Diều
Tí La
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Đoạn 1: Thành phố của máu và tiền.

Chương 22: Vận rủi (2)

0 Bình luận - Độ dài: 7,103 từ - Cập nhật:

Kite chần chừ, thế rồi, anh dang tay về phía trước, chầm chậm bước ra cửa. Lão già kia gật đầu, vẫn giữ nụ cười điềm tĩnh trên môi, rời khỏi căn nhà của chúng tôi như một người khách bình thường. Sau đó, Kite đóng cửa nhà lại, bắt đầu nhấc điện thoại lên và gọi đến số của người quản lí thông tin khách hàng để hỏi về danh tính của kẻ mà anh quyết định sẽ giết.

Trên nét mặt anh dần xuất hiện sự khó chịu, những nếp nhăn hiếm khi tồn tại đang hiện ra ngày càng rõ.

“Chúng ta không có đơn hàng.”

“Gì? Anh đã phải xác nhận mọi thứ rồi cơ mà?”

“Đúng, cuộc điện thoại trước đã đưa ra đúng ám hiệu, làm tất cả mọi thứ đúng theo quy trình. Tôi cũng đã xác nhận miêu tả và cả tiền đặt cọc cũng đã được chuyển. Thôi đúng rồi. Là lỗi của tôi, chắc chắn, nếu… thôi bỏ đi, chuyện này có thể đoán trước được và điều quan trọng nhất vẫn là giết lão già kia trước khi phanh phui bí mật của chúng ta.”

Kite có lẽ đã quá tin tưởng vào ám hiệu từ các cuộc điện thoại. Anh nghĩ mình hoàn hảo nên không thể bị dò ra, có lẽ là vậy, hoặc đã quá lâu rồi kể từ khi anh thật sự cảm thấy sự đe dọa đáng kể dẫn đến việc các giác quan bị thui chột.

Nhưng sự khó chịu trên khuôn mặt anh gần như đã biến mất chỉ sau một khoảnh khắc bất động. Tay Kite đưa ra không trung, ngập ngừng giữa các hành động vì chưa biết phải ưu tiên điều gì trong vô số suy nghĩ để đối phó với lão ta. Tôi đã từng trải qua cảm giác tương tự nên nghĩ anh đang như thế.

“Mở ngăn kéo của tôi, lấy chìa khóa, súng và đạn. Tôi sẽ lo trang phục.”

“Ngăn kéo của anh không phải để mỗi…”

“Đã nói rồi, anh không biết cách nói dối.”

Tôi chạy lên phòng anh, mở ngăn kéo tủ bên cạnh đầu giường. Bộ đồ mở rượu vẫn đang ở đó, nhưng chỉ cần tôi có chủ ý trong việc tìm những thứ khác, một ngăn ẩn chứa súng dễ dàng hiện ra sau vài thao tác. Thật điên rồ, nhìn vào cách bài trí những đồ trong ngăn ẩn đấy, tôi cảm giác cái tủ bếp dưới kia nếu chỉ cần mở mạnh tay hơn là sẽ lôi được ra cả tấn vũ khí. Tất nhiên, Kite không làm thế, ít nhất tôi mong vậy.

Chìa khóa trong đó là của một chiếc xe tôi chưa từng biết. Trong thời gian chỉ tầm hai phút, khi xuống nhà, tôi đã thấy Kite ăn mặc xong xuôi, đôi mắt anh không dành ra để quan sát quá trình tôi chạy mà vẫn chìm đắm trong các dòng suy nghĩ. Sau khi khoác áo lên, bọn tôi khóa cửa rồi cùng xuống phố.

Đây bắt đầu là giờ cao điểm, trời đổi màu, dòng người và phương tiện càng lúc càng đông. Tôi và Kite bước rất nhanh qua phố, dừng lại ở chỗ mà đã có lần giấu cái xe cà tàng không biển trong vụ Rust. Xung quanh đó toàn rác, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc tạo ra ấn tượng chẳng khác lần đầu tiên là bao. Anh lội qua những cái túi đó như không thấy sự kinh tởm, bước thật sâu vào trong đến mức không còn thấy được chuyển động nào trong bóng tối nữa.

Thế rồi, một cặp đèn pha sáng bừng lên. Cả con hẻm ứ rác bị kéo tung ra bởi một chiếc xe đen chắc chắn. Kite ra hiệu cho tôi lên phương tiện đó, kính của nó chặn sáng tốt đến nỗi nếu như không phải vì anh hơi hạ xuống để thì khó có thể tin trong đó có người. Mùi rác hơi nặng nhưng về tổng thể vẫn ổn.

“Chúng ta sẽ không được hỗ trợ bởi tên tìm kiếm thông tin. Hắn bán chúng ta rồi. Phải tự tìm tung tích của lão thôi. Lão ta là một doanh nhân, khả năng cao là thế dựa trên lời kể. Một doanh nhân đã về hưu nhưng vẫn sở hữu số tài sản đủ lớn hoặc vẫn còn hưởng lợi tức để có thể mua được một chiếc xe ra mắt khá gần đây – lúc tiễn tôi đã thấy. Lão đã chọn để nghỉ hưu thay vì đánh mất như đã kể.”

“Thế thì sao biết được địa chỉ?”

“Trục đường lão đi có thể nói là chỉ để đánh lạc hướng. Xe hơi bụi, bẩn đều chứ không có vệt bùn bắn, trời dạo này vẫn mưa khá nhiều nên lão phải tới đây hoặc di chuyển nhiều xung quanh khu nào đó thật giàu có với mặt đường lát nhựa nhiều. Trên kính đằng sau bị bọn trẻ con vẽ nguệch ngoạc, nét to nhỏ khác nhau nhiều nên chắc có nhiều đứa. Vết vẽ cũng hơi xám màu bụi, chứng tỏ nó không phải vừa được vẽ xong, ít nhất phải cách đây vài hôm.

