Thập kỷ vụt qua như cơn gió sa mạc, cuốn theo bụi cát thời gian, để rồi số phận lại se duyên những sợi chỉ hồng của đôi kỵ sĩ trong một cuộc tái ngộ.
Mối thâm thù thuở nào, đẩy họ về hai ngả đối nghịch trên phong vũ biểu còn nguyên xi như vết thương chưa kịp liền da. Khung cảnh sa mạc Libya hoang vu với những triền cát bất tận và bầu trời xanh thẳm dần phai nhòa, nhường đất cho một kho phi cơ.
Mùi dầu nhớt quyện lẫn trong không khí, bốc ra từ đoàn phi cơ vận tải xếp hàng chỉnh tề tựa đạo quân, háo hức chờ đón giờ cất cánh. Giữa không gian mênh mang ấy, con người trở nên ti tiểu, chỉ là lũ kiến loi nhoi đang bươn chải giữa những gã khổng lồ.
Và đây chính là nơi câu chuyện tiếp nối.
“Chúa ơi, anh còn nhớ như in cái lúc hai ta sát cánh bên nhau. Hẳn là một thời hoàng kim phải không nhỉ?” - Lắc đầu nguầy nguậy , giọng Percival nhuốm màu hoài niệm chua chát.
Chẳng phải vô cớ mà anh được tôn vinh là Kỵ sĩ Thiên Thủ, danh xưng gắn liền với kẻ có võ công uyên bác tuyệt luân. Giao tranh với anh có chút mà thể trạng Arthur thê thảm đến não lòng, mỗi lần hít thở đều phải vắt kiệt sinh lực từ cơ thể đã rã rời. Mặt thì bừng bừng như nung ra từ trong lò lửa, còn bộ giáp ngực kiên cường đã tan nát, chồng chéo chằng chịt vết thâm tím.
“Hừm, xem ra đệ tử cưng của anh đã trưởng thành rồi.” - Percival ngâm nga, âm điệu chan chứa sự thán phục lẫn nuối tiếc. “Nhưng em vẫn cần trau dồi hơn nữa đấy. Cuộc đời này nào chỉ phân chia trắng đen rõ ràng!?”
Nghiến chặt hàm răng, Arthur nỗ lực đứng thẳng người lần nữa. Mỗi nhúc nhích đều khiến cậu đau đớn, nhưng trong cặp đồng tử ấy vẫn rực sáng nỗi niềm không chịu khuất phục.
“Có lẽ anh nói phải.” - Cậu khàn khàn đáp trả. “Nhưng em thà chết trong sắc trắng, còn hơn phải sống trong một thế giới xám ngoét của lũ đạo đức giả hợm hĩnh!!!”
Cây baton thân thuộc lại nặng trịch như chì, cậu không còn đủ sức nắm chặt nó nữa chứ huống hồ là phản công khi Percival lao đến với chiêu chokeslam. Vươn những ngón tay như móc sắt, anh chộp lấy cổ Arthur xiết mạnh.
Chàng kỵ sĩ trẻ tuổi thấy đôi chân rời bỏ mặt đất, cơ thể bất lực lơ lửng giữa không trung, rồi bị Percival quật xuống sàn với một lực kinh hoàng. Âm va đập dội lên, nghe như bao đốt sống gãy nát thành trăm mảnh.
Chưa lấy lại hơi, cùi chỏ anh ta tựa mũi khoan gang đâm xuyên bụng cậu. Chộp lấy cổ áo dựng dậy, Percival quăng mạnh Arthur vào xó phòng. Thân hình cậu đập huỳnh huỵch vào vách rồi oằn xuống, quằn quại như thú hoang bị trúng thương.
Chỉ đành dựa lưng vào bức tường lạnh tanh, để cái bóng anh áp sát, trùm lên như muốn nuốt trọn Arthur vào bụng.
“Coi em kìa, mềm yếu làm sao. Hệ quả của việc khước từ lời rủ rê đi ngao du thiên hạ cùng anh đấy. Gần đây có tập luyện nghiêm túc không!?”
“Sau biết bao năm tháng, đây là lời chào dành cho em sao? Vâng em cũng nhớ anh khôn xiết!”
Đáp lại lời châm chọc ấy, giọng Arthur khản đặc nhưng không đánh mất vẻ dí dỏm. Môi rách toác, máu mũi chảy thành dòng, cậu vẫn như đóa hồng kiêu hãnh nở rộ giữa bãi chiến địa mà nở nụ cười.
Còn Percival tổn hao thể lực ghê gớm, cơ bắp run bần bật dưới lớp áo ướt sũng mồ hôi, đổ từ vầng trán xuống cổ ngấm đẫm áo, tựa như vừa ra khỏi phòng tắm hơi vậy.
“Em nghĩ gì vậy, hả? Đùng cái dứt áo bỏ anh đi. Phải chi năm đó em đừng khăng khăng đòi hoạt động độc lập... Percival và Lancelot, chúng ta đã có thể là cặp bài trùng tuyệt mỹ rồi!”
Thừa nhận đây là đợt hội ngộ sau ngần ấy mùa mưa nắng, cách anh ta cư xử cứ như họ là đôi tình nhân lỡ dở, chỉ tổ làm cậu thêm ngượng ngập.
Đã chủ tâm giữ khoảng cách, vậy mà Percival cứ sấn tới xóa nhòa ranh giới, gương mặt tuấn tú kề sát đến nỗi Arthur có thể đếm được từng lỗ chân lông trên mũi anh ta, cũng như hàng mi cong vút.
Vị tiền bối quả quyết quá, làm con tim cậu lạc nhịp, suýt nữa thì đã đầu hàng trước “nụ hôn cám dỗ” ấy rồi. Song, Percival chỉ khẽ khàng gỡ bỏ chiếc mũ trùm, để lộ cái mái đầu xù rối tựa ổ quạ của Arthur. Anh vuốt ve bàn tay thô ráp lên từng lọn tóc mềm mại, mang lại cảm giác xa lạ mà cũng thật quen thuộc.
“Em chẳng thay đổi chút nào…” - Percival mỉm cười, chan chứa nỗi sầu muộn khôn nguôi. “Vẫn bướng bỉnh như xưa.”
Họng cậu nghẹn đắng, tâm can rối bời, không biết phải đối đáp ra sao trước thứ “tình cảm phức tạp” này. Tóm lại là hơi thở nóng hổi của đối phương cứ phả vào mặt, thật chẳng mấy thoải mái khi cứ bị nhìn chòng chọc quài vậy, Arthur cáu bẳn.
“Điểm thứ nhất, em không ưa cái kiểu đặt tên anh lên đầu như thế. Lancelot và Percival thuận tai hơn nhiều. Và điểm thứ hai, em... ưm, em là trai thẳng đấy nhá... Cuộc đối thoại này hơi quái đản quá phải không?”
“Cái... Cái chi cơ...? Ý anh nào phải thế!”
Bèn ngây người ra đó, nhận ra sự khó xử của cả hai, anh ta xua tay tháo gỡ hiểu lầm không đáng có rồi lùi vội lại một bước, trong khi vẻ mặt vẫn cứng đờ không khác gì một khối socola vừa lấy ra từ ngăn đông. Hắng giọng mấy lượt, Percival cất lời.
“Anh chỉ muốn nói rằng chúng ta từng là cộng sự tuyệt vời. Không có ý gì khác đâu… Vả lại thôi đóng vai kẻ hèn nhát trốn sau mặt nạ đi, Lancelot!!!”
“Vậy à!?” - Cậu nhướn mày nửa tin nửa ngờ. “Có lẽ anh nên cân nhắc lại cách hình thể mình diễn đạt đấy!”
Thật là một bối cảnh đầy gay cấn làm sao, may thay Trung hiện đang bận rộn giao tranh ở một khu khác. Giả sử em ấy tình cờ bắt gặp và hiểu lầm, chắc Arthur phải giải trình đến độ sái cả quai hàm mất.
“Arthur, anh nghe nói dạo gần đây họ gọi em thế… Nguồn cội của nó là gì vậy?”
“Hứ, việc ấy nào phải thứ anh cần để tâm!”
Không kham nổi gánh nặng tinh thần, cậu ta bất giác phồng má ngoảnh mặt sang một bên, né tránh tia nhìn xoáy sâu của vị đàn anh đáng kính.
“Chỉ có bạn bè tri kỷ mới có đặc ân gọi em thế thôi...!”
“Bùi ngùi làm sao, chẳng lẽ anh không còn là tri kỷ của em nữa ư?” - Nét mặt chùng xuống, Percival hỏi. “Chuyện gì đã xảy ra giữa đôi ta vậy!?”
“Thôi đừng, anh còn tư cách gì để hỏi câu đó chứ!? Sau khi gia nhập Hội Tam Nhãn đáng ghê tởm đó...!”
“Chà, vậy là chúng ta... Đã trở nên xa lạ đến thế sao?”
Arthur bật cười cay đắng, một nụ cười chẳng hề lan tới đôi mắt sầu muộn.
“Haha, lịch sử mãi lặp lại nhỉ? Thưa tiền bối… Dẫu mốc thời gian có thay đổi, chiến tranh vẫn cứ nổ ra. Chỉ khác là, kẻ thù của hôm nay có thể trở thành bằng hữu của ngày mai, và ngược lại…”
Tham nhũng, bôi nhọ để làm suy yếu đối thủ, lạm dụng quyền lực thay đổi kết quả bầu cử, tung tin giả thao túng cộng đồng, xúi giục quan chức thúc đẩy xung đột các quốc gia, âm mưu lật đổ chính quyền, cản trở hoà bình,… Hàng triệu sinh mạng vô tội đã vùi thân trên con đường đẫm máu này.
Hội Tam Nhãn, cái tên nghe có vẻ cao sang nhưng phương thức hoạt động của chúng còn ô uế hơn cả Al Qaeda. Không, phải nói là kinh hồn bạt vía hơn trăm lần. Mãi đến khi Arthur tỉnh ngộ, tám mươi phần trăm nhân viên ở MI6, FBI đều đã trở thành đồng phạm, tay sai của chúng.
Trong số đó có cả vị đàn anh mình hằng kính phục. Đã có lúc, cậu chẳng còn biết tin vào ai, sống lay lắt bên bờ vực của sự suy sụp tinh thần. Nhưng rồi như một tia bình minh đâm thủng màn mây mù dày đặc, một thiên thần nhỏ bé với đôi cánh trắng muốt của niềm hy vọng đã nắm lấy tay, kéo Arthur thoát ra cái khỏi cái hố sâu ấy.
***
Ba năm ròng rã, Lancelot cày ải như một con trâu già dưới gót giày của các cường quốc phương Tây và Liên minh Châu Âu. Từ cát Iraq cháy rực tới đồi cỏ non xanh của Lebanon, phố phường điêu tàn ở Syria.
Nơi đâu mà kỵ sĩ bàn tròn giẫm chân đến, huyết dịch đổ thành sông, xương trắng chất cao non. Trí nhớ cậu đã phai tàn, chẳng đủ sức lực để đếm hết các quốc gia Trung Đông mà chàng đã được phái đến như một cỗ chiến xa không hồn cảm xúc. Những cuộc chiến mà cậu đã hờ hững dập tắt, hay đúng hơn là bùng thêm lửa...
Than ôi, những sinh mạng vô can mà Lancelot đã vô tình hoặc hữu ý tiếp tay phá hủy. Chúng nhiều đếm sao cho xiết, như cát bụi sa trường. Hằng đêm, trong cơn mê ngủ chập chờn, cậu vẫn nghe văng vẳng lời ai oán, những hồn ma dai dẳng không siêu thoát.
Khủng bố hay chăng, họ vẫn là những kiếp sống mang hơi thở của tạo hóa. Sống cùng một mái nhà bao năm tháng, lẽ ra Lancelot phải ngộ ra điều ấy sớm hơn. Nào phải ai cũng bạc đãi, lắm ông chú bà dì coi cậu như con cháu mà đùm bọc chứ bộ.
Giờ đây, những người xem mình như cháu con ấy, e chỉ còn là nhúm tro tàn vương vãi trong lòng bàn tay Lancelot cả rồi. Bản chất tôn quý của một kỵ sĩ giờ còn nghĩa lý chi, khi ranh giới giữa lương thiện và tà ác, giữa anh hùng và phản diện, lắm khi mỏng manh tựa sợi tơ treo.
“Dù không phải là điều ta trông mong, nhưng đó là lý do cậu đặt lá đơn từ chức này lên bàn ta?”
“Vâng, gần đây tôi chẳng còn là chính tôi nữa. Kính mong ngài thông cảm cho ạ!”
Trước cái giọng trầm ấm tựa ly whisky đượm năm tháng ấy, Lancelot đáp lời. Đứng trước John Smith, người đứng đầu Cục Điều tra Liên bang, cũng là cha nuôi của mình, cậu khom lưng sâu, trán như muốn chạm nền nhà.
Bản đơn dài ngoằng như cuốn truyện ngắn, ông có thể thấy Lancelot đã vắt óc cạn khô để soạn thảo bản tường trình. Hẳn đã mất ngủ bao đêm, uốn nắn từng câu chữ, thận trọng từng vần điệu. Thế mà lối hành văn vẫn… Nói sao ta, Câu cú dài ngoằng, ý tứ lan man, từ ngữ lặp đi lặp lại tựa tiếng vọng trong hang. Nhỡ là giáo viên dạy Quốc Ngữ, chấm điểm C- đã là nhân nhượng đáng kể, dù ông đánh giá cao tâm huyết con trai mình đổ vào tờ tường trình.
Nếu soi xé từ một góc nhìn khác, Lancelot vốn là một đặc vụ, chứ nào phải văn sỹ bút nghiên. Sự vụng về trong lối hành văn lại chứng tỏ cho ý chí rút lui và sẵn lòng gánh chịu hình phạt nếu cần thiết.
Thở hắt ra, John đượm buồn phiền nhìn Lancelot, theo kiểu của một ông bố đang đối diện với quyết định nan giải của đứa con trai yêu, cũng là của vị Cục trưởng đang đắn đo sa thải một nhân viên xuất sắc.
“Ta hiểu những gì cậu đang vật vã, nhưng đã suy nghĩ kỹ chưa?”
Lancelot ngước đầu lên, mặt đối mặt với John Smith. Giây phút chớp nhoáng ấy, cả hai đều khao khát phá vỡ khuôn khổ công việc để cha con được ôm siết lấy nhau. Thế nhưng trong thư phòng này, trong bộ vest oai vệ này, họ chỉ có thể là cấp trên và cấp dưới.
“Dạ rồi, thưa ngài! Đây là quyết định khó khăn nhất đời tôi, nhưng tôi tin là điều đúng đắn cần làm.”
Vài tuần lễ trước đã giằng xé nội tâm lắm trước khi làm phiền thân phụ thế này. Hôm nay khi vặn tay nắm inox đẩy cửa vào văn phòng, cậu lại không hề có dấu hiệu chao đảo.
Trung tâm căn phòng là bàn làm việc kiểu gỗ sồi, cách bài trí án thư được sắp đặt khá chiến lược. Máy vi tính góc phải, chồng hồ sơ “Tối Mật” bên trái, huy hiệu FBI bằng đồng ở giữa và khẩu Colt M1911 .45 ACP chỉ cần với tay là lấy được.
Bức vách sau lưng John được trang hoàng bằng đủ thứ bằng khen và chứng chỉ đóng khung trang trọng, phía bên phải là tủ hồ sơ cất giữ những tài liệu tế nhị nhất của Cục. Điểm nhấn, phải kể đến tấm bảng phân tích tội phạm thâu tóm trọn vẹn một bức tường. Chân dung nghi can được ghim lên, nối nhau bằng chỉ đỏ và dựng thành biểu đồ hoàn chỉnh.
Các mảnh giấy chi chít dữ kiện: miêu tả dấu vết đặc trưng, thủ pháp hành động, khắc giờ, địa điểm lộ diện sau cùng. Xen lẫn là các bài báo cắt ra, báo cáo nghiệm thi, bản đồ phạm vi tội phạm hoạt động,... Trên bàn con cạnh cửa là một máy pha cà phê thơm nồng, quyện lẫn với mùi giấy má đặc trưng của quyền uy và trách vụ.
Hai bên tường tựa như một tập ký sự về chuyện đời John Smith, qua những tấm ảnh gia đình sum vầy, hay kia là khoảnh khắc khó quên lúc ông tóm gọn tên đạo tặc khét tiếng. Nhưng không gì bì kịp tấm hình John bắt tay Tổng thống John F. Kennedy, được đóng khung với niềm kiêu hãnh không nguôi.
Tuy nhiên, giữa khu rừng công trạng và hồi ức, có một tấm hình rạng sáng như tinh tú Bắc Đẩu giữa trời đêm. Ảnh cưới của John và vợ đặt trong khung tranh lớn nhất, ở vị trí trân quý nhất. John phong nhã diện lễ phục đen bóng, kề cạnh là một nàng tiên trong bộ váy cưới trắng muốt, ôm bó hoa như gói gọn cả mùa xuân vào vòng tay.
Trước khi đủ sức tự chèo chống con thuyền đời, bà là ân nhân của cậu vì đã dành trọn kiếp người chăm lo những đứa bé cơ nhỡ. Từ việc tận tụy lo toan đến từng bữa cơm manh áo, cho đến nhẫn nại dạy bảo chúng đọc chữ, vợ John như người mẹ hiền từ, dịu dàng xoa dịu nỗi đau mất mát của bọn trẻ và dẫn dắt chúng bước trên nẻo đường tươi sáng phía trước.
Phải nói lúc nhỏ, Lancelot say mê những câu chuyện cổ tích bà kể về một thế giới song song. Nơi đó, những phù thủy tài ba vung đũa phép, dệt nên muôn hình vạn trạng của vũ trụ. Họ là những vị thần bảo hộ, canh giữ mọi thực tại trong đa vũ trụ mênh mông.
Có những lúc hứng chí, bà còn hóa thân thành một mụ phù thủy thực tại, tự xưng mình từng là thành viên của hội pháp sư chính hiệu. Thừa biết đấy chỉ là trò nhập vai hòng mua vui cho đám trẻ, cậu còn hăng hái xung phong làm phụ tá nữa kia.
Nhờ sự hiện diện an ủi đúng lúc mỗi khi hoạn nạn, nhờ những hồi ức hạnh phúc bà gây dựng, xóa mờ đi tổn thương cậu mang từ thuở bé thơ. Thế mà vì chút rào cản, Lancelot lại trốn chạy, quả thực chẳng còn mặt mũi nào nhìn bà nữa.
Nhận ra thằng bé đang cố tình ngoảnh mặt khỏi tấm ảnh mẹ nuôi, John Smith không khỏi thở dài não nuột, bèn nói: “Đừng tảng lờ như vậy chứ, Huệ nhớ cậu xiết bao đấy Lancelot. Lúc nào rảnh rang, cậu nên tranh thủ tới bệnh viện thăm bà ấy đi. Cơ hội không còn bao nhiêu đâu, trời Phật ạ... Ta lo rằng, trí nhớ bà xã đã bắt đầu lu mờ vì căn bệnh Alzheimer quái ác rồi. Lũ trẻ các cậu là niềm hãnh diện sau cuối bà ta còn lưu giữ đó. Nếu cậu thực sự kính trọng bà ấy, thì buông bỏ không phải là quyết định thông minh đâu!”
“Con xin lỗi… Chân thành xin lỗi! Nhưng con thật sự không chịu nổi nữa rồi!”
Cha mẹ trông chờ gì, ở cái thằng kỵ sĩ đã đánh rơi nhuệ khí chứ? Nhiệt tâm thủa ban sơ tắt ngúm, nhường chỗ cho sự uể oải, một biểu hiện nguy hiểm với binh lính trên chiến trường. Rút lui lúc này không phải là hèn mạt, mà là lựa chọn sáng suốt nhất.
Cậu đã có chuẩn bị về mặt tinh thần trước việc hạ cấp, dẫn tới sự giảm sút về thu nhập. Nhưng điều đó có đáng kể gì, khi đem so với cơ hội được ở cạnh người mẹ nuôi đang thoi thóp trên giường bệnh? Lancelot sẽ trở về, sẽ là người con trai mà mẹ vẫn luôn tự hào.
Dù không còn là kỵ sĩ lóng lánh, cậu vẫn sẽ là anh hùng của mẹ, kề cận và chăm nom bà, bù đắp cho bao tháng ngày xa cách.
“Ha ha, cậu bảo mình chẳng lo sợ thất nghiệp ư?”
John phá lên cười.
“Nuôi nấng từ thuở bé xíu, làm sao ta không nhận ra những ý tưởng cách mạng đang quẩn quanh trong đầu cậu chứ? Không hẳn là tuổi dậy thì, ta thừa hiểu... Dù ta không hoàn toàn đồng điệu với lối tư duy đó!”
Ở độ tuổi thằng bé, John cũng từng mơ mộng về một thế giới đại đồng, nơi mọi người đối xử với nhau bình đẳng như anh em một nhà. Nhưng thực tế phũ phàng hơn nhiều, xã hội nào có vận hành theo cơ chế hoàn hảo đến vậy. Dù luật pháp có được thắt chặt đến đâu, kẻ mạnh vẫn luôn tìm cách lách qua kẽ hở để bóc lột, chèn ép những kẻ yếu thế.
“Và chúng ta, lũ tự nhận là người bảo vệ công lý, lại bất lực trước thực tế phũ phàng đó. Cậu có hiểu cảm giác đó không hả Lancelot? Cảm giác muốn thay đổi thế giới nhưng lại không thể làm gì hơn ngoài việc đứng nhìn nó sụp đổ từng ngày?”
Đấy là lý do vì sao theo ông, thế gian thực sự khát khao một anh hùng dám đứng lên thay mặt cho những ai bị áp bức, một khối óc hiên ngang dám nghĩ dám làm, dám đương đầu với bất công đang tràn lan khắp cõi nhân sinh.
Chương trình Kỵ sĩ Bàn Tròn được John thai nghén từ hoài bão thánh thiện ấy. Nhưng theo thời gian, nó đã biến chất, trở nên lạ lẫm với tâm nguyên sơ ông gửi gắm vào khi mới chớm. Liệu còn ai nhớ về lý tưởng thuở đầu của Bàn Tròn là gì không?
Hay tất cả chỉ còn là một trò hề, một vở tuồng đạo đức giả? Bóp nghẹt sư hăng say của lớp hiệp sĩ trẻ bởi những nhiệm vụ mờ ám bị ép phải tuân thủ.
“Lancelot à, ta biết cậu đã trăn trở kỹ lưỡng, cũng đã linh cảm được ngày này rồi cũng sẽ ập tới. Nhưng…” - John đứng phắt dậy, xác quyết. “Ta không thể chấp thuận! Các kỵ sĩ là báu vật của đất nước. Bằng tài năng xuất chúng, cậu đã tự tay giành lấy danh xưng tôn quý. Và ta có linh tính rằng cậu vẫn chưa sẵn lòng buông xuôi đâu.”
Chịu dứt áo ra đi, hẳn thằng bé đã bịn rịn cuốn gói không một lời từ giã, chứ nào còn tâm trạng đâu mà ghé qua chào hỏi. Thế nhưng, John vẫn muốn níu giữ đứa con trai mình lại, bởi đấng nam nhi đích thực là kẻ biết đứng lên ngay tại chỗ vấp ngã, không khuỵu gối trước bất công. Chỉ là Lancelot đang dang cánh tay khẩn cầu trợ lực, từ người mình trót gửi gắm niềm tin nhất thôi.
“Vậy... chúng ta phải làm gì đây ạ?” - Thất vọng hỏi, giọng cậu hơi run run. “Nếu ngay cả cha cũng không thể thay đổi được thế giới này, vậy con... con còn có thể làm được gì?”
“Hãy ghi tạc điều này, một khi bà Elizabeth đệ II đã đặt bảo kiếm lên vai phong tước, cậu sẽ mãi mãi là một Kỵ sĩ danh giá… Biểu lộ chút tôn kính với Nữ hoàng Anh đi chứ! Giờ thì, thu xếp hành trang để chuyển giao sang bộ phận mới thôi.”
“Rõ, thưa Cục trưởng!”
Dứt lời, Lancelot bật người đứng thẳng tắp như một cây thước kẻ. Tay trái áp sát vào đùi, cậu đặt cánh tay phải ngang trán, đầu ngón tay chạm vào “vành mũ”.
Ngắm nhìn dáng chào chuẩn mực, John hông khỏi gật đầu tán thưởng. Ông tiến lại gần, trao cho con trai một xấp tài liệu được xếp gọn gàng trong một bìa hồ sơ màu xanh navy, trên có dập nổi huy hiệu FBI.
“Đừng sa sút phòng bị nhé, ta nhắc trước đấy, nhiệm vụ này không ngon ăn như mấy dòng chữ khô khan trên bảng mô tả công việc đâu. Này, cậu đã từng mơ ước về việc trở thành vệ sĩ cho ai đó bao giờ chưa?”
Mờ mịt như một chú mèo con đang cố giải mã ngôn ngữ loài người, Lancelot nghiêng đầu cố thử lý giải hàm ý đằng sau câu hỏi của John. Chợt, vị Cục trưởng quay mình, lịch thiệp mở cửa như một quý ông thời Victoria ra hiệu mời cậu ta rời khỏi phòng làm việc.
Giật nảy mình, Lancelot nuốt nước bọt ực một cái, thanh âm lớn đến mức tưởng như cả tòa nhà có thể nghe thấu. Không dám suy diễn nhiều, cậu lẽo đẽo theo John, tựa một chú vịt con bám đuôi mẹ.
“Ừm... Không dám tọc mạch gì quá đáng đâu, chỉ là... Tôi có nên đặt taxi nếu chúng ta định đi xa ở đâu không...?”
Câu hỏi rơi vào hư không, bị nuốt chửng bởi không gian tĩnh mịch đến nghẹt thở bao trùm hành lang. John Smith vẫn cứ thẳng tắp sải bước dặt dìu không một lời hồi đáp, phong thái ấy như một lời nhắn nhủ: “Im lặng theo sau ta.”
Tranh thủ chút yên ả hiếm hoi, cậu đăm chiêu phóng tầm qua tấm kính chắn gió trong veo. Washington D.C, đặc khu liên bang quan trọng nhất nước trải dài như một tấm thảm khổng lồ dệt nên từ lịch sử đan xen hiện đại.
Mảng xanh bạt ngàn của công viên và những đại lộ rợp bóng cây chen chúc giữa các kiến trúc trang nghiêm, như thể mỗi viên gạch đều chất chứa sự uy nghi. Dòng xe cộ trôi lướt tấp nập như một vũ khúc sặc sỡ, len lỏi qua những nẻo đường rộng lớn, thổi hồn vào nhịp sống hối hả. Dòng Potomac lượn lờ uốn khúc tựa dải lụa, vỗ về thành phố trong vòng tay mát dịu.
Ven bờ sông, rừng cây sum sê tạo nên hành lang sinh thái hùng vĩ, một dải xanh bất tận vắt ngang qua chốn phồn hoa. Lancelot có thể nhìn thấy Nhà tưởng niệm Lincoln sừng sững bên bờ sông, tựa tòa bạch ngọc rạng ngời soi bóng xuống dòng nước.
Đảo Columbia trồi lên như một như một ốc đảo thanh bình, là nơi cư ngụ của bao sinh linh cây cỏ, muôn loài động thực vật. Chạm khắc hài hòa giữa rừng bê tông cốt thép kia là bầy chim hoang dã tự do bay lượn, cánh vẫy giữa nền trời trong vắt. Hơn thế nữa, Tượng đài Washington, Nhà Trắng, Điện Capitol Hoa Kỳ, Tòa Thượng Viện,...
Ngoài ra cũng là nơi các quyết sách quan trọng được đưa ra, biểu tượng cho tầm ảnh hưởng của thủ đô Hoa Kỳ. Giữa địa thế then chốt ấy, trụ sở chính J. Edgar Hoover của Cục Điều tra Liên Bang tọa lạc tựa một thành lũy mang phong cách kiến trúc thô mộc, với lớp vỏ bê tông cứng cáp bao bọc toàn bộ kết cấu.
Mọi lối ra vào đều lắp cửa kính chống đạn và vật liệu chống cháy nổ tân tiến, camera hiện diện ở mọi góc, hệ thống kiểm soát sinh trắc học luôn cảnh giác trước bất kỳ kẻ ngoại nhập nào, khiến người ta cảm thấy như đang bị hàng vạn ánh mắt giám sát từng bước chân…
Một cảm giác an toàn tuyệt đối, nhưng cũng không kém phần kính sợ. Phòng làm việc được bài trí theo mô hình tổ ong, tối ưu hóa không gian và thúc đẩy năng suất. Từng đường nét, góc cạnh của tòa nhà đều được kiến thiết để hướng đến việc bảo vệ an ninh tổ quốc.
Thang máy nằm ở cuối sảnh, Lancelot lẹ làng bước vào trước còn lẹ tay bấm hộ ông nút G điều hướng xuống tầng trệt. Ngỡ rằng mình đã đoán đúng ý muốn của John, nào hay ông vung mạnh cái bốp khiến chàng kỵ sĩ giật mình, rụt tay về như vừa chạm phải bếp lò đang đỏ rực. “Ui da!” - Cảm giác như vừa bị ong bắp cày chích ấy, cậu the thé.
Trái ngược với vẻ hấp tấp thường nhật, John khoanh tay trước ngực đứng trơ ra ngóng trông điều gì đó. Lancelot lén nhìn ông, rồi lại liếc bảng điều khiển, rồi lại ngó John.
Bức bối và sốt ruột quá đi, không gian chật hẹp của thang máy như đang siết chặt lấy Lancelot. Liệu đây có phải là một thử thách nữa mà John đang dành cho mình?
“Có chuyện gì thế, ngài định hóa chúng ta thành xác ướp trong cỗ quan tài thép này ạ?!”
“Xin chào Sentinel, nàng có ở đó không?” - John Smith bỗng lên tiếng.
“Chào mừng, Alexander J. Anderson Smith. Hôm nay của ngài suôn sẻ chứ?”
“Hừm, một nhân viên vừa đệ đơn từ chức lên bàn ta... Cô thử đoán xem tâm trạng ta thế nào?”
Liếc xéo cậu, John hừ mũi chua chát như vừa nếm phải quả chanh xanh. Đáp lại khẩu lệnh, một giọng nữ ngân nga từ cặp loa phát thanh, vi diệu đến độ Lancelot không tài nào thấy được bằng mắt thường, chẳng khác gì mấy cô trợ lý ảo Siri, Cortana trên điện thoại cả.
Tên là Sentinel ư? Cô nàng trí tuệ nhân tạo hình như chỉ cần một nhịp thở cũng nhận diện ra âm sắc của John, hay các lãnh đạo khác thông qua dạng cảm biến nào đó.
Kiểu thầy bói mô tả một con voi, Lancelot chỉ nhặt nhạnh được vài mẩu thông tin rời rạc về nàng AI, một hệ thống quản lý toàn diện được lập trình bởi Kỵ sĩ Merlin, nhằm xử lý hàng petabyte dữ liệu mỗi giây, nâng tầm khả năng thu thập thông tin (data mining) của FBI lên đẳng cấp mới.
Thông thường, một hệ thống phức tạp như Sentinel sẽ được host trên các server farm khổng lồ, tương tác thông qua các API phức tạp và được mã hóa bởi hàng loạt firewall do đội ngũ cybersecurity kiểm soát. Nhưng ở đây, bằng một phép màu công nghệ nào đó, “linh hồn” của Sentinel đã được upload vào chính cấu trúc tòa nhà J. Edgar Hoover này.
Vậy nên không còn là virtual entity, cô đã trở thành một hệ thống IoT (Internet of Things) với các sensor và actuator được tích hợp vào mỗi bức tường, mỗi cánh cửa, thậm chí cả HVAC (Máy điều hòa) đều trở thành một phần của “cơ thể” Sentinel.
Đôi khi, Lancelot không khỏi tự vấn, liệu mình có đang đứng trong một tòa kiến trúc, hay đang ở trong dạ dày nàng ta nữa.
“Sentinel, phiền cô đưa chúng tôi xuống hầm B7, dự án Excalibur. Mật khẩu: 0902234.”
“090... Có phải đó là ngày sinh của…”
Cậu lắc đầu, vẫn chưa hết choáng váng khi bảng điều khiển thang máy chỉ hiển thị B1 và B2, hai tầng hầm để xe quen thuộc là cùng. Đằng này, họ đang lao xuống tầng bảy, một địa bàn cực mật không hề lộ diện trên sơ đồ chính thức nào.
Thấy Lancelot hiếu kỳ quá, John Smith cũng mỉm cười đồng cảm theo.
“Đừng quá bận tâm về chuỗi số đó, chỉ là một dãy ngẫu nhiên thôi.” - Cục trưởng tạm ngưng như để tăng thêm hiệu ứng kịch tính rồi tiếp lời: “Cậu có biết không, trong suốt Chiến tranh Lạnh, mã kích hoạt tên lửa hạt nhân của Mỹ chỉ là chuỗi số 00000000. Điều này được gọi là Permissive Action Link hay PAL. Nghe giống giỡn, nhưng là thật.”
Lý do là để đảm bảo rằng trong tình huống khẩn cấp, các sĩ quan có thể tức tốc kích hoạt vũ khí mà không trì hoãn bởi việc ghi nhớ dòng mã hóc búa. Tất nhiên, điều này cũng tạo ra mối nguy đáng kể. Ngày nay, chúng ta ứng dụng các hệ thống xác thực đa yếu tố phức tạp hơn gấp bội, nhưng bài học vẫn còn đó.
Trong an ninh mạng, đôi khi sự đơn giản có thể là then chốt, miễn nó được phối hợp với nhiều lớp bảo mật khác nhau. Thang máy tiếp tục rơi tự do như đang đắm chìm vào lòng địa cầu, chả những về mặt hữu hình mà còn đào sâu vào những cơ mật quốc gia.
Còn bao nhiêu điều thần bí nữa đang chờ đón Lancelot phía trước? Biết là cậu sẽ sớm có câu trả lời, điều đó không ngăn được trí tưởng tượng bay xa hơn.
Chui ra khỏi giếng thang cái là cẩn mật đảo mắt quanh quẩn, vẻ kinh ngạc hiện rõ trên nét mặt Lancelot. Thế ra ngay dưới bước chân của một Kỵ sĩ lẫy lừng như cậu, vẫn tồn tại một “thế giới” chưa từng hay biết ư?
Theo lời John Smith hé lộ, đây là nơi cơ quan chính phủ tiến hành vô số cuộc thí nghiệm mật. Từ việc phát triển những vũ khí huỷ diệt có thể xóa sổ cả một lục địa, cho đến tìm tòi các chất kịch độc có năng lực biến đổi gen người. Lancelot nuốt khan, bộ mình vừa lọt vào một cuốn phim khoa học giả tưởng hay gì?
Cậu rướn sát John, còn che miệng thì thào với cha nhìn ngố đến khó tả: “Thưa ngài, phải chăng... phải chăng đây là nơi nuôi nấng sinh vật ngoài trái đất không ạ?”
“Ồ, cậu đã nghe những lời đồn đại ấy sao? Không chỉ sinh vật ngoài địa cầu đâu, còn có cả những nạn nhân bị quỷ dữ chiếm hữu thân xác kìa. Họ bảo rằng những thực thể này sở hữu năng lực ngoại cảm, có thể đọc vị suy nghĩ của kẻ khác cơ.”
Tự dưng có luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng, Lancelot chẳng biết ông ta đang giỡn hay thật nữa.
“Khà khà, ta giỡn thôi. Đừng bận tâm...“ - Bèn vỗ vai Lancelot, John trấn an. “Chúng ta nào phải đến đây để diện kiến sinh vật ngoài trái đất. Hôm nay, tôi sẽ cho cậu chiêm ngưỡng một thứ còn đáng rùng mình hơn thế gấp bội kìa.”
Cậu nuốt khan lần nữa, tự vấn liệu thứ gì còn đáng hãi hùng hơn cả sinh vật ngoài thiên hà và ma quỷ nữa chớ?
Vả lại Lancelot khá chắc nịch đấy chỉ là tin vịt, thuyết âm mưu của mấy kẻ rảnh rỗi sinh nông nổi. Tin tưởng rằng chỉ có thể khẳng định sự thật khi tận mắt mục sở thị, lấy như lúc cậu được John dẫn ngang qua một phòng nghiên cứu, dù không khỏi trầm trồ trước dàn máy móc hùng hậu.
Máy quét DNA tối tân, máy phân tích quang phổ vi sóng, máy chụp cắt lớp tia X... Điều kỳ dị là sự biến mất hoàn toàn của con người. Không một bóng hồng tiến sĩ hay chuyên viên pháp y nào đang miệt mài nghiên cứu hay thu thập mẫu vật. Tất cả đều vận hành tự động, như thể được điều khiển bởi một thế lực vô hình. Sự tịch mịch tuyệt đối này, có phải là do họ đang giỡn mặt với những điều vượt quá tầm hiểu biết của con người?
Nhìn thấu ra sự hoài nghi ấy, John cất lời: “Đừng vội phán xét qua vẻ bên ngoài, tầng hầm này vừa được cải tạo từ kho tàng trữ tư liệu tối mật tuốt tận thời Thế Chiến II đấy.”
Chính tại đây, các hồ sơ liên quan về Dự án Manhattan chế tạo bom nguyên tử từng được cất giữ. Những bí ẩn có thể làm đảo lộn cả địa cầu đã nằm yên lặng dưới lòng đất này suốt bao thập niên.
“Chúng ta đang biến nơi này thành cái nôi cho một đề án mới có thể sẽ định hình lại số phận của loài người lần nữa. Cậu và ta, Lancelot ạ, sẽ là hai trong số những viên gạch nền tiên phong cho nó!!!”
Giọng điệu John cớ sao lại trịnh trọng thế? Cậu cứ bất an trước những lời này sao sao đó.
Trơ trọi quá, liệu Lancelot có nên tự hào khi được John tín nhiệm giao phó? Chắc là không rồi. Ngay cả FBI cũng giấu nhẹm bộ mặt đen tối, có khi hơn cả Al-Qaeda.
Nhỡ đâu cậu vô tình phanh phui cái sự nhơ nhuốc này, liệu niềm tin tuyệt đối vào cơ quan mình đã thề trung thành còn có thể vững bền? Họ đến trước một gian phòng kín như bưng, bao quanh các bức tường dày sộp.
Lúc bước qua cửa được gia cố thép không gỉ nặng nề và loạt ổ khóa điện tử, đập ngay vào mắt cậu là tấm gương soi một chiều chiếm gần hết bức vách y hệt phòng thẩm vấn tội phạm vậy.
“Xin giới thiệu… Excalibur. Đối tượng ghi nhận cấy ghép hạt gia tốc thành công thứ hai trên thế giới. Từ giờ, con bé sẽ là mối phiền hà mới của cậu!”
“John à, sao ngài…” - Máu trong huyết quản đông cứng cả lại, cậu bưng miệng không tin nổi vào cặp mắt. Quay sang nhìn John, chàng kỵ sĩ thử tìm kiếm một chút dấu vết của lương tâm giày vò từ cáu người cha nuôi của bao trẻ thơ côi cút.
Tất cả những gì Lancelot thấy là một bộ mặt vô cảm, lạnh tanh như chính bức tường thép vây quanh họ. Từ phía bên kia tấm gương, một thiếu nữ yếu ớt hiện ra, bị nhốt trong căn phòng chật chội. Đôi mắt cô bé long lanh lệ, tràn ngập lẻ loi.
“Ha ha, biết tổng lắm kiểu gì cậu cũng trưng ra cái bản mặt này mà!” - John khoái chí cười vang, âm ba dội khắp phòng. “Nhưng đừng để vẻ ngoài ngây thơ đánh lừa. Ý tôi là, cô ấy đâu phải người bình thường, hai mươi ba năm xuân rồi chứ ít ỏi chi!”
Lật giở qua mấy trang tài liệu phát trước đó, cậu xác nhận ít nhất phụ vương không lừa phỉnh.
Hạt gia tốc quả thật có khả năng ức chế senescence của tế bào, can thiệp sâu vào quá trình phát triển sinh lý, một bước nhảy vọt trong lĩnh vực y sinh học chống lão hóa.
“Sinh năm 1985... Vậy là chị lớn tuổi hơn mình rồi!”
Lancelot thầm nghĩ, nhận thức cần phải thay đổi cách xưng hô thôi nhỉ. Dẫu khác biệt tới sáu cái xuân xanh, Lancelot vẫn không thể ngăn mình thương cảm trước cô gái đang chúi mũi vào quyển sách trên chiếc ghế quay. Ngoại mạo nàng chỉ như một đứa bé tiểu học với tầm vóc chưa quá một mét (hơn ba feet một ít), sao mà xót xa quá.
“À dạ, thưa ngài…” - Cậu ngập ngừng nghi hoặc. “Liệu can dự vào quá trình rút ngắn telomere có gây ra di chứng phụ nào không ạ!?”
“Ai mà hay, đó là điều chúng ta đang truy cầu lời đáp đây!”
Trời ạ, đây có phải là bước tiến vĩ đại của nhân loại, hay chỉ là một canh bạc nguy hiểm với chính bản chất con người. Đổi lại, dung nhan Excalibur lại quyến rũ và độc đáo tới nghẹt thở.
Làn da chị trắng ngần, đôi mắt mơ màng khép hờ dưới hàng mi lông vũ tựa bông tuyết. Chiếc váy xòe rộng được may từ lớp vải ren đen, hoạ tiết chằng chịt như mạng nhện ngân. Các phụ kiện trang sức từ vòng cổ choker điểm xuyết vài viên đá thẫm, vòng tay và băng đô ren.
Phong cách thời trang gothic u ám bao phủ lấy chị ta, càng làm nổi bật mái tóc ngà ngọc như được se từ những sợi tơ lụa quý giá, dạt dào như thác nước đóng băng giữa một khu rừng tối tăm của câu chuyện cổ tích, tạo nên một vầng hào quang kỳ ảo quanh gương mặt có hai gò má tròn trịa, căng mọng như quả đào chín mùa.
“Ôi Chúa ơi…” - Lancelot thì thào. “Cô ấy... cô ấy quá đỗi hoàn mỹ.”
Chẳng màng đó có phải là gu thẩm mỹ của mình hay không, Lancelot chỉ hay là bất giác… Cậu đã áp sát mặt vào cái kiếng như thể muốn hôn lấy nó vậy. Trước khi chợt nhận ra cử chỉ quái gở ấy và lùi lại, lắc đầu. Kiểu gì cũng sai trái trên mọi khía cạnh.
Thân là đặc vụ FBI chính cống, làm sao lại có thể có cái sở thích ấu trĩ trước một tiểu thư ngực mông phẳng lì thế kia chứ? Tuy chàng kỵ sĩ khó chối bỏ rằng ngay từ cái nhìn đầu tiên, có một ma lực vô hình, lôi kéo mình lại gần hơn với chị, bất chấp lý trí gào thét phản kháng… Có điều gì đó ở Excalibur khơi gợi tính hiếu kỳ trong Lancelot.
“Ê, nhìn cái gì mà chằm chằm? Muốn mù mắt à? Tôi thấy rõ mồn một cái bản mặt ngớ ngẩn của cậu bên này đấy!”
“Hả? À ừm…” - Ngượng ngùng, tay chân cậu múa may quay cuồng. “Xin lỗi, tôi không có ý đồ gì xấu xa đâu!”
Đột nhiên chị ta lại liếc xéo, buộc cậu phải cúi gằm mặt tạ lỗi như một chú cún con bị quở trách. Vậy tấm kính cường lực không phải loại soi một chiều ư, hay đúng loại đó nhưng Excalibur cố ý trêu chọc mình?
Quyết tâm kiểm chứng, Lancelot quay sang John: “Dạ thưa, phiền ngài hé cái cửa này ra nhé?”
Hơi nhướng mày, nhưng vị Cục trưởng vẫn ưng thuận. Cánh cửa thép nặng trịch từ từ hé mở với một tiếng rít chói tai. Hít một hơi sâu, cậu bước vào rồi đối diện với sự trống vắng ở nơi họ nhốt chị. Tủ sách không là tủ sách… Chẳng lẽ chị ta định nhai nuốt mấy trang giấy để cầm hơi?
Ngoài tủ sách ra thì “cái hộp bít bùng” cách ly với thế giới bên ngoài này trống huơ trống hoác. Mọi thứ đều mang màu trắng tinh khôi, từ tường đến sàn nhà và trần cao vời vợi, không một kẽ hở hay khung cửa nào luân chuyển không khí.
Chỉ trơ trụi chiếc giường sắt, nếu có thể gọi cái bệ cứng đó là giường... Không có lấy một chiếc gối hay tấm chăn để xoa dịu sự khắc nghiệt của nó. Máy điều hoà thì vẫn vo vo đều đều, đây là cách FBI đối đãi với thí nghiệm của họ sao? Điều cần làm liền, sau khi tiếp quản trách nhiệm là phải cải thiện điều kiện sinh hoạt cho Excalibur.
Nhưng trước hết, Lancelot tiến sát tấm gương, tay sờ soạng, mắt đăm đăm vào mặt phẳng trong suốt. Không thấy tăm hơi John đâu, quả nhiên đây là kính một chiều thật.
“Ê nè…” - Cậu quay lại bật thốt, gân xanh nổi rõ trên vầng trán. “Chị cố ý dụ dỗ em vào đây gây hấn phải không!?”
“Ai bảo cậu xộc vào chứ? Tự nhiên trách tôi! Nói cho mà hay, thần kinh người gia tốc có hệ cảm quan nhạy bén lắm! Vả lại, tôi tưởng FBI đã dạy cậu cách gõ cửa trước khi xông vào phòng người khác chứ…”
“Em... em xin lỗi. Em không có ý xâm phạm không gian riêng tư của chị ạ.”
Đóng gập cuốn sách lại, vẻ mặt Excalibur vẫn lãnh đạm không thay đổi khi nói: “Ồ, đừng lo. Tôi đã quen với việc bị xem như một con vật trong sở thú rồi. Ở trong này mãi chán ngấy. Cậu sẽ là người chăm nom tôi sau này, đúng chứ? Lại đây, mau bày trò gì đó chơi cùng tôi nào.”
Trên đôi môi chị thoảng qua nụ cười trêu ghẹo, nửa như muốn khiêu khích. Từ cự ly gần đến nỗi có thể đếm từng sợi lông mi, trái tim cậu đập loạn nhịp như bị ếm bùa trước đôi đồng tử tím thẫm ấy.
Đó là màu mắt của tinh vân xa xăm, mỗi lần dập dìu hàng mi như cánh bướm đều tạo ra hàng triệu ngôi sao mới, chứa đựng cả thiên hà với hành tinh chưa được khám phá trong đó.
4 Bình luận