellington. Một tay tôi vội kéo cô cho khỏi ngã còn tay còn lại quạt vội vàng để xua mấy con mèo đi.
“Làm… chậm thôi.”
Sự chủ động tuyệt đối – thứ làm cô lúc nãy giống một người trưởng thành đang tiếp tôi – một đứa trẻ mít ướt, biến mất. Đôi mắt xanh thiếu sáng sâu thăm thẳm như vô số cốc rượu xanh xếp chồng với nhau kia rung động như tất cả những cốc đó đặt trên bảng đồng hồ trong xe do tôi cầm lái sau khi uống hết chúng. Tôi rối quá! Lời cô nói còn làm mọi thứ rối hơn.
“Làm gì cơ?” Nếu lúc đấy nghĩ đến giây thứ hai, tôi có thể đã không hỏi câu này.
“Vung chảo ý, chậm thôi, nhanh mỏi lắm đấy, với cả nhanh quá nhỡ đập vào đám mèo thì lại khổ.”
Vellington nhẹ đẩy vai tôi ra, đôi mắt cô được giấu đi một cách cẩn thận. Suốt những động tác lùi về sau, chỉnh lại trang phục, chuyển sang chăm chú nhìn vào cái chảo, không có lấy một khung hình cho tôi chạm mắt cô.
Tôi đã suy nghĩ rất nhiều thứ, về việc đôi má hơi ửng lên kia là do tôi hay do ánh sáng hoặc thậm chí là bóng tối này. Tôi cứ trầm tư mãi, cứ vẩn vơ nghĩ về những chuyện mà Vellington có thể làm… với tôi. Đôi mắt tôi dãn ra, nhìn vào hư không, dần không còn cảm thấy mình đang đứng ở trên mặt đất tù túng nữa.
Rồi đột nhiên, một thứ gì đó kéo tôi lại, chiếc chảo khựng đứng và bọn mèo bắt đầu lao vào xâu xé cái nồi.
“Tôi gọi anh mãi đấy!” Vellington hơi lên giọng, cánh tay mảnh khảnh run rẩy giữ chặt bàn tay tôi. Cô cuối cùng đã chịu nhìn thẳng vào tôi rồi. Cô giận ư, tôi không thấy, đó chỉ là một lời nói thẳng thắn đến mức như người đã thân lâu. Hoặc tôi đang ảo tưởng.
“Giữ cho đồ không nóng quá chứ cũng không phải để cho nó nguội ngắt.” Giọng cô trầm hẳn xuống, níu tay tôi.
Tôi trao lại cái chảo, ngồi xuống bên cô trên một cái gờ bé tí nhoi ra từ bệ cửa, cùng nghe tiếng nhóp nhép chóp chép phát ra từ màn đêm trước mặt mình. Tôi không muốn đi về lắm và đây chắc chắn không phải một buổi hò hẹn với hay gì cả. Hãy nhìn cao lên đi, đám người xứng đáng có đôi lứa đã cùng nhau nâng cốc bên một ban công đầy ánh trăng từ vài tiếng đồng hồ trước và giờ đang làm những trò đẩu đâu.
Còn tôi – một tên bảo vệ viện bảo tàng, chí ít theo những gì Vellington nghĩ về tôi sẽ là như vậy, với một trong những quý tộc hiếm hoi còn sót lại trong cái thời mà quyền lực của họ xấp xỉ bằng không, chúng tôi chỉ tình cờ gặp mặt và chia sẻ với nhau những thứ này.
“Vì sao anh khóc lúc nãy vậy?”
“Tôi va đầu vào một cái biển hiệu, nó đập sâu xuống tận mặt, nước mắt cứ tự nhiên mà chảy thì phải.”
Tôi đã nói dối, tất nhiên là thế.
“Thế có bị bụi hay vào hay cần sơ cứu gì không?”
“Đàn ông thì ngại gì mấy cái tai nạn tầm phào như thế, không cần đâu!”
Có lẽ đó cũng là nói dối nữa.
Nhưng thề là cô đã hơi lén nhìn sang để quan sát tôi sau đó.
Cho đến khi đám mèo bắt đầu no và lảng dần đi, tôi cũng đứng dậy, hơi cúi như cách mấy người trong truyện hành lễ trước quý tộc rồi đi thẳng, không hề nhìn lại dù chỉ một chút. Lần này thì đường tôi đi đúng là dài kinh khủng. Tôi bật cười khi thấy chân mình tê dần như muốn ngã, lần này, cảm giác như muốn dừng lại ở đâu đó để nhìn về phía sau, nhưng lại không dám nhìn vì sợ sẽ không thể đi tiếp.
(lomdom)
(Kite - hàng lấy từ AI, nếu được sửa thì tôi nghĩ phần chân tóc sẽ thấp hơn và không phồng nhiều như thế)
0 Bình luận