Trời dạo này mưa khá nhiều mà xe vẫn bụi, chứng tỏ nó cũng không được đi trong khoảng thời gian đó. Chậc, tôi không chắc nữa, nhưng cái xe có khả năng được để dưới một mái hiên lớn – bọn trẻ có thể tiếp cận nó mà mưa vẫn không dính vào nó. Một căn nhà kì dị có để hẳn cái xe quý thế này bên ngoài chứng tỏ nó phải nằm ở vị trí nào đó có độ an toàn cao, giàu có.”

Tôi im lặng trước những suy luận của Kite. Nhiều trong số đó gần như chỉ đoán dựa vào may mắn, nhưng đó là những thứ duy nhất chúng tôi có ở thời điểm hiện tại.

“Khu vực hai tòa chung cư lớn nhất thành phố chăng? Tôi đã từng nghe nói gần đó có nhiều đồn cớm, trẻ con thì đông khỏi bàn rồi, đường xá xung quanh được công ti làm chung cư trải nên rất đẹp.”

Tôi mạnh dạn nêu ý kiến của mình.

“Cũng có thể lắm, nhưng tôi đang nghĩ đến một vị trí khác, cũng thỏa mãn những điều kiện đó nhưng có thể sẽ yên tĩnh và phù hợp hơn với lão già điên này.”

“Ở đâu?”

“Khu vực xung quanh tòa thị chính.”

“Không, làm gì có chuyện chúng ta mò tới đó để giết người. Đám cớm đông như kiến! Lão ta chắc cũng không…”

“Không mua một cái nhà gần chung cư để điếc tai mỗi ngày với từng đấy tiền trong tay và bộ não vẫn còn thích phiêu lưu đến nỗi tự lái xe và mò đến tôi và anh. Xung quanh tòa thị chính có đường rất đẹp. Các gia đình quyền quý tụ hợp ở đó đông vì an ninh và tưởng tượng đám trẻ đó mó vào xe của anh đi, dù có thế nào đi chăng nữa, anh cũng sẽ không dám ngăn chúng.”

Tôi đành im lặng và ngồi im trong lúc chờ đợi Kite đi xe thẳng đến tòa thị chính. Ở đây thật áp lực, cứ mỗi một ngã tư là lại có thể thấy một tên mặc đồng phục đứng nhòm ra đường với đôi mắt thiếu thiện cảm. Kite kéo kính xe xuống và mở hộc tủ lấy một cặp kính mỏng manh và quyền quý. Tôi cũng nhận được một cặp, nó so với kính xe đen, chúng tôi sẽ trông bớt đáng nghi hơn ở khu vực này.

“Tại sao anh lại nói tên tìm thông tin bán chúng ta rồi?”

“Vì đó là sự thật, anh tưởng Tứ Tử Thần hay có những buổi gặp mặt và bá vai nhau thề thốt về tình anh em chắc? Tôi còn chưa từng gặp tên tìm thông tin bao giờ. Hắn đã cung cấp mật mã giao tiếp riêng của tôi cho một bọn nào đó và chúng đã gài bẫy bằng lão già này.”

“Thế thì anh có thể trông chờ vào sự phân xử của tổ chức mà?”

“Thế giờ anh chạy ra ngoài đường và nói tôi là người đã giết những người như sau rồi kể hàng loạt mục tiêu của chúng ta ra đi? Có dám không? Và anh đoán tôi sẽ làm gì sau đó? Lợi ích và bí mật cả thôi, lão ngồi trên chúng ta sẽ thủ tiêu bất kì ai nếu để bị lộ danh tính – thứ mà thể nào cũng đang nằm trong miệng cỏ bảy lá.”

“Nhỡ hắn kể thông tin của chúng ta ra luôn, cớm đã biết và cuộc truy đuổi này chỉ là trò câu giờ để giết chỗ thời gian chúng ta có thể dùng để vượt biên?”

Kite im lặng lại. Anh mím chặt môi như để kiềm nén một thứ gì đó xong rồi lại cười. Cười mỉm rồi cuối cùng bật lên thành tiếng. Anh cứ khúc khích một lúc cho đến khi chúng tôi đã đảo được nửa vòng cái khu quanh tòa thị chính.

“Vì tôi sẽ phải thỏa mãn lão ta. Chúng ta không đủ sức để chạy khỏi lão ngồi trên đầu đâu. Một bậc còn cao hơn cả tôi và Viola. Ha, có thể cả cái thuyền chúng ta dùng để chạy trốn sẽ chìm khi lão muốn. Lão thừa biết tên tìm thông tin đã gài tôi ở thời điểm này. Lão có thể vung tay cứu chúng ta, nhưng việc gì phải thế? Tôi là vô dụng chỉ có thể biến việc ác trở nên thú vị mà. Nếu tôi không làm được, tôi sẽ bị loại bỏ, một thằng khác – thằng mà tên tìm thông tin đã thân quen từ trước đã sẵn sàng nhảy vào vị trí của tôi và anh. Cứu tôi cũng có rủi ro nữa.”

Tôi thấy Kite đang tự nói dối bản thân. Anh không bị ép buộc, anh cũng chẳng khó chịu hay áp lực về cái chết. Anh đang tận hưởng thứ này cũng chẳng kém gì các vụ khác cả.

“Chứ không phải vì anh muốn truy giết cỏ bảy lá à?”

“Có thể.”

Kite cười, cũng chẳng biết đó là nụ cười thật hay giả nữa.

