Diều
Tí La
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Đoạn 1: Thành phố của máu và tiền.

Chương 07: Khúc cua tử thần (2)

0 Bình luận - Độ dài: 5,297 từ - Cập nhật:

Ông Brandy có vẻ êm xuôi với màn kể chuyện của Kite về việc tôi thách anh ở một quầy rượu với mục đích gây sự chú ý với một cô gái vừa mắt tôi. Anh nhấn mạnh vào nét Châu Âu mạnh mẽ trên vầng trán cô và cả những gã ngớ ngẩn xung quanh hệt như những sự việc đó thực sự đã xảy ra. Đến cả loại rượu chúng tôi uống cũng được anh cài cắm vào từng câu chữ. Cuối cùng, anh chốt lại rằng những vết bầm không đáng có – mà thực ra là dấu tích vụ ẩu đả, chính là đến từ đó.

Tối hôm đó, sau khi đã nấu xong bữa và dọn ra, nhân lúc Kite vẫn chăm chú nhìn vào không trung, tôi cầm tờ báo mình đã đọc vài lượt lên để đọc lại tiếp. Thực ra, tôi đang thích thú với một chuyên mục dự đoán tâm lý trong đó, tôi đã có ý định áp dụng lên Kite nên giờ là lúc để ngâm cứu lại một lần nữa. Đợi anh một lúc, đồ ăn bắt đầu nguội, tôi ngắt mạch bằng một câu hỏi:

“Kite, anh cảm thấy tôi là một người như thế nào? Hãy miêu tả với 5 cụm từ đầu tiên xuất hiện trong đầu anh.”

Kite nhướng lông mày nhìn tôi, hơi cười, im lặng ngẫm nghĩ một chút.

“Thất học, có tài năng về võ thuật, chữ rất xấu nhưng có khả năng đọc cực tốt mọi loại chữ viết tay và vốn từ lóng có khi còn nhiều hơn cả các giáo sư.”

Tôi ngán ngẩm, nhìn những mục cho sẵn trong báo, Kite không trả lời trúng với bất kì mục cho trước nào để đưa ra kết quả. Tôi từ bỏ việc hỏi anh chuyện vớ vẩn này vì xét cho cùng, tờ báo được viết ra để dự đoán cho người bình thường, không phải Kite.

Anh đặt lên bàn ăn cuộn băng hồi sáng khi chúng tôi. Phép lịch sự tối thiểu trên bàn ăn thường bị Kite bỏ qua là điều tôi đã nhận ra gần đây, chuyện công việc gì anh cũng nói khi ăn.

“Anh có nghĩ rằng những chương trình ủy mị và nhạt nhẽo sẽ kéo nhau liên tục và kênh phim tài liệu chiếu tới đúng đoạn gần 5 phút về tên chủ xưởng, tất cả là trùng hợp không?”

Theo câu hỏi của Kite, tôi mới nhận ra sự bất thường. Nhưng khi đặt ra giả thuyết của mình, tôi thấy nó còn bất thường hơn nữa. Kite sẽ phải tính toán chương trình đầu tiên sẽ phát đúng trong khoảng thời gian anh xuống khỏi chỗ tivi, về ghế ngồi và bấm nút chuyển, căn khớp từng lần đến mức tôi không thể nào nhận ra bác Brandy và tôi đang ngồi xem một cuộn băng. Cuối cùng, anh đoán được chính xác định mức để bác Brandy bắt anh dừng lại ở kênh phim tài liệu trước ranh giới mong manh giữa việc bác sẽ bảo chuyển kênh tiếp hoặc bỏ đi vì nhàm chán.

“Nhưng bác Brandy…”

“Ông ấy nói tức là đã đồng ý bị lừa rồi.”

Trong những phút đứng hình trong luồng suy nghĩ, có lẽ vẻ mặt ngờ nghệch của tôi đã cho Kite lý do để cười khẩy đầy tự hào. Tôi vẫn rất bận tâm về người cựu thám tử kia.

“Cuối tuần này chúng ta sẽ làm cú rê đuôi số 63 bằng chiếc xe đã chỉnh sửa. Giờ thì phải tính đến một lí do hợp lý cho chuyến về nước bất ngờ của Rust để lấp liếm nghi ngờ.”

