Tiểu Hồ chẳng xa lạ lục địa Đông Thổ. Con người lẫn tập quán xứ ấy trong mắt nàng tuy khác biệt song quen thuộc. Cuộc sống luyện tập và nghiên cứu sách vở cùng giúp cô gái hiểu rõ xứ sở phương đông. Người Đông Thổ không ăn bánh bột mì mà ăn cơm, con cái sống với cha mẹ tới già, con trai được ưa chuộng hơn con gái, lợi ích gia đình đứng trên tất cả, danh dự quan trọng hơn tính mạng, kẻ hậu sinh thừa kế mọi thứ từ người đi trước kể cả nợ máu – Tiểu Hồ biết những điều căn bản đó từ sớm. Nàng chăm chỉ không phải vì ham học hỏi, cô bé Tiểu Hồ mười tuổi cũng ham chơi như bao đứa trẻ khác. Sự chăm chỉ đó bắt nguồn từ một lời cảnh báo.
“Khi con được mời tới nhà của một người Đông Thổ, đừng lại gần khu thờ cúng nếu chưa biết rõ quy tắc...” – Đại thánh sứ Tây Minh nói với cô bé Tiểu Hồ mười tuổi – “...cha mẹ, người thân, tổ tiên của họ ở đó. Con không thấy họ nhưng người Đông Thổ thấy họ. Với người Đông Thổ, một căn nhà bắt buộc phải có bàn thờ. Đừng làm đổ vỡ hay xúc phạm bàn thờ. Một ông nông dân người Đông Thổ sẽ giết con nếu dám làm bàn thờ nhà ổng suy suyển. Mọi cuộc chiến hay báo thù ở Đông Thổ đều vì bàn thờ. Hiểu chứ Tiểu Hồ?”
Khi đó đại thánh sứ không cười mỉm cũng chẳng lúc lắc đầu kiểu “sao cũng được”. Ông dạy Tiểu Hồ lễ nghi cúng bái của người Đông Thổ, dạy cẩn thận, tưởng chừng không muốn cô bé phạm vào sai lầm nào đấy mà ông từng mắc phải. Tiểu Hồ đoán thế. Nàng cũng chưa bao giờ hỏi, chỉ phỏng đoán. Nỗi kính sợ tập tục thờ cúng của người Đông Thổ từ đó lớn dần trong cô bé rồi ngang bằng, thậm chí lớn hơn niềm kính ngưỡng Vạn Thế.
Bây giờ, cô gái Tiểu Hồ trưởng thành đang đứng giữa nhà của một người Đông Thổ và sắp lật tung bàn thờ nhà đó. Lật tung bàn thờ! Lật cả bàn thờ! – Tiểu Hồ lẩm bẩm trong nước mắt chảy ngược. Nàng nửa cười nửa mếu với vị gia chủ:
- Xin lỗi ông Tinh Ngôn Gia nhưng thực sự là chúng tôi rất vội! Tôi rất muốn giải thích cho ông nhưng thời gian không còn nhiều, chúng tôi phải đi ngay! Ôi... tôi thành thực xin lỗi... thề có Vạn Thế, tôi sẽ gửi quà hậu tạ ông.
Cô gái nói rồi chắp tay nhằm biểu thị thành ý. Phần vị gia chủ, ông ta vẫn chưa hết bàng hoàng, chiếc bát gỗ trị giá cả thùng quang tố trong tay run rẩy muốn rớt. Một gã vệ sĩ liền đỡ lấy cái bát sau dìu Tinh Ngôn Gia ngồi xuống ghế. Trong lúc đấy bọn vệ sĩ khép chặt vòng vây quanh Cụ Cố Tổ và Tiểu Hồ, gã nào gã nấy bặm trợn chực đập nhừ xương hai người. Nhìn đám này một lượt, Tiểu Hồ chắc mẩm vài gã là kiếm sĩ thượng đẳng hoặc lính đánh thuê, nàng muốn ra khỏi đây cũng phải trầy da chảy máu.
Cụ Cố Tổ lại chẳng bận tâm dù đang lọt thỏm giữa bọn hộ pháp cao to hơn nửa thân người. Ông già cúi lưng, nhìn vị gia chủ qua háng của một gã vệ sĩ:
- Sao? Cho mượn không đây? Này thằng nhóc, mày nên ra ngoài chạy bộ vận động thân thể chứ không phải ngồi đây uống trà. Hãy trả lại màu xanh cho vùng đất này thay vì dựng lên sắt thép. Tổ tiên người Bắc Thần chúng bay không giống như vậy, họ tôn trọng tự nhiên và biết sợ trời. Nhưng chúng bay không như thế. Chúng bay đem máy xúc máy ủi tới Tây Vực Châu, đốn hạ bằng hết rừng rậm núi xanh. Chúng bay đốn hết cây để đẻ ra cái gọi là xưởng lọc khí! Trời ơi, có lũ nào ngu như chúng bay không hở trời?
Trông bộ mặt lão già cười khề khà dưới háng tay vệ sĩ, Tinh Ngôn Gia tức lồi mắt, sự kiên nhẫn xì hơi qua hai lỗ mũi phập phồng. Ông chủ xưởng lọc khí nghiến răng, đầu hói chảy nhẫy mồ hôi, phong thái của một vị doanh nhân điềm đạm thích thưởng trà bốc hơi sạch sẽ:
- Ta đón tiếp ông rất tử tế dù ông luôn nhục mạ ta là “thằng nhóc”. Ông đụng tới bàn thờ nhà ta? Này lão già, nhìn ông cũng giống người Đông Thổ, là dân nước nào? Diệp quốc? Khuyên quốc? Bắc Thần quốc? Liên Vận quốc? Ồ, hay ta nhầm? Phải chăng lão đến từ chỗ rác rưởi ổ chuột nào đấy không có ánh sáng văn minh? Vậy thì nghe đây lão già, ông có thể sỉ nhục ta nhưng đừng đem bàn thờ nhà ta làm trò đùa! Ta sẽ gửi ông vào nhà đá ở Tây Vực Châu cho tới khi người ta mở phiên tòa xét xử ông tội lăng mạ người khác. Còn khi nào mở phiên tòa ấy à? Là khi Tây Vực Châu mọc lên một cánh rừng, đúng theo sở nguyện của ông! Các anh! – Ông ta quay sang bọn vệ sĩ – Đưa hai vị khách khó ưa này cho sở cảnh binh... à không, như vậy dễ dãi quá! Hãy mang chúng ra ngoài thị trấn, để buồng phổi của chúng ngập trong khói bụi Tây Vực Châu và chúng sẽ hiểu cuộc sống chẳng có gì quan trọng ngoài hít thở không khí trong lành.
Nghĩ ra kế hoạch hành hạ người khác, Tinh Ngôn Gia vươn vai khoan khoái, trở lại phong cách doanh nhân điềm đạm thích uống trà. Bọn vệ sĩ tụm lại túm cổ hai vị khách không mời. Tiểu Hồ rút kiếm đe dọa. Đám vệ sĩ liền chĩa vũ khí về phía nàng lẫn Cụ Cố Tổ, nòng súng mũi kiếm dựng lên tua tủa. Cụ Cố Tổ tặc lưỡi:
- Ta hỏi tử tế mà mày thích động chân tay? Thế thì ráng chịu nhé!
Lão già búng tay kêu “Chách!” một tiếng. Gần như ngay tức thì bọn vệ sĩ bủn rủn tay chân rồi sụm xuống như những cục giấy vệ sinh nhũn nước, mặt mũi xanh ngắt không còn hột máu. Cả Tiểu Hồ lẫn vị gia chủ đều ngạc nhiên trước cảnh tượng kỳ quặc đó. Cụ cố nhảy lên, đạp trên lưng bọn vệ sĩ đoạn tiến đến trước Tinh Ngôn Gia, miệng cười nói, tay chỉ trỏ:
- Nhện bỏ bùa là một lũ quái vật, chẳng loài động vật nào trên đời tởm lợm hơn chúng. Trong rừng, ta trò chuyện với mọi muông thú trừ thứ súc sinh này...
Trông ngón tay khẳng khiu que củi của ông già, vị gia chủ liếc mắt, hoảng hồn khi phát hiện một con nhện to bằng lòng bàn tay đang bò trên vai mình. Khắp người con nhện vằn vện màu xanh đỏ tím vàng sặc sỡ, tám cái chân cứng như chân loài giáp xác chọc vào da thịt làm Tinh Ngôn Gia đau đớn. Bấy giờ Tiểu Hồ nhìn xuống, phát hiện nhện bỏ bùa đang bò quanh cổ bọn vệ sĩ. Không ai biết Cụ Cố Tổ đã thả bầy nhện ra từ lúc nào hay điều khiển chúng ra sao. Trông lũ chân khớp lổm ngổm, Tiểu Hồ nổi da gà, ký ức về lũ nhện cùng hành lang cấm túc bất giác hiện lên trước mắt. Nàng sợ nhện.
- Mày biết nhện bỏ bùa sinh sản kiểu gì không, thằng nhãi? – Cụ cố nhìn Tinh Ngôn Gia, cười khề khà – Chúng sẽ tìm một con thú to lớn hơn mình gấp chục lần, bơm chất độc và khiến con thú chết rục. Sau đó, hờ hờ hờ, con nhện chui vào bên trong, hút hết mớ nội tạng xương tủy đã tan chảy vì chất độc rồi đẻ trứng. Hiểu chứ? Nó vừa ăn vừa chăng tơ vừa đẻ! Sau đấy lũ nhện con chui ra, ăn cái xác của mẹ chúng, ăn thịt vật chủ rồi ăn thịt lẫn nhau, cho tới khi chỉ còn một con duy nhất! Con nhện đó là con to lớn nhất và độc nhất. Ở đây có đủ “căn hộ” cho bọn nhện sinh sống đấy, mày muốn làm tổ cho chúng không?
Ông già nhe nhởn bộ răng cái sứt cái lành, con nhện bỏ bùa ngoác mồm chìa hai chiếc nanh đối xứng nhau như đầu kìm. Trước hai bộ nhá đầy đe dọa, Tinh Ngôn Gia sợ chết khiếp. Ông chủ xưởng lọc khí run bần bật đoạn chỉ về bức tường nạm ngọc phía trái. Trong biệt thự, bức tường đó sáng nhất và được chạm trổ công phu nhất: ngọc tạc hình Vạn Thế cùng Nữ Thần Tiên Tri, vàng điêu khắc hình Bát Đại Hộ Vệ, bạc trang trí khung cảnh hoa lá cành. Cụ cố lôi xềnh xệch vị gia chủ đáng thương đến bức tường. Vẫn bị con nhện bám bờ vai, Tinh Ngôn Gia lập cập đứng dậy, đặt tay vào giữa khối ngọc Vạn Thế. Máy quét vân tay nhá sáng rồi bức tường ngọc tách đôi, mở ra một điện thờ im lìm trong ánh đèn đỏ mờ. Ông già hẩy Tinh Ngôn Gia qua một bên đoạn ngoái đầu gọi Tiểu Hồ:
- Thôi để ta xem cái bàn thờ, con nhãi mày lên đây cũng chẳng được việc gì sất! Này, mày lục tủ lạnh xem có gì ăn không? Nhanh nào con nhãi, chúng ta không nhiều thời gian đâu!
Bàn thờ của người Đông Thổ thường chiếm một góc nhỏ, lấy thẻ hương nghi ngút làm trang nghiêm, lấy trang nghiêm làm không khí ấm cúng. Nhưng kẻ giàu như Tinh Ngôn Gia thì xây hẳn điện thờ cầu kỳ nhằm chứng tỏ sự giàu sang đồng thời bày tỏ niềm thành kính tâm linh. Liếc qua khu điện, Tiểu Hồ thấy ba bàn thờ xếp theo thứ tự bậc thang. Hai bàn đầu tiên đặt bài vị tổ tiên của Tinh Ngôn Gia, bàn thứ ba xếp tượng Bát Đại Hộ Vệ cùng những vị tà thần truyền thống của người Bắc Thần như nữ thần mình rắn Dệt Thiên. Bàn cuối cùng cao nhất dựng tượng Nữ Thần Tiên Tri với tạo hình kín đáo và đậm tính thẩm mỹ phương đông, khác xa vị Nữ Thần mà Tiểu Hồ từng gặp ở đất thánh. Mỗi bàn thờ đều có bát hương cháy nghi ngút. Thẻ hương to nhỏ đủ loại từ hương thẻ nhỏ, hương vòng xoắn ốc, hương cây to như cây sào, hương chùm treo lơ lửng... tỏa mùi nồng xực khắp không gian. Nhìn điện thờ tỏa ánh đỏ mờ mờ, Tiểu Hồ cảm giác ớn lạnh, trong lòng không muốn dây dưa chỗ đó dù chỉ một chút.
Nhưng Cụ Cố Tổ đụng chạm không chỉ một chút. Nói đúng hơn là ông già đang nhảy lên bàn thờ, chân phải đá bát hương chân trái đạp bình hoa, chai rượu quý rồi lọ hương trầm từ bàn thờ thay nhau rơi rớt vỡ toang hoàng. Ông già lùn mà bàn thờ lại cao nên leo trèo cho tiện. Cụ cố nheo mắt đọc, rờ tay sờ lần từng bài vị, thấy không hợp ý thì quẳng ra sau lưng như vứt đồ cũ. Từng tấm bài vị đâm chúc đầu va đập lổng cổng mặt sàn. Ông chủ Tinh Ngôn Gia đáng thương bắt đầu khóc lóc, nước mắt tèm lem khi ông bà cha mẹ của mình đang xụi lơ thành những đống chỏng chơ trên sàn. Cụ Cố Tổ cắp nách vài chiếc bài vị, lại mò lên bàn thờ thứ hai và tiếp tục công cuộc phá hoại. Lão già gắt gỏng:
- Khóc lóc cái con khỉ! Chỉ mấy miếng gỗ thôi mà mày khóc nỗi gì? Tổ tiên mày không ở đây đâu, ranh con! Chẹp chẹp chẹp! Chẹp chẹp chẹp! Nín đi nào, thằng ranh! Ta thừa nhận có trường hợp linh hồn vất vưởng ở Tâm Mộng, nhưng ở đây thì không. Chắc chắn không! Tổ tiên nhà mày đã thuộc về những dòng chảy bất tận bao quanh thế giới, thuộc về Ngũ Hành, thuộc về trời. Chẳng có thứ nào phù hộ cho mày, cũng chẳng có thứ người chết nào phù hộ người sống như mày và lũ Đông Thổ chúng bay nghĩ đâu. Ồ, có trường hợp đó, đích thực là có thứ phép thuật cầu hên, đích thực là có loại ma thuật lấy người chết làm vật tế may mắn. Nhưng mày có biết hậu quả của nó không? À quên, ta hỏi thừa vì mày biết thế đếch nào được! Hờ hờ! Vì mày cùng lắm chỉ sống tới một trăm tuổi là đứt, trong khi ta sống đủ lâu để thấy tất cả. Vậy nên... Mày làm cái gì mà lâu thế, con nhãi tóc vàng?! Ta đói rồi!
Nghe tiếng ông già quàng quạc, Tiểu Hồ giật mình vội vã điều tra cái tủ lạnh. Trong lúc đó Cụ Cố Tổ lục lọi bàn thờ thứ hai. Vài món đồ gỗ may mắn được ông già cắp nách, còn những vật xấu số bị ông già sút bay rồi tề tựu với nhau dưới mặt sàn. Giá cắm nến bằng vàng, bình sứ đựng nước thơm, tranh vẽ nạm kim loại quý, tượng ngọc bảy sắc... những thứ trị giá cả trăm thùng vàng giờ tan nát thành một mớ lổn nhổn như bãi rác dưới chân bàn thờ. Cụ cố quay sang Tinh Ngôn Gia, tiếp lời:
- Chúng ta vừa nói gì ấy nhỉ? À... nhớ rồi! Vậy nên hãy để người chết yên nghỉ. Mày chẳng thể đòi hỏi bất cứ điều gì từ người chết và nếu có, mày sẽ phải trả giá. Hờ hờ hờ! Trời chẳng cho không cái gì đâu, trời cho nhưng sẽ đòi lại, đòi sạch sẽ! Nhưng bọn Bắc Thần quốc chúng bay bao đời nay vẫn vậy, chẳng bao giờ tử tế với người sống mà chỉ tử tế với người chết. Tin ta đi, thằng nhãi, khi gặp người chết thực sự thì mày sẽ hết cười nổi. Mày biết tại sao người phương đông làm bàn thờ bằng gỗ không? Trong buổi bình minh của phép thuật, người ta sớm nhận ra có thể gửi gắm linh hồn thông qua nguyên tố “Mộc”, đồng thời là phương tiện để những linh hồn gửi lời nhắn nhủ tới người sống. Rồi đám pháp sư bắt đầu dùng “Mộc” để giam giữ linh hồn và không cho người chết yên nghỉ. Giờ đây, con người chúng bay vẫn tiếp tục thừa kế thứ di sản dã man đó thông qua bàn thờ. Hờ hờ hờ! Mày không bao giờ biết lũ pháp sư nguyên thủy mọi rợ thế nào đâu! Ê con nhãi tóc vàng, có đồ ăn chưa thế? Lâu quá! Ta đói!
Tiểu Hồ vâng dạ rối rít, hai tay khệ nệ bưng ra nào đồ ăn nào bia rượu. Vừa thấy chai rượu sóng sánh ánh vàng, Cụ Cố Tổ chép miệng tèm tẹp rồi nhảy phốc xuống, chọn phòng khách ngổn ngang bọn vệ sĩ làm nơi chè chén. Cụ cố lật lưng một gã làm đệm kê mông, lật bụng một gã làm bàn để đồ ăn. Tiểu Hồ thấy chuyện này bình thường. So với việc lật tung bàn thờ thì nó quá đỗi bình thường! – Nàng lẩm bẩm đoạn trông về khu điện thờ ngổn ngang tan vỡ. Nơi linh thiêng trang nghiêm nhất ngôi nhà giờ đã biến thành bãi rác không hơn không kém. Nàng lại trông về vị gia chủ nhưng không dám dừng lại lâu hơn ở ánh mắt viên đạn của ông ta. Lời cảnh báo năm nào của cha nuôi như bóng ma hiện về, gõ ngón trỏ lên chỏm vai của Tiểu Hồ và thì thầm vào tai nàng những điều khủng khiếp.
Cô gái lo lắng bao nhiêu thì Cụ Cố Tổ vô tư bấy nhiêu, hết ăn lại uống, thi thoảng ợ hơi rõ to. Được lưng lửng bụng, ông già quẳng ra một lô một lốc những bài vị, tượng, chuông gió... tất cả đều làm bằng gỗ. Cụ cố nói:
- Bức phù điêu thú vị hơn ta tưởng. Những mảnh vụn của nó đã phân tán, lưu lạc khắp nơi chứ không tụ về một nơi cố định. Ai đấy đã cố tình làm vậy để ngăn chúng ta tiến vào đền thờ Mộc Thần.
- Ai đủ quyền năng như vậy, thưa ngài? – Tiểu Hồ hỏi.
Ông già ngửa cổ tu chai rượu rồi quệt mép:
- Ba món di vật dẫn tới đền thờ Mộc Thần luôn biến đổi, lúc thành cái nọ lúc thành cái kia, nhưng không bao giờ phân tán kiểu đó. Còn nhớ năng lượng căn bản của Mộc là gì không, con nhãi? Là “sinh sôi”. Mộc đại diện cho sinh sôi chứ không phải phân tán. Bằng nhiều cách, những di vật của đền thờ Mộc Thần sẽ tụ họp với nhau. Nhưng phân tán kiểu này... có thể Lập Hoa Ngân Thôn Cơ đã can thiệp vào lời nguyền. Con bé đó đủ giỏi để can thiệp lời nguyền.
- Tại sao bà ấy làm vậy? Phải chăng bà ấy không muốn người khác tìm thấy đền thờ Mộc Thần? Bà ấy muốn kết thúc thời đại Ngũ Pháp Sư?
Cụ Cố Tổ phun phì rượu, cười ha hả một chặp. Ông già vỗ đùi đen đét:
- Con nhãi tóc vàng thông minh nhưng... thánh thiện quá! Há há! Ôi, cười chảy nước mắt! Ta không cao thượng như mày đâu, con nhãi, ta chỉ nghĩ đơn giản là Thôn Cơ đang che giấu cái gì đó ở đền thờ. Hờ hờ! Nhưng Thôn Cơ chưa đủ cao tay, lời nguyền còn đó, di vật cuối cùng tuy không tập trung vào một vật nhưng tụ tập cùng một chỗ, ngay chính tại cái điện thờ như gánh xiếc kia. – Ông già quay sang khu điện tan hoang chanh bành rồi lại ngoảnh về Tinh Ngôn Gia – Ít nhất là thằng nhãi con này tiêu tiền đúng chỗ.
Tiểu Hồ làm lơ coi như chẳng thấy vị gia chủ đang bò mọp dưới sàn nhà và nước mắt ngắn dài. Cô gái hỏi:
- Ba di vật đã đủ, vậy chúng ta làm gì tiếp, thưa ngài?
Cụ Cố Tổ gật gù đoạn lững thững bước quanh biệt thự, ngó nghiêng tìm thứ đun nấu. Khốn nỗi Tinh Ngôn Gia có đầu bếp riêng, mọi việc nấu nướng dồn xuống tầng dưới tòa tháp nên hoàn toàn không có mấy thứ nồi niêu xoong chảo. Tức mình, cụ cố lục ngăn kệ ở góc nhà rồi lễ mễ lôi ra nào vạc ngọc nào bình vàng. Cụ cố búng tay, vài ngọn lửa xanh tím nóng hừng hực xuất hiện giữa sàn. Tiếp đó những món đồ quý giá đắt đỏ lần lượt theo tay ông già lên bếp, hoặc đựng nước sôi sùng sục hoặc rang khô thảo mộc. Đợi vạc nước sôi, cụ cố thảy tất cả mớ đồ gỗ vào nồi cùng vài nắm bột kỳ lạ như người đầu bếp đang chuẩn bị món súp ngon tuyệt. Từng thứ nổi lềnh phềnh, sủi bọt sùng sục bốc lên mùi hôi gỗ nồng nặc khắp tòa biệt thự. Tiểu Hồ để ý mấy ngọn lửa tự cháy mà không cần vật dẫn, chúng cũng tự cố định một chỗ rồi tự động gia giảm nhiệt lượng. Nàng chưa thấy pháp sư hay thánh sứ nào có khả năng để ngọn lửa tự sinh tồn như thế, kể cả đại thánh sứ Tây Minh.
Một tiếng trôi đi, bằng cách thần kỳ nào đó vượt qua những kiến thức hóa học của Tiểu Hồ, đống gỗ bị đun chảy thành dung dịch sền sệt. Mùi gỗ thối um xóc óc, cô gái phải bụm miệng bịt mũi. Cũng thứ mùi kinh khủng đó nhưng ông chủ Tinh Ngôn Gia lại trắng bệch mặt mũi. Chứng kiến các bậc tổ tiên qua bao năm thờ phụng bị nấu thành món bầy nhầy, ông ta bắt đầu có biểu hiện chấn động tâm lý, hết lảm nhảm cầu nguyện lại vò đầu bứt tai. Lúc này Cụ Cố Tổ trở lại điện thờ lấy một cây ba-toong nạm khảm kim cương, Tinh Ngôn Gia hét lên:
- Xin rủ lòng thương xót! Đó là chiếc ba-toong của ông nội tôi! Đích thân hoàng đế Bắc Thần quốc tặng ông ấy!
Cụ cố nhíu mày nhìn chiếc ba-toong rồi đặt nó về chỗ cũ, sau tiếp tục vác ra một cây gậy gỗ nom rất đỗi bình thường. Vị gia chủ lại hét lên:
- Xin rủ lòng thương! Đó là vật gia bảo của dòng gia tộc Tinh Ngôn chúng tôi! Nó...
- Gia bảo cái con khỉ! – Cụ cố nổi điên – Cái này không được, cái kia không được! Ta chỉ cần thứ để ngoáy cái vạc thôi! Tự trách bản thân mày ấy, thằng nhãi! Nhà cửa gì mà không có nổi căn bếp nấu nướng? Nhà mồ à?!
Rồi ông già quẳng bảo vật truyền đời của gia tộc Tinh Ngôn vào xó, vớ lấy cây ba-toong vừa nãy làm đồ khuấy vạc. Cụ cố khuấy liên tục nửa tiếng đồng hồ, bộ mặt già móm chảy nhẫy mồ hôi. Đó là lần đầu tiên Tiểu Hồ thấy ông già nghiêm túc. Cụ cố vừa khuấy vừa lầm rầm chú ngữ, thứ dung dịch cô đặc dần loãng, mủn gỗ lắng dần xuống đáy. Cái vạc thi thoảng sủi bắn những giọt nước màu xanh ngắt, mùi hôi thối ban đầu cũng dần vơi bớt. Khuấy một lúc, cụ cố tiện tay dốc chiếc bình vàng rang thảo mộc vào vạc. Tiểu Hồ lên tiếng cho không khí đỡ tẻ nhạt:
- Ngài từng nắm vị trí nào trong Ngũ Pháp Sư?
- Gần như tất cả. – Cụ cố trả lời, tay vẫn miệt mài khuấy vạc – Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, ta đều ngồi vào các vị trí đó. Ban đầu ta nắm vị trí Mộc, con bé Lập Hoa Ngân Thôn Cơ thực chất là hậu bối của ta. Ở thời của ta, đám Ngũ Pháp Sư lười chảy thây! Bọn họ mang rượu tới, nhờ ta kiêm nhiệm vị trí một thời gian để họ đi du lịch! Đám của nợ đó! Chúng đi du lịch!
- Nhưng ngài nhận rượu, đúng không? Ngài luôn nhận quà trước khi hỏi lý do người ta tặng quà. – Tiểu Hồ cười.
Cụ Cố Tổ im bặt đoạn lườm lườm nhìn cô gái. Tiểu Hồ tiếp tục:
- Vậy còn Thổ? Ngài chưa ngồi vào đó?
- Chưa từng. – Cụ cố lắc đầu – Vị trí “Thổ” đã khuyết từ lâu lắm. Trong năm nguyên tố, Thổ là vô cùng, một đời người không thể nắm bắt hết. Vị trí Ngũ Pháp Sư cho nguyên tố đó cũng khó nhất. Ta chẳng thấy ai xứng đáng ngồi vào đó. Nghe nói ở Tuyệt Tưởng Thành có một con bé tên Tịnh Sa Hoạt Thổ là ứng cử viên nhưng vô ích thôi! Bởi vì... À, được rồi đây!
Lúc này cái vạc ngọc cháy khét, ngọn lửa xanh tím phủ lên nó một màu đen đúa. Dung dịch trong vạc loãng như nước bốc làn hơi xanh lá. Cụ cố ngoáy vạc, thảy lên một miếng gỗ màu nâu cánh gián. Tiểu Hồ bốc nó ra, nhận thấy mảnh gỗ có phần cạnh nham nhở, một mặt phẳng lì, mặt kia chạm khắc nhiều hình họa kỳ lạ. Cụ cố nói:
- Nó là một phần từ bức phù điêu khắc họa ngày thế giới Tâm Mộng sụp đổ. Thuở trước, bức phù điêu rất lớn... chắc phải bằng diện tích tòa biệt thự này. Giờ nó chỉ còn một mẩu bé tí, thảm hại như những năm tháng tàn lụi của Ngũ Pháp Sư. Nhưng không sao! Hờ hờ hờ! Chúng ta đã có đủ chìa khóa để mở cửa đền thờ. Phục chế lại di vật từ một mớ của nợ, mày thấy ta giỏi không, con nhãi?
Cụ cố ưỡn mình chờ đợi lời khen ngợi rốt rít từ Tiểu Hồ. Nhưng cô gái chưa kịp mở miệng thì một tiếng “Cách!” rõ to
vang lên. Cụ Cố Tổ sụm lưng, bộ mặt già khoắm nhăn nhúm như tấm giẻ nhàu. Tiểu Hồ hốt hoảng:
- Ngài bị sao thế? Cụ cố? Ngài ổn chứ?!
- Thôi xong ta rồi... – Cụ cố mếu máo – Trật xương rồi... cái lưng của ta... ôi trời ơi...
Vì đứng quá lâu, cái lưng của Cụ Cố Tổ không chịu nổi. Cụ cố sống thọ nhưng không có nghĩa miễn nhiễm với tất cả bệnh tật. Như bao ông già bình thường, cụ cố cũng gặp vấn đề xương khớp. Nhưng vì phép thuật phức tạp cộng thêm bệnh sĩ muốn tỏ vẻ ta đây tài giỏi, Cụ Cố Tổ khuấy vạc liên tục mà chẳng nghỉ ngơi, giờ cái lưng quay ra phản chủ.
Nhưng đó không phải vấn đề lớn nhất. Cụ cố đau lưng, phép thuật không thể duy trì, đám nhện bỏ bùa cũng không còn nghe lời ông già. Chúng buông đôi kìm khỏi cổ đám vệ sĩ rồi lổm ngổm bò đi chỗ khác. Thoát khỏi lũ nhện, Tinh Ngôn Gia cùng bọn vệ sĩ đứng dậy, ai nấy mặt mũi hung thần ác sát. Tiểu Hồ nhìn bọn họ rồi lại nhìn điện thờ tan hoang, lòng bất giác nhờ lời cảnh báo năm xưa của đại thánh sứ. Nàng nhún vai cười mếu:
- Tôi sẽ gửi hóa đơn chi trả, được không?
- Tính hóa đơn ngay tại đây. – Tinh Ngôn Gia nói, tóc tai xơ xác – Hóa đơn viết bằng máu và xương, thưa quý cô.
1 Bình luận