Một lúc sau, anh chỉ cười khi tự nhận ra dự đoán của mình đã sai. Tôi ngay lập tức để cái đề xuất tới hai tòa chung cư lên lưỡi nhưng rồi Kite xuống xe, bước về phía một người đứng bên đường. Đó là một gã thư sinh – thư sinh như Kite đeo kính bây giờ, đang say mê với những cọng dây leo bám trên một cái cây.

Anh và gã nói vài câu, cười đùa lịch sự rồi kết thúc. Kite trở lại vào xe, kéo kính lên, gục đầu xuống vô lăng thật mạnh. Dường như một thứ gì đó đã diễn ra, tất nhiên là thế, nhưng ý tôi là gã vô hại bên đường kia đóng một vai trò nào đó quan trọng chứ không chỉ là một thứ tồn tại ngẫu nhiên.

“Lão già kia thật sự muốn đối đầu với chúng ta. Tên kia được cài vào. Lão thậm chí còn đoán được chúng ta sẽ tới đây. Cái xe lão lái đến nhà chúng ta là xe thuê, tốn công suy luận.”

“Thế anh đã có cái địa chỉ mà khả năng cao khi tới sẽ bị bắt tại trận chưa?”

“Rồi.”

“Thế có đi không?”

“Chẳng còn gì để mất nữa cả, thậm chí cả những gì tôi tự hào. Nhưng chắc lão sẽ không để mai phục đâu, cùng là người muốn chơi cả.”

Kite vít vô lăng, tăng ga, nét đau đớn vì thua trong cuộc đấu trí này đã bắt đầu làm chiếc mặt nạ của anh sứt sẹo. Không còn sự dửng dưng duy trì vĩnh cửu, thi thoảng, cặp lông mày kia sẽ nhíu lại, hai gò má thì căng lên vì hàm răng nghiến vào nhau. Vai Kite di chuyển nhiều hơn vì nhiều lực và cảm xúc đang được giải tỏa trên vô lăng. Một lúc sau, tất cả những triệu chứng đó lại biến mất, giống như cơn bão ngừng làm mặt biển rung động.

Chúng tôi xuôi về tận phía rìa thành phố, lúc này đã là hơn 9 giờ tối. Cách điểm đến tầm vài trăm mét, Kite và tôi xuống xe như bản năng và bắt đầu đi nép vào bóng tối của những căn nhà lụp xụp. Mùi của món súp rẻ tiền được nấu từ tất cả những gì sót lại trong buổi chợ cộng thêm loại gia vị nổi tiếng của thành phố - thứ mà tôi đã từng ăn hàng năm trời, toát lên từ mọi ngóc ngách. Đến cả những nơi mà người bình thường tưởng chỉ chứa rác hoặc củi, ở đó cũng có thể có người.

“Tại sao lúc nãy anh bắt tay tên kia bằng tay trái ngay?”

“Lúc này rồi mà anh còn quan tâm đến vấn đề đấy à? Đó là nỗi nhục của tôi đấy! Suy luận lung tung rồi cuối cùng phải nhờ vào gã được chính tên cỏ bảy lá kia cài cho đứng đó.” Kite thực sự đã không còn giữ được sự bình tĩnh tối thượng trong mọi tình huống đến nỗi tôi phải bất ngờ. Nhưng rồi, giống như đó chỉ là sự bộc phát ngoài ý muốn, anh tiếp lời: “Tay áo thường lệch về phía thuận. Giống như anh lắc một lọ cát, nó sẽ bắt đầu được nén vào nhau và sụt xuống. Tay thuận hoạt động nhiều hơn, kéo nhiều vải hơn, dù có cố hay không thì tay áo bên đó đều sẽ dài hơn. Người thuận tay trái không nhiều, và nếu như bắt tay họ đúng ngay trong lần đầu, đó sẽ là một cú ghi điểm lớn. Chết tiệt, chẳng có ý nghĩa gì cả khi hắn vốn ở đó để được hỏi!”

Kite hậm hực và thậm chí là đau khổ. Tôi không dám nhìn anh nên không thể miêu tả rõ hơn được. Bằng bản năng, tôi đã nghĩ nếu mình cố tọc mạch vào luồng suy nghĩ của Kite, một ánh mắt có sức công phá tương đương lúc tôi bị trói ở ghế sau sẽ chọc thẳng vào tâm hồn mình.

Bàn tay anh miết vào một mảnh ván gỗ ngang tầm hông. Xòe bàn tay ra, tôi nhìn, phần Kite dùng để miết là khoảng rìa ngoài ngay bên dưới ngón tay út. Ngoài khoảng bụi bẩn hiển nhiên, có một vùng trống giữa chúng sạch sẽ đến dị thường. Chúng tôi đã không thể thấy rõ nó với điều kiện ánh sáng tồi tệ hiện tại.

“Ngón tay này mới, to, lực ấn khá mạnh. Tôi không nghĩ đây là của lão già kia…”

“Tức là có người khác, cụ thể là một kẻ mạnh đã tới đây.”

Kite đưa tay còn lại lên để vò trán mình một cách đau đớn. Anh chắc chắn đã nghe rõ nhận xét của tôi. Thế rồi, khi con người đó bắt đầu bước đi, tôi đã hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Chúng tôi vẫn đang tuân theo các chỉ dẫn của lão cỏ bảy lá một cách ngoan ngoãn. Lão thậm chí còn bày ra hẳn việc có thể có mai phục – chính là một trong nhiều kẻ đã miết ngón tay đó.