Tôi gật gù đầu, Kite thì đăm chiêu. Rust là một người nổi tiếng và không có sự chuẩn bị trước như Gauntlet, chắc chắn lí do sẽ phải phức tạp hơn.

“Hay là làm đám cưới…” Kite bật ra thành tiếng. Anh nheo đôi mắt xanh, nhìn chằm chằm vào cái đĩa thức ăn ngổn ngang như thể nó chứa lời giải về sự ra đời của vũ trụ. “Có thể tôi sẽ sắp xếp một mối tình giả cho mình, kiếm một con tốt thí nào đó làm ý chung nhân, lý do Rust về sẽ là để ăn đám cưới hụt của người bạn chí cốt - tôi sẽ sắp xếp một cuộc cãi vã lớn với cô nàng ấy. Khá hợp lý, tuy rằng sẽ dính vào vòng thị phi. Xong còn phải viết kịch bản cho tốt thí ấy nữa, đêm nay tôi sẽ làm.”

“Còn về cách hành động?” Tôi hỏi trong lúc vẫn đang ăn.

“Rust sẽ gọi điện thoại cho tên chủ xưởng bằng số riêng của hắn, hẹn hắn đến điểm hẹn để xem một mẫu xe vượt trội vừa chôm được bản thiết kế từ nước ngoài. Theo dự đoán, hắn chắc chắn sẽ không báo cho bất kì ai, lặng lẽ lên đường, tới đúng vị trí như chỉ dẫn của chúng ta và rồi chết khi Rust vừa thực hiện cú ngoặt đuôi số 63 vừa bắn bằng một khẩu súng ngắn.”

“Nhân nói về súng, khẩu hôm trước anh dùng để dọa bọn kia sao không bị khai báo lên soi số seri?”

“Nó là súng đồ chơi, Alex, tôi không bao giờ mang súng thật một cách lộ liễu như vậy. Một khẩu đồ chơi là quá đủ, thực ra là cả một người đồng đội nữa. Với tôi thì đấu bằng súng thật tức là đã chết rồi. Hãy dừng chuyện này ở đây thôi, cái vòng treo cổ dành cho tên khốn đó chuẩn bị được tết xong.”

Kite sẽ gục đầu vào một kịch bản, kế hoạch và cốc cà phê đến tận khuya, anh đã nói như vậy, về phần tôi, tôi ra ngoài trời để chuẩn bị cho một buổi chạy bộ. Với yêu cầu nghề nghiệp, tôi phải luôn giữ cho mình thật nhanh nhẹn và hoạt bát để giữ được cái mạng thấp hèn, bởi vậy, từ sau khi đã ổn định được nhịp sinh hoạt tại nhà Kite, tôi đã quay trở về thói quen của mình.

Kite không nhận xét gì nhiều về hành động này của tôi, anh chỉ nêu ra một mặt xấu: tôi có thể chết bởi một viên đạn bất cứ lúc nào và một mặt tốt: hàng xóm sẽ khai về buổi chạy của tôi như một bằng chứng ngoại phạm chắc nịch mỗi khi tôi vắng mặt vào buổi tối. Ngày hôm đó, tôi đội chiếc mũ nỉ có hai miếng bán nguyệt che tai ở hai bên, mặc quần của buổi sáng và chỉ thay áo khác.

Tôi dọc về hướng vốn là quầy báo vào ban ngày, tiếng tim đập rộn càng lúc càng nhanh sau những sải chân dài. Cơ thể tôi ấm lên nhanh chóng và sớm không còn cảm thấy cái rét thường trực của thành phố này. Sự tĩnh lặng mà tôi biết rằng chỉ là lớp màng mỏng dính phủ lên trên những con hẻm tối chiếm lĩnh cả màn đêm - nơi mà biết đâu có hai kẻ dính đầy máu đang vật nhau giành giật một con dao bếp.

Tôi tiếp tục đi về khu phố nhộn nhịp hơn như mọi ngày. Ở đoạn này, tôi gần như không di chuyển được giữa những dòng người đông nghịt nhưng không hề vì thế mà thấy khó chịu. Nói ra thì thật dị thường nhưng tôi thích cảm nhận hơi ấm của con người ở nơi như thế này. Sau khi rời khỏi con phố có hai rạp chiếu bóng ngự trị, tôi lại trở về màn đêm của những người vừa châm điếu thuốc hoặc vẫn còn nói cười to tiếng.

Đột nhiên, có một thứ gì đó bám lấy tay tôi. Một thứ gì rất lạ, nhẹ, lạnh và mềm mại, có lẽ là một tà áo lụa đắt tiền. Nhưng khi hoàn hồn quay lại, tôi nhận ra đó là một cô gái đang níu lấy mình. Cô Vellington đang ngước nhìn tôi, đôi mắt xanh hơi sáng lên vì phản chiếu ánh đèn đường nhưng những đốm tàn nhang lại hòa vào nước da do không đủ sáng, khiến nước da được hoàn hảo hóa và nhan sắc càng thêm ấn tượng. Trong đôi mắt cô, tôi thấy được sự khẩn cầu khó thể giấu nổi.

Tôi ngay lập tức biết đây là chuyện về Kite, tôi nghĩ cô Vellington đã theo dõi tôi một thời gian vì cô kéo tôi vào một quán ăn đêm gần đó ngay như đã có tính toán. Trong lúc vẫn để cánh tay mình bị lôi đi bởi sức mạnh yếu đến mức có lẽ không đủ giết một con côn trùng, tôi nhìn người con gái ấy không rời mắt. Khác với bộ đồ quý tộc - vốn chỉ tôn lên vòng eo và cặp xương quai xanh, Vellington đang trong chiếc váy tối màu hoặc cái gì đó tương tự như thế - xin thứ lỗi cho hiểu biết khiêm tốn của tôi về thời trang, nói chung là cô trông rất hoạt bát, thoát hẳn khỏi vẻ khệnh khạng trong từng bước chân của quý tộc.

Cô có vẻ đã nhận ra tôi đã xiêu lòng, bằng chứng là tôi đã đi theo cô, nên có vẻ chẳng dè dặt gì khi đặt ra câu hỏi:

“Anh có thể bắt Kite về cho tôi được không?”

Cô nói câu này bằng giọng gấp khúc, giống như cô không biết phải diễn tả ý mình như thế nào để rồi chấp nhận chọn cái từ “bắt” như thể Kite là một con thú xổng chuồng.

“Ơ kìa, dù cho cô thích nghe anh ấy thuyết trình như thế nào thì anh ấy vẫn có quyền con người cơ bản, cô không thể bắt anh ấy được và tôi cũng vậy.”

Tôi đã bất ngờ khi thấy mình đối đáp tốt thế nào, có lẽ trong thời gian ở cùng Kite tôi đã thực sự học được điều gì đó. Cái cụm từ “quyền con người cơ bản” được rêu rao trên đài một vài lần, nó in vào đầu khi tôi ngồi chung cái phòng khách ồn ã với Kite. Bằng một cái nhăn mặt như thể khó hiểu với yêu cầu của Vellington, tôi giấu được nụ cười đắc chí sắp tuột ra ở hai gò má mình.

“Tôi tin đấy là anh trai mình, đây là một câu chuyện rất phức tạp, tôi…”

“Kite tóc đen còn cô thì tóc vàng mà.”

Tôi đã kìm được sự tò mò của mình và ngắt lời cô. Nhưng Kite là anh trai Vellington? Chuyện này không phải không có thể xảy ra, nhưng tôi tin và nghĩ rằng anh chắc chắn không muốn trở về với cô em gái này. Tôi ngả người ra sau ghế một cách từ từ sau khi đáp trả để nghĩ đối đáp làm sao cho hợp lí.

“Kite có thể nhuộm tóc, không, nhưng đó không phải là vấn đề…”

“Thế thì cô phải biết tính cách gì đó của anh ấy chứ?”

“Thích nghe đài?”

“Kite luôn và chỉ luôn xem tivi.”

“Đồ ngọt?”

“Tôi mới là người ưa chúng, Kite luôn giữ khoảng cách với những đồ ăn có nhiều đường.”

“Có thói quen ghi chép?”

Tôi thảy quyển sổ tay mà Kite mới đưa cho tôi lên, vuốt vào cạnh giấy để tạo ra một chuỗi âm thanh mượt mà lách tách và khoe rõ cả quyển sổ trắng phau.

“Kite không viết sổ, quyển này anh ấy cầm cũng khá lâu rồi, mới cho tôi, chẳng có chữ nào.”

Cô Vellington đột nhiên dừng lại làm tôi cảm thấy như mình đã nói hớ điều gì đó. Nhưng cũng như đã tự tưởng tượng nhiều lần, tôi lẳng lặng lấy quyển sổ lại, mắt hơi nheo để che những biểu cảm thừa trong khi ngồi ngả ra sau một cách phởn phơ vô tội. Vellington không nhìn tôi mà chỉ cúi mặt xuống, ậm ừ rồi kể:

“Tôi không biết phải nói với anh như thế nào nhưng tôi rất muốn Kite trở về nhà. Tôi không có đủ bằng chứng và thực ra là vô lý khi đưa ra nhận định này… có lẽ nó chỉ là cảm tính thôi. Anh trai tôi được coi là đã chết nhưng từ khi thấy Kite ở viện bảo tàng, tôi không tài nào làm ngơ được trước linh cảm của mình. Bởi vậy, xin anh, bức thư hay cái ảnh hay bất cứ thứ gì có thể làm bằng chứng cho lời tôi nói mà anh tìm được, tôi sẽ mua nó với cái giá đủ để anh có một cuộc đời trọn vẹn nhất, thỏa mãn mọi điều anh đang nghĩ.”

Lời nói của một người có tiền kinh khủng thật. Tôi đã tưởng tượng đến cảnh mình nâng cốc rượu sóng sánh trên ban công của một tòa lâu đài cổ nằm ở vùng ngoại ô, nghe gió thoảng qua tai, tiếng của những bộ bát đĩa trắng phau đến nhìn tôi cũng chưa từng nhìn kêu lạch cạch sau lưng. Nhưng rồi, một cảm giác trống rỗng ôm lấy tôi khi tôi ngồi vào bàn ăn với hai cô hầu hai bên. Tôi tục thật.

Tôi sẽ mất thời gian để làm quen với cuộc sống sung sướng, hoặc, tôi có thể tiếp tục sống cuộc sống này. Tôi vẫn còn chưa biết Kite sẽ giết tên chủ xưởng kiểu gì. Trong lúc còn đang lưỡng lự đó, tôi sờ túi áo khoác mình và thấy một tờ 500 đồng kẹp trong một mẩu giấy nằm tít sâu trong đáy túi.

“Hoa không bó, tiệm hoa thường, 2 loại để bày tiệc, nhớ cầm cẩn thận.”

Chắc là Kite đã nhét vào trước đó. Trong lúc tôi còn suy nghĩ vẩn vơ về việc anh giao, cô Vellington đã đứng dậy, gọi cho tôi một cốc nước giải khát trước khi chào tạm biệt.

Cô có nhắc lại về đề xuất của mình một cách rất rõ ràng và không hiểu vì sao tôi lại cảm thấy như mình đã mất gì đó vào tay cô gái kia. 

Sau khi hoàn thành cốc nước được bố thí, tôi ra một tiệm hoa hiếm hoi còn mở cửa và mua đúng theo yêu cầu của Kite. Khi trở về, một tay tôi cầm bó hoa, một tay đút túi áo ngoài, quyển sổ nằm trong túi lót mặt trong của áo. Đúng đến đầu ngõ, tôi thấy một chiếc xe mui trần màu đỏ rất đẹp với nội thất vẫn còn được bọc trong một lớp nilon trong suốt. Nó đang được cầm lái bởi một ông trung niên, vây quanh là biết bao hàng xóm.

Tôi có biết mặt vài người trong số họ và vài người theo lời kể của Kite. Bà kia hay nói và hay nói điêu, ông này lầm lì, thường nằm bồn tắm mở cửa nhìn ra đường vào khoảng bốn giờ chiều, ông kia làm ăn vất vả, hay quên. Không ngoài dự đoán của chính tôi, Quý Bà Hay Nói sấn sổ tới và nhìn bó hoa.

“Ấy! Biết ngay mà, cậu Kite kia tối nay hẹn với người yêu à?”

Bà ta nói với cái giọng rõ ràng là không cho tôi phủ định hay đáp lại và đúng như ý bà ta, tôi im lặng, chỉ cười mờ nhạt.

“Hoa kiểu này thì đúng là long trọng rồi, ấy, nhanh về cho đôi trẻ có thứ mà thưởng thức, sau đó thì có thể ra đây xin một chuyến xe của ông ấy, chậc, may là xe đã về chứ không ông ta lại rao rêu cả tuần nữa!” Bà ta nói, đánh mắt nhìn ông trung niên như giả vờ hờn dỗi cái tính hay khoe của ông ta.

Tôi vẫn không biết đáp kiểu gì, lủi thủi quay về nhà. Vừa bước vào, tôi đã thấy Kite với một cô gái - người rất quen thuộc với cái tên Comet mà hôm trước chúng tôi đã thấy ở “hàng hoa”. Cô gái ấy có mái tóc nâu dài thả quá vai, khuôn mặt còn rất trẻ, không rầu rầu như một con tốt thí giống những gì tôi tưởng tượng. Cô gái ngồi sát với Kite, nàng cười đùa trong khi chàng chỉ nhếch môi mình để tán thành lời nàng nói khiến họ trông thực sự khớp với nhau. Một cặp điển hình như phim ảnh.

“Sau anh không dặn tôi mua hoa bằng miệng?”

“Tôi muốn anh có một chuyến thư giãn tốt. Chỉ khi gần về đến nhà, anh giảm tốc, cơ thể nguội đi và sẽ nhét tay vào túi vì lạnh, lúc ấy anh mới vướng bận về cái yêu cầu của tôi. Hoa có phải ở tiệm cách đây hai ngã tư không?”

Tôi lắc đầu, môi mím lại vì hiểu lý do Kite nhét tờ giấy này một cách bí mật. Nhưng theo cách Kite nhìn tôi, tôi biết anh đã nghi ngờ điều gì đó. Anh không tỏ ra muốn hỏi tôi nhưng chính cái vẻ mặt ấy làm tôi muốn kể.

“Tôi đã gặp cô Vellington.”

“Chuyện đó để nói sau.”

Kite lại quay về tờ giấy đặt trước mặt mình và Comet trong khi ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Anh đưa kịch bản ngang tầm mắt, ngắm nghía một lúc trước khi đưa nó sang cho tôi.

“Comet là con gái nuôi của chị chủ, em ấy mới sang 18 không lâu.” Tiếng Kite vang lên trước khi tôi chìm hẳn vào kịch bản anh đã vẽ ra cho Comet.

“Tôi gặp anh ấy lần đầu tiên ở cửa hàng của mẹ tôi, anh ấy tới hỏi mua một vật để uốn cành cây. Hôm đó vắng khách, tôi ngồi tư vấn cho anh ấy suốt cả một buổi rằng uốn cây không phải việc dễ làm mà cần nhiều thời gian và kĩ thuật. Cuối cùng, tôi vẫn nhớ anh ấy thở dài và nói gì đó về việc mặc kệ ông bạn uốn cây vậy. Một đợt sau đó, trùng hợp thế cơ chứ, tôi đến bảo tàng để tìm tư liệu thì gặp lại Kite. Anh ấy rất lịch sự, đề nghị rằng do hôm trước anh đã lấy của tôi cả buổi nên giờ anh ấy sẽ trả lại y nguyên.

Chúng tôi đã đi qua mọi công trình nghệ thuật trong bảo tàng, đọc những mẩu ghi chú nhỏ nhắn trước những bức tượng. Kite kể cho tôi về nhiều câu chuyện mà anh bảo khách tới đây chẳng bao giờ thèm nghe. Cuối ngày hôm đó, Kite xin tôi cách liên lạc và… ai ngờ được cơ chứ, mối quan hệ của chúng tôi đã chạm đến ngưỡng này.”

Tôi thấy Kite trong câu chuyện này rất giống một gã trai lêu lổng lừa một cô gái còn ngây thơ trong sáng. Bằng mắt mình, tôi ái ngại nhìn Kite, dường như tỏ rõ điều tôi muốn ám chỉ. Nhưng Kite chỉ gật đầu chắc nịch trong khi Comet bên cạnh chen vào, giọng lanh lảnh:

“Đúng là chú Kite trong này giống một tên khốn nạn thật, nhưng, chỉ có một tên khốn nạn mới hủy hôn lễ bất ngờ, đúng chứ?”

Tôi đã hiểu, gật gù đầu và trả lại tờ giấy cho “chú Kite”. Theo như những gì tôi đoán thì đám nhận xe buổi đêm này đã được Kite biết và anh sắp xếp để tôi mua hoa về đúng lúc bắt gặp gần như tất cả hàng xóm. Tin đồn và người tình, đã có. Lý do để Rust đột nhiên xuất hiện, đã có. Kite tiễn Comet về trước khi quay lại với dáng vẻ như sẽ tập trung vào cách để giết tên chủ xưởng.

“Ngày mai, chúng ta sẽ hoàn thành những bước cuối cùng, tôi sẽ cho anh thấy cách một lớp màng bọc một lớp màng, rồi lớp màng bọc lớp bê tông. Đêm nay chúng ta sẽ xuất phát, đừng ngủ quá sâu.”

Thấy anh có vẻ không hỏi đến chuyện kia, tôi hơi ậm ừ, không ra tiếng gì đặc biệt nhưng thế là đã đủ để gợi ra suy nghĩ của Kite. Anh ngay lập tức nhớ lại:

“Chuyện với Vellington là thế nào?”

Tôi kể lại y nguyên, không giấu diếm bất cứ điều gì. Sau khi nói hết, tôi cảm thấy mình thật đáng tự hào khi xử trí mưu mẹo, nhưng, phần nhiều trong tôi cảm thấy nhẹ nhõm, việc giấu gì đó khỏi một kẻ như Kite hệt như đang ôm một túi thịt tươi rỉnh máu qua mõm một con cọp đang ngủ.

“Anh đã mất cho cô ta một chi tiết về quyển sổ rồi…” Kite thở dài, chau mày, biểu cảm đó chỉ tồn tại trên mặt anh trong một lần tôi chớp mắt. Anh nói tiếp, giọng bình thản đến kì dị như thể chuyện này đã được đoán trước: “Không sao cả, Vellington vẫn không thể làm gì.”

Và rồi tôi rời đi, lòng nặng nề. Tôi đáng nhẽ ra không nên cảm thấy thế này! Tôi nên thấy khinh bỉ, thỏa dạ vì một thằng suốt ngày làm mình bối rối rơi vào cảnh bối rối! Tôi nên ti tiện như vậy thì đúng hơn. Nhưng, như sở hữu ma lực, Kite toát lên một sự chân thành chết tiệt làm tôi bị cuốn theo.

Tầm 1 giờ sáng, tiếng gõ cửa phòng mình chưa vang lên, tôi đã có mặt ở phòng khách. Tôi dậy và chuẩn bị sẵn sàng từ khi nghe được tiếng động đầu tiên trong màn đêm tĩnh lặng. Kite mặc một bộ quần áo rách rưới, bôi đen mặt, răng vàng khè, tóc rối thành một cục. Tôi đã không nhận ra anh nếu như anh không đứng ở cái dáng lịch thiệp và trang trọng lúc chỉnh lại đồ.

“Thay bộ này vào, đồ hóa trang trong xô, bôi mặt và răng đi.”

Một lúc sau, tôi và Kite đã ở cửa, anh đảo mắt qua các tầng nhà đối diện, cười:

“Khi ganh tị với thành công của người khác, con người có thể cố gắng hoặc buông bỏ, có thể lao đầu vào việc hoặc đánh một giấc thật sâu. Xem ra, khu này toàn loại người số 2.”

Những căn nhà im lìm triệt để sau vụ khoe xe, tôi đã thấy bước Kite sải thoải mái hơn. Anh lắc lư nhẹ theo một giai điệu mà chỉ anh mới biết, dưới ánh trăng non đầu tháng, tên tội phạm trước tôi thật giống một con sói lạc bầy đơn độc đang giãy giụa trong niềm vui biến thái của riêng mình.

Chiếc xe được chuẩn bị cho chúng tôi là một thứ tàn tạ, rách nát, đặt giữa một đống rác mà theo lời Kite nói là từ sáng ngày hôm nay. Nó có nước sơn màu xanh, ít ra là có nhiều màu xanh nhất, các lớp sơn cũ hơn trổ ra vàng trước, đỏ sau, lốm đốm khắp thân xe. Biển số không có.

“Chúng ta sẽ đi theo cách đánh lạc hướng. Nếu đi thẳng từ nhà đến chỗ trộm dụng cụ rồi đến địa điểm, một đường thẳng sẽ được vẽ ra và điều đó không tốt. Hãy cho chúng vẽ đường thẳng lệch.”

Kite vần vò tay lái của cái xe rách nát một cách khó chịu như thể anh không hợp với nó. Tôi ngồi bên cạnh, chốc chốc lại nghe thấy tiếng cào vào mặt vô lăng cũ cành cạch do anh tạo ra. Nhưng chuyến đi của chúng tôi vẫn rất êm, động cơ đệm một bản nhạc trầm trong đêm trăng nên thơ. Xe không điều hòa, cửa sổ mở, mát rượi gió trời.

“Xuống thôi.”

Kite bật tung cửa trước một công trường nhỏ, rảo chân vào bên trong ngay. Tôi chạy theo, thấy anh trỏ một cái máy khoan ở ngay cửa, tôi đã biết phải nhặt nó lên. Thoáng sau, ngay khi vừa chất đống đó vào cốp, Kite đã trở ra với một cái máy nổ cỡ nhỏ. Khi ngồi lại và lái đi, ghế tôi vẫn còn ấm nguyên, vụ ăn cắp chớp nhoáng chắc chẳng mất đến phút thứ ba.

Chúng tôi đi đến một vùng đồi ở ngoại ô, nghiêm túc thì tôi không rõ chỗ này lắm do ít khi rời thành phố. Ở đây, Kite lái dọc theo con đường quanh co dẫn lên núi, thi thoảng lại thấy bên đường có một khoảng chòi ra để nhỡ xe nào hỏng trên dốc thì sẽ đỗ tạm ở đấy. Nơi này vắng vẻ đến phát sợ, lá rơi lấp kín cả đường, tiếng chúng bị nghiền dưới bánh át cả tiếng động cơ.

“Xuống.”

Kite nói, giống tự nhủ với bản thân hơn là nói với tôi vì cái cách anh buông chữ đấy hơi giống cách mà một người bình thường kết thúc một tiếng thở dài. Nó là một suy nghĩ nặng nề vô tình thoát ra.

Tôi xách cái máy phát điện nhỏ - đơn giản vì nó nặng nhất – vì tôi cảm thấy mình giống một thằng giúp việc, khệnh khạng bê ra giữa đường đặt rồi lôi nó chầm chậm vào phần nhô ra bên lề. Tôi đứng thẳng dậy sau khi tạm yên tâm về vị trí của nó, vươn vai thật cao để cái lưng vừa gồng cứng được dãn ra. Khung cảnh thành phố bất chợt làm tôi khựng lại. Những bóng đèn đường mờ tịt, hắt lên những bức tường và mặt đất mù mịt, phả vào nhau thứ ánh sáng cô đơn và yếu ớt so với màn đêm rộng lớn.

“Góc nhìn từ đây đẹp phết.” Tôi thốt lên và hi vọng Kite sẽ đáp lại.

“Ừ.” Anh ngơi tay một tí, nhìn một tí rồi tiếp tục làm việc ngay tức khắc.

Tôi nhìn cái búa anh đang cầm trong tay, rồi cái cọc to bằng sắt, rồi cả sợi thước dây bằng ánh mắt không biết mình đang phải làm gì. Kite giơ lòng bàn tay về phía tôi ra hiệu tôi đừng can thiệp. Anh đặt cái búa lên trên một đầu của cái thước dây tại một điểm trên lòng đường để làm gốc, kéo căng những vạch đo đạch đấy ra cả một vùng. Dùng đinh để vạch dấu, Kite đang vẽ lên một sơ đồ nào đó mà chỉ anh mới hiểu.

“Bật máy phát điện đi, lấy khoan đào ở đây, sâu vào.” Anh dùng cái đinh quệt hai hình tròn xung quanh hai điểm đánh dấu, nói với tôi.

Đôi bàn tay nãy giờ hơi râm ran vì thấy thiếu việc của tôi ngay lập tức lao vào nhiệm vụ. Đè một chân lên máy phát điện, tóm một tay vào dây kéo, tôi cúi người thật sâu, xả hết khí khỏi phổi rồi kéo vụt nó lên cùng lúc với hít một hơi sâu. Cái máy kêu tành tạch, lạch bạch xả khói, đèn bắt đầu sáng. Vớ lấy cái khoan, cắm dây vào ổ, tôi nhấc mũi khoan lên rồi lại đặt mũi khoan xuống vài ba lần để đảm bảo mình đặt đúng vào tâm hình tròn đánh dấu.

Cơn tê của trận chiến giữa một cỗ máy cường hãn với mặt đường cứng rắn truyền đến tận hai bả vai tôi. Tôi dồn lực lên cái khoan to, hai hàm răng giật vào với nhau do rung động, chân choãi ra dần dần khi mũi sắt bắt đầu xuyên qua nhựa đường. Sau một lúc không gọi là chật vật gì, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.

Kite trộn một hỗn hợp hóa học gì đó mà tôi không biết vào trong một cái xô, đặt cái cọc có mặt cắt ngang còn to hơn cây xúc xích vào lỗ rồi đổ chất kia vào. Anh lấy một cái que gần đó gạt cho hỗn hợp vừa vặn trong lỗ và cố định hai cọc rồi phủi tay đứng dậy, chống hông, ngắm nhìn những gì vừa diễn ra, nhẹ nhàng nhắm mắt đầy hài lòng.

Kite vươn tay đỡ lấy cái khoan bê lên xe, tôi ngay lập tức tắt rồi khênh cái máy phát điện lên. Bọn tôi đi xe về phía trước cỡ trăm mét nữa rồi dừng lại. Chúng tôi sẽ dựng một cái gì đó ở sườn núi ven đồi bằng hai cái xẻng này, anh vừa mới thông báo điều đó.

“Anh lấy hai cành cây kia ra đây.”

Tôi giật tay để cắm cái xẻng xuống đất, cho nó tự đứng, chạy ra lấy hai cành cây khô to về. Kite gá mũi xẻng vào chỗ mấy cành nhỏ mọc ra, ấn thật mạnh để cắt đứt nó. Tôi nhìn và làm theo. Một lát sau, bọn tôi đã có hai cái que khá thẳng, khá cứng cáp và khá mượt mà từ đầu đến cuối.

“Giữ lấy. Đừng ngửa mặt lên, tôi đập nó có khi bắn cái gì vào mắt đấy.”

Kite vung từng cú mạnh bằng lưỡi xẻng lên trên cành cây tôi đang giữ chặt. Nó dần lún xuống đất như một lẽ tất nhiên. Cái còn lại làm tương tự. Kite đi nhặt mấy cành nhỏ rải rác quanh đó, tôi thì cũng bắt chước. Bọn tôi cắm một đầu của những cành nhỏ vào bên sườn dốc, một đầu còn lại thì đan vào nhau, nói chung là để tạo ra một bức tường khá ổn giữa mặt đường – cọc một – cọc hai – mặt đường.

Nó giống kiểu một cái nhà vệ sinh bên sườn đồi, à không, nó ẩn thân hoàn hảo hơn nhiều.

Tôi cũng chả hiểu sao Kite chẳng nói gì mà tôi vẫn làm nhoay nhoáy từ nãy đến giờ, có lẽ tôi hiểu nhiều chuyện hơn bản thân tưởng. Kiểu như nhìn đóng cọc là tôi đã nghĩ anh sẽ dựng một cấu trúc gì đó, nhặt cành nhỏ là tôi đã biết anh định làm tường.

“Xúc đất lên xung quanh xong rồi phủ lá nữa, khi mưa, chỗ này sẽ choãi ra thêm nữa và sẽ càng hoàn hảo thêm nữa, nó gần như chỉ là một chút gì đó hơi nghiêng lên trên.” Kite nói, thở mạnh vì nãy giờ làm việc liên tục.

“Nhưng cái này để làm gì?”

“Giấu xe đấy.”

“Giấu có được không?”

“Tí nữa sẽ đào thêm ở bên trong cái hầm này nữa, một cái xe chỉ cao cỡ một mét thôi, rộng thì cũng chả rộng lắm. Đủ mà, yên tâm, với cả dù người ta có tìm ra nó thì mọi chuyện vẫn nằm trong kế hoạch.”

Tôi không hỏi nữa, đây sẽ lại là một bằng chứng giả vụng về như cách anh lau máu của vụ án trước, hoặc nó sẽ mang nhiều ý nghĩa như chiếc nhẫn kia nữa. Với sự tin tưởng và mong chờ, tôi sắp xếp lại đồ đạc và cùng Kite đem trả cho công trường kia. Đôi găng tay của tôi và anh cũng được đem đi dìm xuống ở cái cống gần đó. Nhắc thế mới nhớ, giờ thì đeo găng với bọn tôi đã là bản năng, hoặc vốn dĩ nó là bản năng của Kite rồi.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận