Huyền Thoại Cổ Ngọc
Đại Dương Đại Dương
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Quyển 1: Diemond và Sự trả thù của Máu

Chương 001 - Hy Sinh / Orvar Icenstaff

20 Bình luận - Độ dài: 5,383 từ - Cập nhật:

ORVAR ICENSTAFF

Ngày 20 cung Nhân Mã năm thứ 8, kỷ Hoà Bình, 

90 ngày trước Xuân phân,

Cửa căn nhà gỗ be bé nằm dưới một ngọn đồi con vừa khép lại sau lưng thì khung cảnh hối hả trước thềm trọng lễ liền hiện ra trước mắt Orvar. Trong ánh đuốc màu xanh biển lập loè rải khắp đảo quốc Froustmoust, muôn dân đang tấp nập ngược xuôi để chuẩn bị cho buổi tưởng niệm tối nay. Cậu pháp sư tập sự nén tiếng thở dài rồi thận trọng lỉnh vào góc khuất, cố gắng không chạm mặt ai trong thời điểm nhạy cảm như thế này.

Nhưng con đường lên đỉnh đồi Wytehed chỉ có một. Orvar cùng lắm chỉ trốn tránh được một đoạn ngắn nơi khu nhà cậu nhưng không sớm thì muộn, cậu bắt buộc phải đi qua phố Hanwerk — nơi bình thường đã vô cùng đông đúc mà nay lại còn tiếp đón thêm những pháp sư và phủ thuỷ từ các phái tộc lân cận đến dự hội. Nhìn hàng trăm người đang vui ca nhảy múa phía xa xa, Orvar chợt khựng lại nơi đầu con hẻm nhỏ. Suy tính thiệt hơn mất một lúc, rốt cuộc cậu vẫn bấm bụng xông vào đám đông, hoà vào dòng người, hy vọng sẽ không ai chú ý đến một pháp sư cao nhòng, mảnh khảnh, với mái tóc đen dài nổi bật trên tấm áo chùng trắng tinh và làm tôn lên đôi mắt xanh thẳm như biển cả đặc trưng của gia tộc Icenstaff. Quả nhiên, khi Orvar xuất hiện, mọi người xung quanh đều cất lời bàn tán. Mặc cho cậu rảo bước thật nhanh, những ánh nhìn hiếu kỳ đều đổ dồn về cậu.

“Đấy, con trai của vị anh hùng Sigurd…”

“Là hậu duệ nhà Icenstaff đây sao? Lần đầu tiên tôi thấy mặt…”

“Sống khép kín lắm. Tội nghiệp. Người cha thì vinh hiển nhưng người mẹ thì lại…”

“Chẳng biết sau này sẽ nối nghiệp ai? Năm sau cậu ta nhập phái đúng không?”

“Suỵt, nói nhỏ thôi! Nếu trở thành pháp quân, Froustmoust sẽ do cậu ấy bảo vệ đó.”

“Thiên Thần Cha Cả ơi, cứ làm như pháp quân của cả cái đảo này chỉ còn mỗi thằng nhóc đó không bằng! Tôi nói nha. Với cái phong thái này, dám là nối nghiệp bà mẹ lắm đấy. Đến lúc đó thì tránh còn không kịp…”

Orvar bỏ ngoài tai tất thảy. Cậu vùn vụt bước qua những dược sỹ đang cắm hoa, những tư tế đang nghiền hương liệu, những thầy bùa đang dệt áo choàng từ băng tuyết, và cả những pháp sư tập sự đang luyện tập kỹ năng đối kháng. Nào là những dòng nước uốn lượn trên không trung, nào là những hoả cầu hừng hực phóng vun vút trong bãi tập bắn, còn có cả những pha cận chiến bằng quyền trượng không hề thua kém các hiệp sỹ ở phương nam. Mình đã chịu đựng bao năm rồi. Chỉ cần ráng chịu thêm mấy tháng nữa thôi là được tự do. Orvar cố tảng lờ tất cả mà để bỏ con phố lại sau lưng.

Trước mặt cậu lúc này là ngọn đồi Wytehed hùng vĩ, thấp thoáng bóng toà tháp Đại hội đồng — cơ quan quyền lực tối cao của các phù thuỷ và pháp sư Froustmoust. Vẫn chưa đến giờ làm lễ nên quảng trường trên đỉnh đồi có lẽ là nơi yên tĩnh duy nhất dành cho Orvar. Dù gì thì một lát nữa cũng phải vác mặt lên đó thôi… Nếu đây không phải là buổi lễ bắt buộc thì ở nhà quách cho xong… Orvar vừa rủa thầm vừa lê chân lên đồi. Khác với mọi bữa, hôm nay, hai bên dốc đồi thoai thoải đặt đầy những chậu hoa bạch đầu ông màu tím rung rinh trong gió. Cậu chầm chậm bước, chú mục vào ngọn tháp uy nghi đang dần lộ diện, đầu ngón tay vô thức lướt qua những cánh hoa mềm mại.

Chào đón cậu là những hàng tượng băng của các tổng pháp quân đã hy sinh xếp thành hình vòng cung bao quanh một nửa quảng trường Kressent. Dưới chân các vị anh hùng ấy là một bàn thờ nhỏ với hoa trắng và nến lấp lánh ánh lửa xanh. Trong số những bức tượng được tạc với đủ tư thế uy nghi hùng dũng ấy, có một người là Sigurd Icenstaff — cũng chính là cha của Orvar. Ngày này tám năm trước, ông đã hy sinh trong trận chiến chống quân xâm lược từ Đế Quốc Dymend. Orvar Icenstaff mất đi người cha khi cậu vừa mười sáu tuổi. Ngày hai mươi cung Nhân Mã hàng năm, những ngọn nến lại được thắp sáng lung linh dưới chân các bức tượng tổng pháp quân để tưởng nhớ những vị anh hùng đã ngã xuống vì đảo quốc.

Orvar lách mình tìm đến bức tượng của Sigurd. Nơi nơi tràn ngập ánh lửa xanh lạnh lẽo, phản chiếu những nhân chứng của chặng đường gươm đao gian truân mà Froustmoust phải đi qua. Họ đã kiên cường đánh đổi biết bao máu và nước mắt cho những tháng ngày bình yên như hôm nay.

Cậu pháp sư trẻ đứng trước bức tượng cha mình. Ngọn nến xanh lập loè bao phủ lấy gương mặt làm đôi tròng mắt xanh biếc dường như tan đi đâu mất. Mái tóc đen dài buồn bã khẽ lay động trong cơn gió bắc lạnh lẽo. Chưa bao giờ cậu yêu thích thứ lửa lạnh lùng này. Orvar luôn ôm trong mình khao khát rời khỏi nơi đây. Cậu muốn được khám phá thế giới, được cái nóng cháy bỏng ở Thần Hoả Quốc miết qua da, được đắm chìm vào những tàn cây cổ thụ ở Rừng Folaedelus, muốn đến nhìn tận mắt đất nước phồn vinh của bọn Đế Quốc Dymend. Orvar muốn quên đi những đau buồn để được sống thật tự do, thoát khỏi những tranh đấu thương tâm vô nghĩa.

“Cha có biết trong sách họ thường nói gì về đảo quốc Froustmoust chúng ta không?” Orvar trầm ngâm hỏi bức tượng bất động. Đôi mắt cậu hấp háy phản chiếu ánh sao trên trời.

“Đấy là một nơi thật đẹp nhưng lại rất bi thương…” Cậu pháp sư tập sự phóng tầm mắt từ trên đỉnh đồi cả Wytehed ra xa, ôm lấy toàn cảnh vịnh Isewale vừa mờ vừa tỏ trong ánh đuốc xanh.

Orvar ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm lấp lánh những đốm sáng li ti, miệng lẩm nhẩm tính số ngày còn lại của sáu tháng Trường dạ đang chầm chậm qua đi ở nơi nằm xa tít tận cực bắc Hetra này. Thời tiết đang ấm dần lên. Lớp băng bên ngoài cũng đang tan bớt đi rất nhanh. Chỉ mấy tháng sau là ánh mặt trời sẽ lại về với Froustmoust rồi, nhưng có lẽ lúc đó, mình chẳng còn ở đây để tận hưởng nửa năm ấm áp ấy nữa.

“Tại sao lại bi thương?” Một giọng nói thân quen nhưng chứa đầy ưu tư bỗng cất lên, cắt đứt dòng suy nghĩ của cậu.

Không cần quay người lại, Orvar vẫn biết đó là ai. Cậu ngán ngẩm trả lời. “Ông ngoại à, ông đã hỏi cháu câu này gần như mỗi ngày trong suốt tám năm qua rồi đấy.” Orvar không kiêng dè nói tiếp. “Cho dù ông có khuyên bao nhiêu lần đi nữa thì cháu cũng không thay đổi quyết định của mình đâu!”

“Cháu thật sự muốn bỏ mặc tất cả lại sao?” Alvis gầm gừ, giọng ông trầm và rắn rỏi giống như cơn gió bắc thổi qua những tán thông hùng vĩ, đủ mạnh để làm những cành cây cổ thụ rung lên. Thế nhưng, vẫn không đủ để làm lung lay quyết tâm của cậu pháp sư tập sự.

“Cháu sẽ sớm đi khỏi nơi này. Cháu sẽ không đời nào giẫm lên vết xe đổ của cha mẹ cháu đâu.” Orvar ngước đôi mắt ráo hoảnh nhìn ngắm người đàn ông trước mặt, cố lần ra những đường nét mình thừa hưởng từ Sigurd. Từ trước đến giờ, cậu vẫn chưa lần nào nhìn thẳng vào gương mặt người cha mà cậu không có cơ hội gặp. Orvar căm ghét bức tượng này. Nó cứ đứng trơ trơ ở đó như một lời nhắc nhở rằng “cha mày chết rồi!” Cậu bất giác mím chặt đôi môi mỏng, trong lòng dâng lên một chút đắng cay phẫn nộ. Gió lạnh vẫn điềm nhiên thổi, đùa giỡn với những ngọn lửa xanh.

“Nhìn thế nào vẫn thấy phần mắt không giống nhỉ?” Đại pháp sư Alvis Heidrun chợt đổi chủ đề. Giọng ông cũng nhẹ hẳn đi như bông đùa. Ông híp híp mắt như đang cố gắng tìm ra khiếm khuyết trên bức tượng. Tà áo chùng trắng toát lướt đến bên cạnh Orvar.

“Cháu không rõ.” Orvar đáp nhẹ hẫng, cố che giấu những cảm xúc chớm dâng lên trong lòng. “Cháu đã bao giờ tận mắt nhìn thấy cha bằng xương bằng thịt đâu.” Cậu chớp chớp mắt rồi nhìn quanh quất, vờ như không quan tâm nhưng vẫn len lén xem xét gương mặt Sigurd. Kỹ thuật điêu khắc của nghệ nhân Froustmoust nổi tiếng khắp cõi Hetra. Những pho tượng họ tạc ra đều trông sống động giống hệt người thật. Orvar từ đó đến giờ vẫn luôn say mê những bức tượng Hải Thần trong Đại sảnh tháp Đại hội đồng nhưng riêng bức tượng của cha thì cậu chưa bao giờ dám nhìn kỹ.

“Đây nhé. Thật ra, mắt phải của Sigurd to hơn mắt trái một chút. Bọn pháp quân dưới trướng luôn cảm thấy Sigurd rất đáng sợ khi bị nó trừng mắt nhưng ông thì chỉ thấy buồn cười.” Đại pháp sư vừa nói xong liền phát ra những tiếng khùng khục làm bộ râu bạc trắng khổng lồ dài đến ngang bụng cũng rung rinh theo. Âm thanh kỳ quái của ông làm tảng băng trong lòng cậu như dần tan ra và khoé miệng Orvar bất giác khẽ cong lên.

Alvis vẫn luôn biết cách khiến cậu mở lòng. Ông đã chăm sóc cho cậu từ nhỏ. Nhờ có ông mà những ngày tháng vắng cha mới trở nên nhẹ nhàng hơn. Trong Alvis giống như có hai con người tồn tại song song. Một hài hước, kỳ kỳ quái quái mỗi khi ở bên cậu. Một nghiêm khắc, quyết đoán khi ông ngự trên ngai băng nhìn xuống toàn bộ đảo quốc.

“Năm nay cháu có dự nghi lễ không?” Đại pháp sư bỗng hỏi sau một lúc im lặng.

“Ông biết cháu không thích tập tục ấy mà… Tàn bạo và dã man, hệt như chính cuộc chiến ấy vậy…” Cậu bỏ lửng câu trả lời vì tiếng nấc bất chợt. “Có đáng không hả ông? Hy sinh nhiều như thế vì chiến trận...”

Một cơn gió lạnh chợt cuốn qua khiến rừng thông hai bên đồi reo rì rào khắp không trung. Alvis thở dài, ngước nhìn những bóng cây rậm rạp đen sì đang đều đặn đung đưa. “Mạng người và tài nguyên… Chẳng có cuộc chiến tranh nào là đáng cả. Nhưng đây là lãnh thổ của chúng ta, là ân huệ của Hải Thần Okeania ban cho Pháp tộc, và cũng là thứ mà cha con đã chết để bảo vệ.”

Là ân huệ hay là một lời nguyền? Orvar nhếch mép tự hỏi. Cùng một câu chuyện nhưng truyền thuyết ở mỗi vùng lại có những cách kể khác nhau. Người Froustmoust thì tin rằng ngày đó Hải Thần đã xin được từ Thổ Mẫu Thần một mảnh đất trù phú ở phương nam và cuốn nó đến đây, rồi ban phép để trong lòng đất luôn chảy một mạch nước ấm áp, khiến cây cối có thể sinh sôi nảy nở; còn bọn Đế Quốc Dymend lại luôn miệng khẳng định hòn đảo này là do Hải Thần ăn cắp mà có. Và chính truyền thuyết mơ hồ đó đã dẫn đến những cuộc chiến tranh triền miên giữa Pháp tộc và Nhân tộc ở trời nam xa xôi.

“Ông kể lại cho cháu nghe lần nữa đi. Cha đã hy sinh như thế nào vậy?” Mặc dù đã biết nhưng Orvar vẫn muốn hỏi vì mỗi lần được nghe kể câu chuyện nực cười ấy, khát khao rời khỏi nơi chết tiệt này lại càng cháy bỏng hơn trong cậu. Sigurd chết như thế nào chẳng lẽ người làm con như cậu lại không rõ sao. Câu chuyện này dù cậu không muốn nghe thì cũng bị hàng trăm cái miệng ngoài kia xoáy vào lỗ tai.

Chiều ngày 20 cung Nhân Mã năm 4000, hiệp sỹ Henry Surge bên phe Đế Quốc Dymend đã không ngại huỷ hoại danh dự của chính hắn mà mượn đến mưu hèn kế bẩn, ném một nắm cát che mờ hai mắt cha cậu. Hắn muốn trả thù Sigurd vì trước đây từng bị ông chém mù mắt trái. Henry vung lưỡi gươm xé gió lao tới, xuyên thủng quả tim Tổng pháp quân Icenstaff và cướp đi sinh mạng vị anh hùng.

“Bị phản bội…” Ông Alvis khẽ thì thầm, nhỏ đến nỗi Orvar không dám tin vào tai mình, nhưng những từ đó đủ trọng lượng để đập tan những suy nghĩ lơ đễnh trong đầu cậu. Mình có nghe lầm không? Cha chết do bị phản bội sao? Orvar sững sờ. Nhưng khi cậu quay phắt về phía Alvis thì Đại pháp sư đã không còn đứng ở đấy nữa.

Tiếng tù và văng vẳng trong không trung như hối thúc khiến ruột gan Orvar nhộn nhạo hết cả lên. Cậu phóng tầm mắt băng qua quảng trường Kressent rộng mênh mông, đến nơi phát ra âm thanh trầm đục ấy. Toà tháp Đại hội đồng lừng lững hiện ra trước mặt, đối diện với hàng tượng băng của những người đã ngã xuống mà bảo vệ nó. Công trình cao vút này được chính tay Lôi Thần đẽo gọt từ một cây cổ thụ khổng lồ. Nó vươn tít tắp chọc thẳng đến bầu trời với những tán lá phủ rộng như muốn bao phủ cả đại phái tộc Njotormoust bên dưới. Ngước mắt nhìn lên chỉ thấy lá cây cuộn với mây trời, tạo thành tầng tầng lớp lớp những khối dày đặc vần vũ quanh năm suốt tháng trông cực kỳ bí hiểm. Lốm đốm trên thân cây vĩ đại là những ô cửa sổ thắp đuốc sáng li ti, mỏng manh hệt như tình cảm của cậu đối với vùng đất này.

Lại một hồi tù và nữa vang lên. Orvar tự trấn tĩnh chính mình. Chắc là mình chỉ nghe nhầm thôi... Câu chuyện về cái chết anh dũng của cha cậu được chính ông Alvis kể lại cho toàn dân trên đảo. Lúc đó cậu cũng có mặt ở quảng trường và nghe không sót một chữ nào. Đến mấy năm sau vẫn còn có người bàn tán về chuyện này. Orvar nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần thêm mắm dặm muối của người dân, nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ thấy ai nhắc đến chi tiết phản bội cả. Bình tĩnh lại nào, Orvar. Đừng băn khoăn những chuyện vô ích nữa. Sáu tháng Trường Dạ sắp qua rồi. Mặt trời sẽ lại đến, và mình sẽ rời khỏi đây. Không cần phải nhập phái gì cả. Mình sẽ bỏ lại tất cả mà đi. Đây sẽ là buổi lễ tưởng niệm cuối cùng mình phải tham dự… 

Hồi tù và cuối cùng gầm gừ vang lên. Tiếng người ồn ào từ phía xa vọng lại kéo cậu ra khỏi dòng suy nghĩ. Orvar trải tầm mắt xuống triền đồi Wytehed. Những người dân đảo khắp chốn từ ông bà già cho đến trẻ nhỏ đều vội vã bỏ lại những công việc dở dang để đến hành lễ. Tất cả đều mặc áo chùng tím và đem theo lễ vật. Trên tay họ là những bó hoa bạch đầu ông màu tím nhạt thường được dùng trong nghi thức mai táng hoặc lễ tưởng niệm. Không chờ họ đến gần, Orvar đã vội vã lách vào một góc khuất. Mái tóc dài lẫn vào những gốc thông cao vút đen sì. Cậu không muốn bị soi mói bởi những ánh mắt thương hại đó.

Đi đầu đoàn người, không ai khác hơn chính là Olivette Heidrun — mẹ của cậu. Trên tay bà là một khay hương liệu, hoa bạch đầu ông, và một vò rượu tuyết. Olivette tuy đã có tuổi nhưng vẫn rất yêu kiều. Bước chân bà nhanh nhẹn, tuy có phần gấp gáp nhưng vẫn làm nổi lên dáng người dong dỏng cao cùng mái tóc đen mượt trông đến huyền bí. Những người dân đảo đi phía sau đều cố ý giữ một khoảng cách nhất định. Không phải vì họ kính trọng người thân của vị anh hùng, mà vì họ kinh sợ và căm ghét bà Olivette.

Mẹ của cậu là một tiên tri. Và tiên tri, cho dù là ai đi chăng nữa, thì vẫn luôn bị xa lánh, bởi lẽ họ chỉ có thể nhìn thấy được những tai ương sắp đến. Người ta cho rằng chạm mặt tiên tri là xúi quẩy, nghe tiên tri nói là sắp rước họa vào thân. Trước đây, họ kiêng dè Olivette do bà là vợ của Sigurd — một tổng pháp quân danh tiếng lẫy lừng. Từ ngày tổng pháp quân mất đi, mẹ cậu càng bị người dân né tránh, lạnh nhạt. Một số người còn độc miệng bảo rằng sở dĩ cha cậu tử trận là vì lấy phải một người đàn bà hắc ám. Xưa nay, vị tiên tri nào cũng sống một cuộc đời cô quạnh và bị người xung quanh xa lánh đến khi chết. Nơi duy nhất cho họ chỗ đứng chính là bên trong tháp Đại hội đồng, nơi họ lặng thầm dùng tài năng thiên bẩm của mình để bảo vệ đảo quốc.

Vốn dĩ mẹ cậu cũng sẽ chịu chung số phận với những người tiền nhiệm, nhưng bất ngờ thay, bà lại trở thành vợ của một tổng pháp quân. Những tưởng chuyện này sẽ dần thay đổi cách nhìn của mọi người về tiên tri, rằng họ cũng đáng nhận được sự tôn trọng. Nhưng ai ngờ chính cuộc hôn nhân đó lại quay lại cắn mẹ con cậu ngay sau khi Sigurd qua đời. Những khinh bỉ bị dồn nén do nể uy danh của cha cậu cuối cùng cũng có cơ hội thoát ra và trút xối xả lên người mẹ con cậu.

Đều là một lũ vong ơn bội nghĩa! Orvar nghiến chặt răng khi thấy điệu bộ rụt rè của những người dân đảo ngay sau lưng bà Olivette. Đấy lại là thêm một lý do nữa để Orvar muốn biến mất khỏi hòn đảo này và không bao giờ quay trở lại.

Ông Alvis luôn bảo hai mẹ con cậu không giống nhau. Bà Olivette là một phù thuỷ mạnh mẽ và ngoan cường, biết cách ngẩng cao đầu mà sống bất chấp những lời quàng xiên. Đôi mắt sáng ngời của một nhà tiên tri luôn biết tảng lờ những kẻ ác mồm ác miệng, bởi lẽ cho dù người xung quanh đối xử với bà ra sao, phép tiên tri vẫn là vận mệnh không thể chối bỏ. Olivette vẫn phải đưa ra lời cảnh báo mỗi khi tai hoạ sắp ập đến cho dù điều đó có khiến bà trở thành con quạ đen xấu xí trong mắt ai đi chăng nữa.

Ta vẫn là tấm khiên che chắn cho cả đảo quốc. Mẹ cậu vẫn thường hay nói như thế.

Orvar thì lại không được vị tha và rộng lượng như vậy. Trong lòng cậu luôn giữ một mối thù sâu đậm đối với những kẻ bạc bẽo ở đây. Ẩn mình trong hàng cây, cậu quắc mắt nhìn đoàn người ngay hàng thẳng lối lầm lũi tiến lên đồi Wytehed rồi tập trung tại quảng trường Kressent trước cổng chính tháp Đại hội đồng.

Gió bắc nhè nhẹ thổi khiến những tà áo chùng tang lễ trông như những đám mây màu tím dập dềnh trong ánh lửa xanh, bầu không khí tràn ngập vẻ ma mị của những bí tích cổ xưa. Người Froustmoust tin rằng sau khi chết, linh hồn sẽ rời khỏi thân xác dưới dạng một cơn gió và quay về với Thiên Phụ Thần — người Cha Cả của vạn vật. Lửa có thể tàn, sông có thể cạn, cây cối có thể mục nát đi, nhưng những cơn gió thì luôn trường tồn vĩnh viễn. Đó chính là cuộc sống đời sau mà Cha Cả dành riêng cho người Froustmoust.

Bà Olivette tiến đến bàn thờ đặt dưới bóng cây sồi tuyết sum suê loà xòa những cành lá trắng phau gần cổng tháp. Olivette trông có vẻ hốc hác tiều tuỵ. Năm nào cũng vậy, cứ đến khoảng thời gian này là bà lại mất ngủ vì bị ám ảnh bởi cơn ác mộng ngày đó. Bà khuỵ gối bày lễ vật lên bàn thờ, suối tóc đen dài rũ xuống trên nền tuyết trắng. Bạch đàn hương được đốt lên toả một mùi thơm ấm áp thoang thoảng trong không gian.

Đây có lẽ là thứ duy nhất mang hơi ấm ở Froustmoust. Mùi bạch đàn luôn luôn khiến Orvar nhớ đến những bài hát ru của mẹ. Cậu lớn lên trong thời chiến nên chưa bao giờ có cha bên cạnh. Sigurd bị cuốn vào những buổi tập huấn khắc nghiệt và những trận giao tranh không hồi kết với Đế Quốc Dymend, bỏ lại hai mẹ con cậu bơ vơ ngày đêm lo lắng.

Ngắm nhìn làn khói xám mang theo mùi hương ấm áp uyển chuyển hoà quyện trong không khí, Olivette bất chợt đảo mắt quanh quất như đang tìm kiếm ai đó. Trong một khoảnh khắc, Orvar chạm ánh mắt mẹ. Cậu vội rụt vào nấp sau những cây thông to bè xung quanh quảng trường, lòng thầm mong mẹ chưa phát hiện ra mình.

Trong góc khuất, Orvar thấy Olivette giả vờ nhìn quanh quẩn vài vòng nữa rồi mỉm cười nhẹ nhàng tiếp tục chuẩn bị bàn lễ. Nhìn nụ cười đó, Orvar tin chắc rằng bà đã biết rõ cậu đang ở gần đây. Đó là quyền năng thấu thị của một nhà tiên tri. Bà có thể linh cảm được sự hiện diện của một người hay vật nào đó nên cho dù Orvar trốn ở đâu, Olivette vẫn luôn tìm ra cậu.

Lúc Olivette gần sắp xếp xong bàn thờ thì một luồng khói trắng chợt bốc lên ngay kế bên bà. Từ cuộn khói đó, đại pháp sư chậm rãi bước ra. Ông đã thay tang phục màu tím và cầm theo cây quyền trượng làm từ khối băng vĩnh viễn không tan trong đền thờ Hải Thần.

Đại pháp sư khẽ gật đầu với con gái mình, ánh mắt đong đầy sự quan tâm. Bà Olivette mỉm cười nhẹ nhàng rồi lùi về phía đám đông. Họ cũng lùi lại một bước, cố ý đứng cách xa bà một chút. Olivette không thèm để ý đến bọn họ, đôi mắt đượm buồn đang mải nhìn chăm chăm vào bức tượng Sigurd. Orvar trộm nghĩ không biết mẹ đang nhớ lại những kỷ niệm gì với vị tổng pháp quân quá cố ấy.

Bỗng, giọng nói ồm ồm của Alvis cất lên như cắt ngang dòng suy nghĩ của bà. Orvar thấy Olivette thoáng giật mình, rồi hướng sự tập trung về phía Đại pháp sư. Với cây quyền trượng giơ cao, ông bắt đầu cất tiếng vang vọng khắp quảng trường. Alvis vui tính đã biến mất, thay vào đó là một Đại pháp sư quắc thước, nghiêm nghị.

Bình thường, các nghi lễ trên đảo đều do Đại tư tế Magni cử hành. Tuy nhiên, Tổng pháp quân Sigurd Icenstaff lại là con rể, cũng tính là người nhà với Alvis nên Đại pháp sư phải đứng ra chủ trì nghi thức này.

Alvis hắng giọng rồi bắt đầu đọc bài kinh Tiễn Đưa. Phía dưới, Olivette và cư dân Froustmoust cũng lầm rầm đọc theo. Họ cúi đầu thành kính, chống quyền trượng xuống đất ngay phía trước ngực. Orvar dõi mắt nhìn nghi lễ, trong lòng dâng lên một cảm giác rất khó tả. Cậu buồn rầu nhưng cũng oán giận, thương xót nhưng lại rất phẫn nộ.

“Cha Cả ban cho tôi sự sống và đón chờ tôi trở về. Dù ra đi vì thời gian tôi đã tận hay vì bị cướp mất sinh mạng này; dù để lại cha, mẹ, vợ, chồng, hay con cháu, tôi cũng ngoan ngoãn vâng lời mà quay về với vòng tay Cha rộng mở. Đời tôi cống hiến cho dân tôi, cho đảo tôi. Nay nhiệm vụ đã hết. Tôi quay về dù trong vinh quang hay tội lỗi. Mạng sống này cúi xin Cha Cả đón nhận trong công bình, trong yêu thương, và trong khoan thứ. Xin hãy để tôi hoá thành ngọn gió và bay về bên Cha.”

Không gian vang lời kinh thành kính hoà vào tiếng tù và ngân vang từ mấy tầng tháp cao vọng xuống. Trên trời, từng đàn ngư điểu lượn mấy vòng quanh quảng trường mà quang quác những tiếng thê lương. Ngọn gió bắc nhói buốt vi vu thổi qua những đốm lửa xanh lạnh lẽo. Một thứ lửa giả tạo. Orvar run rẩy nhìn những người dân mà cha cậu đã bỏ cả gia đình, bỏ cả mạng sống bảo vệ, chỉ để cho họ không ngần ngại chà đạp, khinh bỉ, xa lánh mẹ con cậu. Orvar uất ức đến ứa nước mắt. Bao nhiêu năm trời, cậu vẫn giằng xé giữa sự kính phục và cơn giận đối với Sigurd. Cậu bấu chặt lấy thân một cây thông, cố gắng dồn nén những cảm xúc phức tạp trong lòng.

Đại pháp sư lại giơ cao trượng phép. “Vì sự hy sinh cao cả cho những người con của đảo. Vì sự kế thừa di sản của Bắc Thần. Chúng ta cảm ơn và an ủi ngọn gió Sigurd Icenstaff. Sov up kut.” Đám đông đồng loạt quỳ xuống, cúi đầu, tựa trán vào quyền trượng đặt trước mặt.

Ngay lúc đó, có bốn pháp sư khệ nệ gánh từ cảng Mystie đến một chiếc túi khổng lồ lúc nhúc những con cá tươi rói rồi đặt ở trước bàn thờ. Đây là một trong những nghi thức không thể thiếu được của người Froustmoust mỗi khi cúng tế những người đã khuất.

Chiếc túi vừa mở ra thì ngay lập tức đàn ngư điểu từ trên trời lao xuống thi nhau xâu xé những con cá đang giãy đành đạch cố gắng chạy trốn. Chúng vẫy đôi cánh đại bàng khổng lồ trắng toát khiến gió nổi lên phần phật, rồi lại quẫy chiếc đuôi cá dài gấp đôi cơ thể, lấy đà phóng xuống chụp lấy con mồi. Nhờ khả năng di chuyển linh hoạt trên trời lẫn dưới biển, cùng với sức mạnh và tốc độ đáng nể nên ngư điểu được xem là linh vật của Froustmoust và chúng cũng tượng trưng cho những chiến binh đã khuất. Chính vì lẽ đó mà trong những buổi tưởng niệm, không bao giờ thiếu nghi thức K’rouos dâng lễ vật cho ngư điểu nhằm thể hiện sự kính trọng đối với linh hồn các pháp quân đã hy sinh.

Ánh lửa xanh loang loáng rọi vào lớp vảy cá bàng bạc nhuốm máu đỏ tươi trông như những con mắt hận thù liên tục nhắm mở. Mùi hôi tanh sực nức trong không khí, lan đến tận những tán thông nơi Orvar đang nấp. Cậu đưa tay lên che mũi, hàng mày chau lại vì ghê tởm, cổ họng thì siết chặt lại để ngăn một cơn buồn nôn đang lăm le dâng lên từ dạ dày. Đây không phải là lần đầu tiên cậu chứng kiến cảnh tượng này, nhưng cứ thấy bãi máu đen thẫm đọng lại trên nền tuyết trắng và ngửi cái mùi tanh tưởi đến lợm giọng đó thì Orvar lại càng thêm chán ghét cái xứ sở này. Cứ nghĩ rằng nghi thức đó đã đủ phần man rợ nhưng những gì xảy ra tiếp theo mới là thứ khiến Orvar thực sự kinh hãi.

Ngay khi bầy ngư điểu vừa bay đi, toàn bộ dân chúng liền chen chúc tranh nhau bôi trát máu cá lên mặt. Họ cho rằng máu của những con cá vừa dâng hiến cho ngư điểu là thứ có thể đem đến may mắn và bảo hộ họ khỏi những biến cố trong cuộc sống. Trước mắt Orvar là một bầy người ngụp lặn trong mớ xương thịt bầy nhầy hôi tanh. Cậu quay mặt đi chỗ khác, không còn đủ can đảm để nhìn tiếp.

Trong lúc đó, Olivette chậm rãi tiến lại bàn thờ, thắp lên ba cây nến tượng trưng cho Tam Thần Phương Bắc và đặt chúng lên khay. Bước chân bà có phần rụt rè. Tám năm trôi qua rồi nhưng Orvar biết mẹ mình vẫn chưa bao giờ quen với sự ra đi vĩnh viễn của người chồng yêu dấu. Có những đêm chợt thức giấc, cậu thấy mẹ đứng trước cửa nhà và dõi mắt về phía biển cả mênh mông, hệt như những ngày mà Sigurd vẫn còn rong ruổi chinh chiến ngoài khơi xa.

Bà Olivette vừa định mang nến đến gần bức tượng, nhưng từ đâu có một luồng gió rít gào bất ngờ thổi tới, hung hăng hất tung ba ngọn nến, đẩy bà ngã ngửa vào vũng máu cá. Đám đông nhất loạt dạt ra xung quanh. Bộ áo chùng tím và mái tóc đen dài ngập trong thứ máu sền sệt hôi hám. Bất thình lình, sấm sét chói loà đánh thẳng xuống bức tượng Sigurd. Ánh sáng loá mắt bao trùm cả quảng trường kèm theo tiếng rền vang đinh tai nhức óc.

Đôi mắt Olivette bỗng long lên chỉ còn thấy tròng trắng, miệng bà há hốc kêu gào những âm thanh quái dị, toàn thân run rẩy và co giật, mái tóc vốn đen dài nay hoá trắng xoá và bết bát máu me từng mảng đỏ thẫm. Ba ngọn nến điên cuồng bay vòng quanh trên người Olivette, bùng cháy dữ dội. Ánh sáng xanh ngắt của chúng toả rợp một góc quảng trường.

Bà đang nhìn thấy một viễn cảnh. Orvar đã từng trông thấy mẹ cậu có viễn cảnh rất nhiều lần, nhưng chưa bao giờ gặp hiện tượng kỳ quái và đáng sợ như thế này. Tâm can cậu nhộn nhạo. Chuyện gì đây?

Đám đông lúc này đang co cụm vào với nhau mà sợ hãi chỉ trỏ. Orvar chạy vụt đến chỗ mẹ, định lay bà tỉnh lại, nhưng ông Alvis giơ trượng phép chặn ngang ngực cậu. Orvar cố gắng vùng ra nhưng cậu không thể kháng cự lại sức mạnh của Đại pháp sư. Cậu giận dữ quay sang định năn nỉ ông cứu lấy mẹ thì đột nhiên, Olivette thét lên một tiếng kinh hoàng rồi bất tỉnh ngay tại chỗ.

Ba cây nến cháy rụi thành một bãi sáp đông cứng trên tuyết. Tim nến tan thành những đốm tro màu xanh trắng lác đác bay trong không khí như bụi thuỷ tinh. Gió lặng. Ánh mắt mọi người đổ dồn vào bà Olivette rồi lại lấm lét nhìn qua đại pháp sư chờ đợi. Cả quảng trường phủ kín một sự im lặng chết chóc.

Bình luận (20)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

20 Bình luận

Chà truyện đọc cuốn phết
Xem thêm
Bình luận đã bị xóa bởi Rap-hael
cho em hỏi những tên địa danh và tên người trong đây liệu có ý nghĩa gì không ạ
Xem thêm
CHỦ THỚT
AUTHOR
Các nhân vật không mấy quan trọng thì cái tên chỉ cần chọn để phản ánh và đồng nhất văn hoá khu vực thôi ạ. Còn những nhân vật lớn thì sẽ được lựa chọn cẩn thận hơn (cũng tuỳ vào cốt truyện có cài cắm chi tiết gì thông qua tên nhân vật không nữa).
Xem thêm
@oceannguyen: cảm ơn bác về tên nhân vật, còn lại em xin hỏi về ý nghĩa địa danh ạ
Xem thêm
Xem thêm 1 trả lời
Froustmoust rồi còn ngai băng nữa :)))
Xem thêm
Cái đầu cần bao nhiêu tế bào để làm ra đc cái thế giới quan này? Quá hay
Xem thêm
Bình luận đã bị xóa bởi An Nhiên Hạ Huyệt
CHỦ THỚT
AUTHOR
Chỗ này dấu phẩy vẫn được á em, nhưng trong tương lai anh định sẽ ê đít lại thành dạng câu hết luôn cho đồng nhất~ ;)
Xem thêm
:v Tại sao đến giờ em mới để ý cái phần cmt dưới nhỉ. Vì một lý do nào đó, em đã nhầm lẫn về phần mở đầu và nhớ lệch một chút thành xuân phân gần đến. Và khi em thấy 90 ngày mới đến xuân phân thì em kiểu, dafug hay là 90 ngày trước cũng tính chăng. 21.gif Hóa ra em đọc ko kỹ, chương 1 là trước.
Tiện đây thì cho em hỏi vài chỗ hơi ngớ ngẩn chút :v
Khúc "Thứ mà cha đã chết để bảo vệ ư? Thật oai phong quá!" Là một đoạn hồi tưởng anh dùng để tương phản với thái độ của nhân vật hiện tại, hay là nhân vật chính đang tự mỉa mai, em hơi bối rối 04.gif
Cái đoạn: " Nói thật ra, Orvar cũng chẳng biết mình nên đi đâu vì chỗ có người bị xua đuổi" ở đây là typo phải không nhỉ 39.gif
Phần đốt bạch đàn trong lễ gợi em nhớ đến một chương trình em từng xem nói việc người ta hạn chế đốt bạch đàn vì nó tạo ra bầu không khí ảm đạm, hmm :v
Xem thêm
CHỦ THỚT
AUTHOR
Lollll, chương mở là tease trước cái cao trào. Chương 1 quay về trước rồi dẫn dần dần đến cao trào ở chương 40.
Đoạn em hỏi là nhân vật chính đang tự giễu nhé. Cha Orvar bán mạng cho một thứ không rõ ràng để rồi chết queo.
Và cảm ơn em đã giúp anh nhặt lỗi typo nhé! *bắt cóc làm ê đít to*
Xem thêm
AUTHOR
TRANS
Một vài thắc mắc,
+ "Tàng cây" hay "tàn cây", "tán cây" nhỉ? Theo diễn biến, em đoán là "tàng cây" chuẩn hơn. Kiểu ngang tàng tự do hùng vĩ phù hợp với mong ước của Orvar...Cái này ngoài lề chút thôi :)
+ "Áo chùng", "áo choàng"? Tự nhiên nghĩ hai danh từ ấy thấy thế cho nhau được không? Chẳng là đoạn ông Alvis gặp Orvar đang nhìn bức tượng cha mình, anh dùng "áo chùng trắng toát", rồi khi ông ấy đi thì lại dùng "áo choàng trắng". Đoạn sau, mọi người đều mặc "áo chùng". Nên em tự hỏi có phải là thiếu sự đồng bộ ở đây không?
+ "Nhưng ai ngờ chính cuộc hôn nhân đó lại quay lại cắn mẹ con bà ngay sau khi Sigurd qua đời." Thấy đoạn "cắn" diễn tả hơi thô...Em đang hoà theo không khí trầm trầm của chương :v.
+ Cuối cùng là thắc mắc về hoàn cảnh của Orvar, theo chương thì cậu mất cha khi 16 tuổi nhỉ? Thế mà đoạn này viết:
"Từ trước đến giờ, cậu vẫn chưa lần nào nhìn thẳng vào gương mặt người cha mà cậu chưa từng có cơ hội gặp."
Đọc cứ như cậu mất cha từ lúc sinh ra ấy. Có lẽ tác giả có dụng ý khi viết vậy, có thể ngài Sigurd ở ngoài bảo vệ vương quốc suốt nên Orvar không gặp chăng?
Tóm lại vẫn muốn sự xác nhận của anh một chút :)).
Em xin hỏi luôn là Orvar 24 tuổi ạ? Đoạn này là trước hay sau phần mở? - "Trước" :v
Xem thêm
CHỦ THỚT
AUTHOR
Hello em, again. ^^

+ Đáp án chính xác là "tàn cây" và "tán lá" nhé. Nếu em có thấy anh ghi chỗ nào là "tàng cây" thì đó là sai chính tả đó.

+ Áo chùng là loại áo phù thuỷ hay mặc mà mình thường thấy trên phim. Nó gồm có cái mũ trùm đầu và phần phủ phía trước. Áo choàng là phụ kiện kèm theo thường được cài cố định ngay cổ áo và để tà áo rũ xuống sau lưng. Trang phục của Frostmost gồm cả hai thứ này và cả hai đều cùng màu.

+ Đoạn "cắn" thì anh hiện tại anh muốn viết như vậy. Đủ để em giật mình thoát khỏi trạng thái trầm trầm buồn ngủ phải không? :D Nói chứ, nếu tương lai đọc lại mà nghĩ ra cách diễn đạt hay hơn thì anh sẽ đổi. Cảm ơn em đã góp ý.

+ Sigurd ra trận trước khi Orvar ra đời. Hai bố con chưa bao giờ gặp mặt nhau. Đến trận chiến cuối cùng với Illuminus, những tưởng có thể gặp lại nhưng ai ngờ đâu Sigurd lại hy sinh. Vậy nên tất cả những gì Orvar có thể mường tượng về cha chỉ có bức tượng đó thôi. Fun fact: Frostmost chỉ là một đảo quốc dạng bộ lạc, không phải vương quốc. Ở đây người đứng đầu không xưng vương và không có chư hầu.

+ Orvar bối cảnh chương 1 là 24 tuổi. Nếu em đọc kỹ chút xíu nữa em sẽ thấy rằng chương Mở nói rằng ngày Xuân Phân tới rồi, còn đầu chương 1 có ghi "90 ngày trước Xuân phân." Đọc kỹ để xem ngữ pháp và từ vựng quá phần nội dung bị lỡ mất thông tin rồi. ^^ Chương 1 đến chương 38 sẽ là những sự kiện trước Xuân phân. Và chương 39 sẽ cùng bối cảnh với chương Mở rồi đi tiếp nhé.
Xem thêm
AUTHOR
TRANS
@oceannguyen: Ok ạ, em vẫn chú ý nội dung lắm chứ :3. Câu trên em cũng tự trả lời luôn mà, tại đang phấn khích với mấy truyện kiểu mở đầu hơi tương lai rồi flashback lại quá.
Chiến tranh đúng là đau khổ mà, con không thấy mặt cha, vợ như hòn vọng phu chờ chồng ????...
Vậy đoạn này bị sai chính tả ạ:
"Cậu muốn được khám phá thế giới, được cái nóng cháy bỏng ở Thần Hoả Quốc miết qua da, được đắm chìm vào những tàng cây cổ thụ ở Rừng Folidarc,"
Lúc em nghiên cứu lại thì thấy một số báo dùng "Tàng cây" nên thắc mắc...
Xem thêm
Xem thêm 1 trả lời
“Cha Cả ban cho tôi sự sống và đón chờ tôi trở về. Dù ra đi vì thời gian tôi đã tận hay vì bị cướp mất mạng này; dù để lại cha, mẹ, vợ, chồng, hay con cái, tôi cũng ngoan ngoãn vâng lời mà quay về với vòng tay Cha rộng mở. Đời tôi cống hiến cho dân tôi, cho đảo tôi. Nay nhiệm vụ đã hết. Tôi quay về dù trong vinh quang hay tội lỗi. Mạng sống này cúi xin Cha Cả đón nhận trong công bình, trong yêu thương, và trong khoan thứ. Hãy để tôi hoá thành ngọn gió và bay về bên Cha.”
đọc lại lần 2 vẫn cảm thấy rợn người .... Do ko bt dùng từ gì diễn đạt...
Nói chung thì cảm giác khi đọc nó trong đầu thì có một luồng điện đâu đó chạy khắp cơ thể và da gà nổi lên nhẹ 1 phát. Đầu hơi rân rân(ko phải lân lân kiểu tê như nhức đầu í. Kinh phật và cả tiếng chuông chùa e đều bị cái này.)
Xem thêm
Văn rất cuốn nhưng mình có ý kiến thế này

Lời thoại của nhân vật chính quá ít. Có lẽ tôi đang áp đặt phong cách light novel của Nhật Bản, nhưng chỉ là ý kiến riêng thôi. Mình nghĩ tác giả nên thêm những lời thoại vào thay vì quá tập chung vào câu văn miêu tả. Light Novel thường dẫn dắt mạch truyện bằng lời thoại. Tuy vậy cũng không có nghĩa là hoàn toàn dùng lời thoại để dẫn dắt.

Mình vẫn chưa cảm nhận được phần bản sắc của nhân vật chính ( xin phép được gọi là main) do cậu nói ít trong văn quá. Và tác giả giải thích khá là....dài. Diễn biến đôi khi mình cảm giác nó hơi bị át đi bởi đoạn giải thích. Mình nghĩ là bạn nên đẻ truyện tự diễn biến rồi giải thích từ từ sau. Đôi khi nếu quá dài, hãy thêm "có vẻ hơi lệch khỏi chủ đề mất rồi..." chẳng hạn.

Sự mông lung này mình mong là tác giả có thể khắc phục từ từ sau.

P/s: đoạn chú thích, theo mình thì nên cho vào câu văn thay vì đóng note. Note khi ví dụ giải thích hoa hồng là gì ấy, còn giải thích hoa sjdksxsj là gì thì thêm một đoạn giải thích ra thay vì note
Xem thêm
CHỦ THỚT
AUTHOR
@ Love Fragments: Những chương đầu cần phải truyền tải một chút "kiến thức nền" cho độc giả về thế giới này. ^^ Những chương sau các nhân vật sẽ có nhiều đất diễn hơn. Cơ mà một phần cũng là vì đặc điểm tính cách của tên "main" này rất ít nói.
Xem thêm