Kite không quen bị người khác kiểm soát, chắc chắn là vậy rồi, và thực sự ra mà nói thì ván cờ chúng tôi đang chơi quá rủi ro. Nhưng tại sao anh lại không quay về để gọi thêm người nhỉ? Trong vụ của Gaunlet, hàng chục nhân chứng và xe đánh lạc hướng có thể được huy động. Kite cũng là một trong bốn người có địa vị cao nhất trong tổ chức chỉ sau lão ngồi trên, quyền lực của anh là rất lớn ở thành phố này.

Nhưng nếu tôi có thể đoán được toàn bộ suy nghĩ của Kite, điều đó còn kì lạ hơn nữa. Có những cử chỉ và thái độ anh cố tình để tôi nghĩ là như vậy, tức là đôi khi tôi đang đọc một vở kịch thay vì những gì người đồng nghiệp đang thực sự có trong đầu.

Bỏ những chuyện lung tung đó sang một bên, tôi theo anh chầm chậm tiến vào con ngõ mà theo bản đồ thì ở đó có điểm đến của chúng tôi. Đập vào mắt tôi là một căn nhà kính lớn, cũ kĩ, lớp mái đã không còn trong suốt mà hằn rõ những mảng rêu đen sì trong ánh trăng yếu ớt. Ngay lập tức, Kite rút khẩu súng đã được lắp giảm thanh, à không, miêu tả thế là đã quá chậm về những gì đã xảy ra. Cụ thể là anh tiến vào ngõ một chút, tôi bám sát ngay sau, một tiếng nổ vang lên, anh giật về sau, kéo tôi ngược về con phố.

“Một bầy nhung nhúc.”

Kite rít qua kẽ răng, không nhìn tôi – tất nhiên là thế. Anh đảo mắt như xử lý các kế hoạch đang có và tìm ra lựa chọn tối ưu.

Từ trong con ngõ tối, một âm thanh vang lên, hả hê và gợi đòn.

“Ô kìa, Kite, à, chúng ta chưa từng biết nhau nhỉ, hoặc tao chưa từng biết mày cho đến tận ngày hôm nay. Mày đã suýt nữa chặt đứt Bách Túc bọn tao bằng bài báo khốn nạn đó. Ôi, lão lẩm cẩm kia đã lảm nhảm về những gì mày làm và tao đã đinh ninh mày tới đây mà không có súng. Nhưng tiếc là mày cũng chỉ là một thứ bẩn thỉu, dập cái ảo mộng mình là bậc cao siêu thanh trừng thế gian đi! Rác và rác, rác rưởi! Với từng này quân số, bọn tao sẽ đè chết mày!”

Tôi đã nhớ ra chúng. Một dây chuyền cớm bẩn cố gắng kéo lòi đuôi tổ chức chúng tôi ra và bị Kite cho một đòn chí mạng. Đó là một cú sốc của thành phố, và cũng là khoảnh khắc mà tổ chức đánh dấu sự độc quyền trên thị trường. Việc quái gì phải mắc vào đám cớm bẩn bằng cả tấn tiền với nỗi lo một ngày nào đó chúng sẽ khui ra và ăn mừng trên xác mình trong khi có thể làm việc với tội phạm thật sự, nơi mà không bên nào có thể tiếp cận với ánh sáng.

Bách Túc từng làm dịch vụ kiếm tiền trên cái ác giống chúng tôi.

Từng thôi.

Và nếu giết được Kite, chữ “từng” có lẽ sẽ phai đi một chút.

Tôi càng không thể hiểu rốt cuộc cái gì đang nắm đằng sau. Tên Tử Thần phụ trách thông tin? Lão bảy lá? Đám Bách Túc?

Nếu giờ ló mặt ra để bắn như ảo tưởng mình là bất khả chiến bại, đầu của Kite sẽ văng tung tóe ngay lập tức. Tôi có thể đảm bảo anh không làm việc đó.

“Tìm cách để vào cái nhà này đi.” Anh bảo tôi trong khi cạ súng vào sát mép vuông góc ranh giới giữa ngõ và phố.

Tôi đứng dậy, gõ cửa ngôi nhà kia và bước vào với khuôn mặt chắc là không đáng sợ. Họ thì đang sợ, tất nhiên là thế. Khả năng cách âm của chỗ này với ngoài phố gần như bằng không, tôi thậm chí vẫn còn nghe thấy tiếng xe ở tít đằng xa. Đưa hai tay lên để thể hiện mình không có vũ khí, tôi bắt đầu hạ giọng như tiếng dẫn chuyện vào đoạn kinh dị.

“Các vị cũng biết rõ chuyện gì đang xảy ra. Tôi thực sự nghĩ rằng khả năng ngôi nhà này bị phá hủy còn thấp hơn khả năng một viên đạn lạc sẽ vô tình… Ai cũng hiểu mà, đúng không? Vậy xin hãy rời khỏi đây ngay.”

Tôi thấy khả năng ăn nói của mình thật tệ. Nhưng bằng cách nào đó, họ vẫn bỏ chạy một cách vội vã, chắc là do vấn đề cách âm và đoạn diễn văn của Bách Thủ. Tôi ló đầu ra để gọi Kite thì ngay lập tức anh đã xông thẳng vào trong, ngắt mọi nguồn ánh sáng – hai bóng đèn tù mù nằm ở trước cửa và trên bàn ăn. Anh khựng lại một chút rồi nhảy về phía tủ, ném nồi niêu ra khắp mặt sàn trong lúc chỉ tôi ra ngồi ở trong góc.

Lúc này, những kẽ hở của ván gỗ ghép không khít nhau bắt đầu vẽ ánh trăng lên chúng tôi. Dưới điều kiện mà giơ bàn tay mình ra chẳng thể đếm nổi năm ngón, Kite nằm xuống sát đất.

“Nào nào, bọn ta không có súng đâu, đừng trốn vậy chứ?”

Giọng của tên mà tôi nghĩ là thủ lĩnh Bách Thủ lại vang lên.

Kite đập một cái đĩa, ngay lập tức tiếng hắn ngân nga im bặt. Một chuyển động nhỏ kèm theo một âm thanh tí teo xuất hiện ngay sau đó. Sau khi dứt, một tiếng hô lớn bên ngoài vang lên. Người đồng nghiệp của tôi lia những mảnh của đĩa vỡ tung tóe ra khắp mặt sàn, va chạm với đống xoong nồi mỏng dính – tức là nó còn vang hơn nhiều so với loại đắt tiền. Bóng anh như một sinh vật dị hợm đã di chuyển lên trên bàn ăn, đứng im tại đó.

Tôi bắt đầu hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Một tên bên ngoài đã bị bắn hạ. Và nếu như Kite còn dám ở lì tại chỗ cũ, đám tự xưng không có súng kia sẽ sớm tìm ra anh và nã cả băng đạn vào.

“Nào Kite, bình tĩnh nào chú bé quán Mimmore.”

Lại một lần nữa, khẩu súng kèm giảm thanh rít lên, một tên nữa nằm xuống. Không khó để nhận ra dấu hiệu Kite đã bắn trúng – chỉ cần tiếng tên thủ lĩnh im bặt. Ngay sau đó, tôi vớ cái đĩa gần mình nhất, đập nó và lia lên những chỗ mà tôi nghĩ rằng đang có nồi để tạo nên một tràng âm thanh vang dội. Kite đáp nhẹ nhàng xuống sau đầu tôi, nép vào khu vực có những cái nẹp có vẻ kín đáo nhất.

Cái này cũng giống vụ cái đồng hồ ở phố Stab.

“Đùa đủ rồi, thằng khốn nạn. Mày còn chẳng biết cách để trân trọng những gì mình có nhưng lại rất thích cướp đi từ người khác. Bách Thủ và chúng mày chẳng việc gì phải đánh nhau cả. Bọn tao chẳng làm gì hết, tất cả là vì thằng như mày. Bọn cớm giờ cảnh giác hơn, thiệt cả tao với mày, ngu dốt. Nào, Kite, mày có thể nói năng lưu loát đến mức thao túng được những người đến thăm bảo tàng cơ mà, giờ cậy mồm chẳng được một câu thế?”

Những điều đó không phải sự thật, tôi biết vì hồi còn làm nhãi nhép, cái trận mà cả phân đội tôi gần như bốc hơi là do đạn của đám cớm bẩn Bách Thủ. Chúng chính là thứ ám ảnh tôi mỗi khi mở cửa xe, rằng có thể phía bên kia chính là vô số ống nòng đen ngòm được dập số hợp pháp chĩa vào mình.

Hắn chỉ cố để câu một lời nói của Kite. Nếu hắn thành công, vị trí của Kite có thể bị lộ.

Nhưng tiếc là chỉ có sự tĩnh lặng đáp lại.

Một loạt đạn được xả lên bức tường. Tôi nằm thấp xuống, Kite cũng y hệt. Hàng ngàn hạt bụi gỗ li ti tỏa ra trên chính ánh sáng chiếu từ những lỗ đạn như mưa. Bọn tôi không trúng viên nào do đã nấp kĩ ở dưới, và tất nhiên phần nhiều cũng là do may mắn. Tôi sẽ không nói Bách Thủ là rác rưởi vì rêu rao mình không có súng xong rút cả băng ra nã đâu, vì đó là lẽ thường của thành phố này mà.

Kite bắn thêm được một viên sau khi làn đạn dứt. Thật tởm lợm. Tôi còn chưa kịp hoàn hồn mà anh đã có thể phản công. Không như anh – tức là như một con người bình thường giống tôi, tên cầm đầu ngoài kia gầm lên và điên cuồng bắn. Hắn ra lệnh cho gần như tất cả những thành phần có khả năng bắn tung toàn bộ hỏa lực. Tôi ước mình có thể đào xuyên lớp sàn gỗ để chui sâu xuống đất, vì dưới áp lực thế này, may mắn là không đủ.

Kite nhấc được một cái lon đậu đóng hộp – tôi nhìn được vì ánh sáng càng lúc càng rõ trên bức tường càng lúc càng nhiều lỗ, rồi ném nó về phía cửa thật mạnh. Cánh cửa bật tung ra, ngay lập tức áp lực của làn đạn không còn đè lên phía bọn tôi nữa. Bọn chúng bị thu hút vì nghĩ có kẻ đã lao ra khỏi cửa. Khẩu súng trên tay Kite nổ lia lịa đạn, độ chính xác chắn chắn không cao nhưng qua lỗ, tôi đã thấy ít nhất ba tên nữa nằm xuống chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Chúng tụ lại dưới bóng tối mà những căn nhà đối diện ban phát nên rất dễ bắn trúng.

Sau khi làn đạn dứt, bức tường đã chẳng còn khả năng che chắn nữa. Giờ thì tầm nhìn giữa hai bên đã gần như xấp xỉ nhau, Kite không thể nhảy qua nhảy lại để tỉa từng tên một. Có thể nói, vào giờ phút này, hai phe đang đối diện nhau qua một lớp kính.

Tên đầu sỏ ngoài kia xé cái áo sơ mi vốn quá nhỏ bé để bọc những thớ cơ khủng khiếp của một viên cựu cảnh sát, vứt khẩu súng trường xuống một góc xa, lộn trái túi, ra lệnh cho hai tên đằng sau lặp lại toàn bộ các động tác đó. Có vẻ trên người bọn hắn đã không có súng.

“Mày đã bắn hết một băng và chưa kịp nạp đạn.”

Tên đầu sỏ nói, nở một nụ cười ngang tàng như thể hắn đã trở thành chủ nhân của trận chiến này. Điều hắn nói có lẽ là đúng, tôi đã không đếm được số đạn Kite đã bắn, nhưng từ lúc tầm nhìn giữa cả hai bên bằng nhau và khoảng cách bị thu hẹp đến mức có thể cận chiến, anh đã không tạo ra bất kì cử động nào.

Kite không phải Viola, tôi tin rằng tốc độ nạp đạn của anh không thể nhanh bằng cô.

Tháo băng đạn ra, đợi nó tuột xuống rồi rút được băng khác từ túi ra để lắp vào, chưa tính đến việc những thớ vải và mồ hôi tay hoặc dầu súng có thể làm giảm tốc. Trong ngần ấy thời gian, tên khổng lồ kia đã đủ lao xuyên qua bức tường lỗ chỗ như tổ ong và bóp chặt cổ anh. Thậm chí hắn có thể dư sức ăn hai ba viên vào bụng mà chẳng lo về tính mạng với thể hình như vậy. Nếu trong trường hợp bình thường, tôi sẽ nói mọi chuyện sẽ thật tệ nếu hắn ta là một tay cớm chuẩn, nhưng lần này, dù là cớm bẩn thì cũng là tai họa.

Kite vứt súng xuống đất, giơ hai tay lên trời, chầm chậm đi ra phía cửa. Anh đứng trước kẻ cao hơn mình hẳn một cái đầu đang sửa lại khớp vai như thông báo về màn tra tấn sắp xảy ra. Kite tung nắm đấm trước, nhưng khác hẳn khi đối đầu với tôi, bàn tay anh bị tóm lấy, nghiền đến mức không còn giữ được các ngón ở đúng vị trí của nắm đấm – tư thế tốt nhất để chịu lực.

Sau một khắc quan sát, tôi bỗng thấy rùng mình.

Tôi ngay lập tức nhặt khẩu súng dưới đất lên, chĩa về phía hắn, cùng lúc đó hai tên thuộc hạ kia đã bắt đầu có động thái định đi nhặt vũ khí.

“Bọn mày dừng lại.”

Tên đầu sỏ cười, vẫn tóm Kite như xách một con nhái.

“Mày bắn đi, trúng nó hay trúng tao làm sao biết được.”

Tôi run tay, cả người giật lên. Kĩ năng của tôi về thứ vũ khí này rất tồi, đấy là nếu như không muốn nói là tôi chẳng mấy khi bắn, sẽ không bao giờ có chuyện Viola nhập vào cơ thể này và lia viên đạn vào thẳng đầu tên kia. Thế rồi, từ tay đến vai tôi nảy lên nhưng không có gì xảy ra cả.

“Tao đã bảo nó hết đạn rồi mà.”

Hắn quăng Kite xuống đất, băng đạn còn lại trong túi anh bay ra như một chất xúc tác làm điệu cười hắn càng thêm man rợ. Những viên đạn có thể cứu cánh tình thế này bị đá văng ra xa, hắn thì tiếp tục bước, giống như nói số phận của Kite tiếp theo cũng như vậy.

Anh đã kịp đứng dậy một lần nữa, tung ra câu trả lời của mình để rồi bị gạt sang một bên như giấy. Ngay sau đó, Kite tiếp tục bạnh hai ngón tay ra, định chọc vào mắt đối thủ khi hắn đang mất đà trong cú hủy đòn. Nhưng hắn nhanh như một con gián, ngửa về phía sau một cách khó hiểu với cái cơ thể đồ sộ đấy. Một đấm đáng tầm nốc ao được tung thẳng vào hàm Kite.

Chưa bao giờ chúng tôi có thể đánh thắng quân cớm tinh nhuệ. Bọn điên đấy từng tập đến chết hàng năm trời, không phải như cái đám tạp nham đôi khi chỉ vì vận chuyển chót lọt một gói thuốc kim cương mà được vào tổ chức. Cả một băng của tôi có thể bị xóa xổ chỉ bằng hai ba tên đặc nhiệm cỡ Bách Thủ.

Thật tuyệt khi truyền thông đã làm được việc của mình, tạo ra phim ảnh để cho thấy đám cớm chỉ là loại tép riu trói gà không chặt, dụ dỗ nhiều thằng ảo tưởng đi cướp và rồi bị khóa chặt tay trong vài chục giây. Đám cảnh rất tởm, nghiêm túc là vậy, tôi với Kite không có khả năng đánh tay đôi với chúng.

Đúng như tôi nghĩ, Kite gượng dậy thành công sau lượng sát thương kinh khủng đó. Bọn tội phạm thường chỉ hơn được người khác ở khả năng chịu đòn. Chẳng đẹp đẽ gì, bàn tay kia của Kite vung lên và vẩy cả một đám mây bụi vào mặt tên Bách Thủ. Hắn khựng lại, không dụi mắt mà giật mạnh đầu như thú. Thế rồi, Kite sút một cú cực mạnh vào hạ bộ hắn làm cả cơ thể khổng lồ kia rúm lại.

Hai tên thuộc hạ kia bắt đầu có động thái hoạt động.

Nhưng một lần nữa, âm thanh đó lại cất lên.

“Bọn mày để im!”

Hắn vùng dậy, vung tay quét cả một vùng, tóm được một chút vào áo của Kite. Anh bị đau, quá chậm và yếu so với hắn. Bị kéo lại đầy bất lực, Kite bị vật ra đất, toàn bộ sự phẫn nộ của một người đàn ông trúng đòn dồn vào những cú đấm. Tên đó lúc này chỉ còn nghĩ đến việc trả thù thôi.

Và thời điểm đó quá hoàn hảo, chẳng rõ Kite có tính đến việc này hay không.

Kẻ đang điên cuồng giáng những nắm tay to bằng cái bát xuống kia khựng lại, lăn đùng ra với vũng máu bắt đầu loang ra từ cơ thể.

Tôi lao ra ngoài, kéo Kite – người đang be bét máu khắp mặt vào căn nhà kính cũ kĩ kia. Hai tên lâu nhâu cố gắng chạy theo bị tôi giơ khẩu súng thẳng vào mặt, sợ chết và buộc phải lùi lại. Chúng không có thể hình của tên đã chết sau viên đạn xuyên cổ - nói thật là tôi đã ngắm để ghim vào đầu hắn nhưng bắn dở quá, nên dĩ nhiên không dám manh động. Và cũng tất nhiên, không phải tên đầu sỏ tự nhiên là tên đầu sỏ, hắn có bản lĩnh mà đám kia không có.

Chúng dần lùi lại, có lẽ là sẽ đi gọi cứu viện.

Tôi và Kite thành công bước vào trong ngôi nhà kính không khóa. Một khung cảnh điêu tàn hiện ra trước mặt tôi. Những mảnh vỡ của bàn ghế và bát đĩa tung tóe trên con đường nhỏ nằm giữa hai luống cây lớn. Tường kính đã nứt vài chỗ, cảm giác như nơi này sắp sập đến nơi. Tôi xốc Kite lên vai mình như lần anh bị bắn, đi lùi vào trong với khẩu súng trên tay.

Vào đến gian phòng thứ hai – nơi mà được ốp gỗ để không trong suốt, tôi đặt Kite xuống ghế và bắt đầu sơ cứu. Khuôn mặt anh đã không còn có thể được nhận ra nữa rồi. Máu mồm trộn với dãi, chảy xuống một cách không thể kiểm soát. Má rách vài vết lớn mà có khả năng sẽ không bao giờ biến mất hoàn toàn.

Tôi tìm được một cái khăn đeo cổ có thể thấm hút tốt, cắt nó làm đôi, một để nhấp nước và rượu để lau sạch các vết thương và phần còn lại để băng bó. Trong suốt quá trình ấy, tôi nhìn quanh căn phòng này – một nơi không biết nên nói là xa hoa hay tầm thường. Nó có một bộ sofa cỡ rác rưởi cực kì cũ kĩ, một cái bàn chạm khắc tinh tế bằng gỗ, một hàng móc treo bóng loáng đầy các loại áo khoác đắt tiền, một tủ rượu lớn, một cái bàn làm việc nham nhở chất đầy giấy. Mọi thứ hỗn tạp như nơi giao thoa giữa các tầng lớp xã hội.

Sau khi băng bó xong, Kite chỉ còn hở mỗi mắt và mũi, miệng anh chắc vẫn mở được nhưng sẽ khá khó khăn. Tôi ngồi xuống, lau khẩu súng bằng vạt áo mình. Khi nãy, thứ này chỉ có một viên đạn duy nhất. Trong cái lúc mà tên kia tưởng Kite không kịp làm gì, anh đã gạt một viên từ băng đạn mới ra và vứt nó xuống cùng với khẩu súng.

Nhưng lại sao lúc đầu tiên thì tôi lại không bắn?

Tôi cũng chẳng rõ nữa, có lẽ bởi tôi nghĩ chắc chắn Kite không muốn tôi bắn luôn chăng?

Thay vào đó, thứ tôi làm sẽ chỉ là một màn biểu diễn tạo ra cái nền tang thương khiến chúng rơi vào bẫy. Để rồi, cho đến khi tên kia bất động đủ lâu và tách khỏi Kite đủ rõ để tôi dám bấm cò, và cũng là khi hai tên còn lại bị choáng váng. Chúng nghĩ tôi đã tìm được một băng đạn khác, chắc chắn là thế, bởi nếu như chỉ còn một viên được Kite gẩy lại, tôi đã bắn luôn từ lúc trước.

Có lẽ Kite đã đoán được chuyện này tới, hoặc không, hoặc có, thật điên đầu, tôi chỉ muốn ngủ thôi. Nhưng giờ là quá rủi ro để có thể chợp mắt. Tôi nhấc khẽ cái ghế nhỏ lên, kê chân mình vào, cơn đau làm cơn buồn ngủ biến mất, khẩu súng lại được siết chặt hơn.

Kite vẫn im lặng, chết ngất trong cơn choáng kinh khủng đó.

Một đêm thật dài qua đi, tôi chỉ cố để không gục xuống. Ban đầu, với lồng ngực vẫn còn chưa kịp bình tĩnh lại thì điều đó thật dễ, nhưng rồi sớm thôi, tôi bắt đầu phải đối mặt với ảnh hưởng của sự mệt mỏi và căng thẳng của ngày vừa qua. Sớm thôi, tôi biết là tôi sẽ khó có thể hoàn thành việc thức trắng đêm nhưng ít nhất là có thể kéo dài nó nhất có thể.

Nhưng tại sao tôi phải làm trò này chứ? Tôi đã có thể nộp Kite ra, hoặc mặc kệ anh, rời khỏi đây càng sớm càng tốt. Tôi đang tự thuyết phục mình rằng sẽ chẳng thể chạy khỏi tầm ảnh hưởng của tổ chức, nhưng thực ra là tôi cũng thích những cuộc phiêu lưu thế này, chắc thế. Từ nhỏ tôi đã tưởng tượng đến việc này, hoặc là cảnh được ăn no. Nhưng chắc chắn, chưa một lần nào trong kí ức này có hình ảnh của một “tôi” sạch sẽ. Góc nhìn của đáy xã hội tồi tệ thật.

Kite thì sao chứ? Anh sinh ra từ đâu? Thật khó để biết, đúng hơn là để nói, nhưng anh cũng tầm thường và trẻ con giống tôi. Anh đã thừa nhận việc vụ này thú vị và truy giết một lão già sẽ có rất nhiều khác biệt đối với những lần khác.

Nhắc thế mới nhớ, chúng tôi đang ở trong nhà lão.

Có lẽ đó là dòng suy nghĩ tử tế cuối cùng mà tôi có trước khi thiếp đi.

Lúc tôi tỉnh dậy, Kite đã ngồi thẳng trên ghế sofa, tay cầm khẩu súng chĩa về phía trước. Khuôn mặt anh chỉ lộ ra cặp mắt, nhưng, bất chấp việc những biểu cảm không thể hiện ra, người đồng nghiệp của tôi vẫn toát lên sự đáng sợ. Đối diện anh, không ai khác ngoài lão cỏ bảy lá. Lão nở một nụ cười nhẹ nhàng khi thấy tôi tỉnh lại, từ từ đứng dậy và bước về phía cửa dẫn vào phía trong.

“Người thay đổi vận mệnh của anh đã tỉnh lại rồi đấy Kite.”

Lão nói trong lúc đi.

Tôi và anh bước theo.

Có thể có mai phục, tất nhiên rồi. Cùng một mối lo như tôi, Kite tiến sát về phía trước, định dí súng vào sát đầu lão ta để có thể uy hiếp. Nhưng, như đã đọc thấu nỗi lo đó, cỏ bảy lá giơ hai tay lên trên, tự dừng lại để Kite có thể áp sát.

“Nếu tôi muốn giết hai người thật thì sao nhỉ?”

Lão mỉa mai.

Thế rồi, bọn tôi đi theo lão. Trong căn nhà kính đấy, qua những khu vườn đầy một loại cỏ thấp sát đất mà mãi về sau tôi mới nhận ra đó là gì. Cỏ ba lá nhưng nhiều lá hơn. Dấu tích đập phá hiện ra ở khắp nơi càng lúc càng tô đậm sự rùng rợn tôi đang cảm thấy. Những câu hỏi về việc lão ta rốt cuộc đang định làm gì không còn tồn tại nữa mà dần trở thành một loại tò mò, giống như đã đắm trong những sự việc đủ lâu để không còn thấy sự kì dị.

Cuối cùng, đến một gian phòng chắp vá nằm giữa nhà kính, lão dừng lại.

Ở đó, hai luống cỏ nằm ở hai bên, một cái ghế đặt ở giữa đường, một sợi thòng lọng rủ từ trên mái xuống. Lão cỏ bảy lá đột nhiên buông tay xuống, chậm rãi cúi mình bên luống cỏ rồi ngắt một bông đưa cho Kite. Qua vai anh, tôi đếm những lá mà nó có.

Sáu lá.

Đây không phải may mắn, chắc chắn không phải, bởi ngay khi tôi chú ý vào chúng, tất cả dường như đều có sáu lá.

“Sáu lá là giới hạn của số phận tôi rồi. Thật khó chịu. Từ ngoài kia trải vào đây là cỏ ba lá, cỏ bốn lá, cỏ năm lá, cỏ sáu lá và cuối cùng, tại đây, nơi mà theo tôi mười năm về trước sẽ trồng đầy cỏ bảy lá. Tôi đã tưởng tượng mình sẽ nhặt một cành lên, để lên một băng ghế trên đường, để một kẻ nào đó được lên báo hoặc đơn giản là có niềm vui. Thế rồi, dù thế nào, bông cỏ đấy sẽ ám ảnh chúng như đã làm với tôi, và chúng sẽ phải lao đầu vào để vươn tới những con số còn kinh khủng hơn nữa.

Trong quá trình đó, chúng còn chẳng để ý mình đã vô tình can thiệp vào vận mệnh và rồi nghiệt ngã nhận ra rằng có những thứ không thể bị thao túng. Chúng sẽ tuyệt vọng. Chúng sẽ đau đớn. Chúng sẽ cảm thấy một lần giác ngộ nữa đằng sau cái giác ngộ rằng những thành công chúng có sau khi nhặt được bông cỏ ấy là do chính khả năng của bản thân – rằng mọi thứ thực ra đều do vận mệnh.

Nhưng cuối cùng, tôi lại chẳng thể làm thế được vì bông cỏ bảy lá nhân tạo đã không thể sinh ra. Tôi hết hi vọng rồi. Bởi vậy, tôi đã thách thức người nắm quyền sinh sát của biết bao số mệnh trong thành phố này – anh. Đã đến lúc phải kết thúc rồi, và anh đã thắng, vì tôi muốn như vậy…

Vì tôi muốn có ít nhất một lần nữa mình thao túng vận mệnh… dù cho nó là của chính mình. Theo giao kèo với chúng, tôi sẽ im mồm ở đây, nhưng cố thay đổi các tính toán một tí cũng chẳng sau đâu nhỉ? Hãy tìm… hai kẻ… không mù.”

Lão đã leo lên ghế, bắt đầu treo mình lên thòng lọng trong suốt cả quãng những lời trăn trối ấy. Khuôn mặt tưởng chừng không gì có thể làm tắt nụ cười kia dần tím lại, nỗi đau cố bị nén quyện vào với biểu cảm bản năng tạo nên một cảnh tượng càng kinh dị hơn nữa. Không lâu sau, lão đã chết.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận