Quyển 1: Diemond và Sự trả thù của Máu
Chương 001 - Hy Sinh / Orvar Icenstaff
20 Bình luận - Độ dài: 5,924 từ - Cập nhật:
ORVAR ICENSTAFF
Ngày 20 tháng Daudsnjos năm 4008, kỷ Mặc Thế,
90 ngày trước Xuân phân,
Tâm trí Orvar chẳng khác gì một bãi chiến trường. Cậu ngồi giữa căn phòng tù mù tối, lặng thinh, cố gạt đi âm thanh huyên náo bên ngoài đang luồn lách vào trong qua khe cửa sổ. Không gian đặc quánh mùi lưỡng lự khiến cậu ngột ngạt vô cùng. Chân Orvar run lên, còn đôi bàn tay thì không ngừng lăn qua lăn lại mấy viên quang thạch đang dần cạn pháp lực. Thứ ánh sáng hấp hối ấy truyền những rung động yếu ớt lên da thịt cậu như một lời hối thúc. Orvar cắn chặt răng. Cậu chầm chậm đứng dậy, đưa tay mở hé cửa sổ.
Ánh sáng xanh lam rực rỡ từ muôn vàn ngọn đuốc ngoài kia lập tức tràn vào nuốt chửng cả căn buồng. Từ đây nhìn xuống có thể thấy rõ một góc làng nhộn nhịp hăng hái chuẩn bị cho buổi lễ Tưởng niệm Tổng pháp quân. Ai nấy đều bận bịu qua qua lại lại, luôn tay luôn chân. Chỉ duy nhất một mình Orvar vẫn đang đóng băng như một hòn đá bên lề.
Mình không cần tham dự… Mình hoàn toàn có thể ở nhà như mọi năm mà… Orvar hít một hơi thật sâu. Không khí lạnh buốt mang theo hương biển mằn mặn lấp đầy buồng phổi cậu. Bầu trời tím sẫm trên kia chi chít những vì sao đến ở trọ mà mãi ba tháng nữa mới bị mặt trời đuổi đi. Cả hòn đảo Froustmoust bị khoá chặt trong bóng tối Trường dạ, vẫy vùng giữa thời khắc hoàng hôn kéo dài như bất tật cho đến ngày Xuân phân.
Sau đó cháu định thế nào?
Orvar chợt nhớ đến câu hỏi của Đại pháp sư. Xuân phân lần này không giống như những năm trước. Cậu đã đủ tuổi để tham gia kỳ thi Nhập phái, và cũng đồng nghĩa với việc cậu phải đưa ra quyết định cho tương lai: ở lại Froustmoust để học làm một pháp sư toàn vẹn hay rời đi để sống tự do không chút ràng buộc. Tâm trí Orvar chẳng khác gì một bãi chiến trường.
Chợt, xa phía trên đồi kia xuất hiện những ngọn lửa lốm đốm. Từng chút từng chút một uốn quanh thành những vòng tròn đồng tâm bao quanh lấy quảng trường trên đỉnh đồi. Đại pháp sư bắt đầu thắp đá tưởng niệm rồi ư? Orvar khẽ nhíu mày. Cậu niệm chú đổi áo chùng sang màu tím rồi rời nhà. Mấy viên quang thạch dần tắt phía sau cánh cửa đóng vội.
Có lẽ đã đến lúc phải cho ông một câu trả lời rõ ràng…
Luồng gió đông hù hụ lập tức quấn lấy Orvar. Nhưng cũng như bất kỳ cư dân Froustmoust nào, cậu hoàn toàn miễn cảm với cái lạnh. Cậu pháp sư tập sự liếc một vòng, nhấm nháp quang cảnh xung quanh. Trong ánh lửa xanh lam đặc trưng của đuốc mỡ cá voi băng, các phù thuỷ và pháp sư Froustmoust ngược xuôi treo lồng đèn trang trí và bày hoa, bày lễ vật lên mâm cống phẩm. Gương mặt ai nấy cũng đều đượm nét buồn trang nghiêm. Lịch sử đau thương nặng trĩu trên hàng mày và trái tim họ. Mấy người chạm mắt Orvar liền vội vàng nhăn nhó quay đi, ném lại cho cậu sự khinh khỉnh lạnh lùng. Lồng ngực cậu pháp sư trẻ thắt lại, nhưng cũng nhờ đó mà Orvar càng thêm quả quyết với lựa chọn của mình.
Orvar tăng tốc. Bước chân cậu dồn dập băng qua những con đường mòn, đan xen dòng người bận bịu. Không khí giá lạnh thoang thoảng mùi thảo mộc và văng vẳng tiếng cầu kinh. Khi cậu mon men ra đến bãi tập huấn phía rìa làng, giáp với chân đồi Witkin, Orvar chạm trán một nhóm pháp sư tập sự cùng lứa với cậu đang thực hành thần chú giao chiến. Có vẻ như họ đang mài giũa kỹ năng để chuẩn bị cho bài thi Nhập phái vào ngày Xuân phân sắp đến.
Cả nhóm xếp thành bốn hàng dọc. Mỗi hàng năm người. Trên đầu quyền trượng của họ hừng hực một quả cầu lửa xanh ngắt, toả ra ánh sáng lung linh giữa màn đêm. Theo hiệu lệnh của một pháp sư đứng bên đường biên sân tập, bốn người đầu hàng phóng hoả cầu về phía hình nộm bằng đá trước mặt. Orvar dừng chân và kín đáo đứng quan sát. Tiếng lửa xèo xèo đốt cháy không khí và xé gió lao đi thu hút sự chú ý của cậu. Các pháp sư trẻ ai nấy cũng đều tự tin. Mỗi bước chân, mỗi thủ pháp đều toát ra vẻ tự tin. Tiếng hô thần chú sắc bén vọng lên niềm tự hào. Hoả cầu vun vút lao đến mục tiêu, phát nổ vang trời. Uy lực và độ chính xác đều vô cùng hoàn hảo. Từng người từng người thay thế nhau đều tăm tắp. Họ cười phá lên và trao nhau những cái đập tay thân tình đoàn kết.
Cảnh tượng ấy khiến tim Orvar trùng xuống. Cậu không ganh tỵ với kỹ năng của các bạn nhưng tinh thần đồng đội gắn bó ấy mới là thứ khiến cậu tủi thân. Tiếng cười đùa giòn giã, những lời động viên khen ngợi như lưỡi dao cứa vào Orvar. Cậu pháp sư tập sự quay mặt đi và tiếp tục hướng về phía đỉnh đồi Witkin, nơi Đại pháp sư đang thắp đá cầu nguyện cho các Tổng pháp quân.
Đột nhiên, có một luồng sáng xanh rực loé lên đi kèm với sức nóng hầm hập lao về phía Orvar. Nhanh như chớp, cậu triệu hồi quyền trượng, thu lấy hoả cầu khổng lồ to gấp bốn lần bình thường kia rồi nhanh trí chuyển hướng nó phóng lên trời. Ngọn lửa phừng phừng lao vút lên giữa đêm đen sáng rực như sao băng rồi cũng nhanh chóng tan đi, để lại một mùi khét lẹt nồng nặc trong không trung.
Khi hiểm hoạ đã qua đi, Orvar mới nhận ra mình đang thở dốc. Cậu thu quyền trượng lại rồi lẳng lặng tiếp tục bước. Phía sau lưng, cậu còn nghe rõ mồn một những tiếng cười nhạo và mấy lời xì xào chối tai. Orvar vẫn luôn như vậy. Cậu là kẻ không ai muốn tiếp xúc, một kẻ lặng lẽ bên lề mà nhìn ngó, kẻ bị bàn tán và đặt điều dối trá. Đôi mắt xanh lạnh buốt của cậu, cái tên nặng trĩu của cậu chính là thứ khiến Orvar bị biến thành mục tiêu đàm luận. Gió, băng, và tuyết chẳng là gì đối với Orvar nhưng lòng người lại là thứ khiến cậu lạnh lẽo đến co quắp tâm hồn.
Đây không phải nơi dành cho mình… Orvar tự nhắc nhở bản thân trên đường lên đồi. Cậu đã đấu tranh rất dữ dội giữa việc ở hay đi nhưng rõ ràng Froustmoust không cho cậu bất kỳ lý do gì để nấn ná. Tâm trí Orvar chẳng khác gì một bãi chiến trường nhưng phe ly khai cứ mỗi ngày một thắng thế. Lòng cậu đã quyết và hôm nay, cậu sẽ nói rõ ý định của mình cho Đại pháp sư.
Orvar phăng phăng trèo trên con đường dốc. Những chậu bạch đầu ông tím sẫm trang trí hai bên run rẩy khi cậu lướt qua. Dưới chân, đất đá phủ tuyết trắng lấp lánh phản chiếu ánh lửa xanh ngắt. Trước mặt cậu thấp thoáng bóng toà tháp Đại hội đồng — cơ quan quyền lực tối cao của các phù thuỷ và pháp sư Froustmoust. Càng gần lên đến đỉnh, không khí càng nặng nề vẻ trang nghiêm của một nghi thức long trọng. Buổi lễ Tưởng niệm các Tổng pháp quân vẫn luôn tôn vinh tinh thần dân tộc, sự đoàn kết, sự hy sinh cho tồn vong của đảo quốc. Nhưng Orvar chẳng hề cảm nhận được chút gắn kết nào với đồng bào xung quanh.
Mải quẩn quanh với suy nghĩ của mình, Orvar chợt nhận ra mình vừa đến nơi. Quảng trường Visund rộng thênh thang trên đỉnh đồi đã trải ra trong tầm mắt. Chào đón cậu là vô số những bức tượng bằng băng của các Tổng pháp quân xếp thành mấy vòng cung bao quanh hai bên quảng trường. Dưới chân họ là một bàn thờ nhỏ với hoa trắng và quang thạch lấp lánh ánh sáng xanh để tưởng nhớ những vị anh hùng đã ngã xuống vì đảo quốc. Trong số những bức tượng được tạc với đủ tư thế uy nghi hùng dũng ấy, có một người là Sigurd Icenstaff — cũng chính là cha của Orvar. Ngày này tám năm trước, ông đã hy sinh trong trận chiến chống quân xâm lược từ Đế quốc Strone. Orvar Icenstaff mất đi người cha khi cậu vừa mười sáu tuổi.
Orvar lách mình tìm đến bức tượng của Sigurd. Nơi nơi tràn ngập ánh lửa xanh lạnh lẽo, phản chiếu những nhân chứng của chặng đường gươm đao gian truân mà Froustmoust phải đi qua. Họ đã kiên cường đánh đổi biết bao máu và nước mắt cho những tháng ngày bình yên như hôm nay.
Cậu pháp sư trẻ đứng trước bức tượng cha mình. Thạch quang xanh lập loè bao phủ lấy gương mặt làm đôi tròng mắt xanh biếc dường như tan đi. Mái tóc đen dài buồn bã khẽ lay động trong cơn gió bắc lạnh lẽo. Chưa bao giờ cậu yêu thích thứ ánh sáng lạnh lùng này. Orvar luôn ôm trong mình khao khát rời khỏi nơi đây. Cậu muốn được khám phá thế giới, được cái nóng cháy bỏng ở Đế quốc Huihuo miết qua da, được đắm chìm vào những tàn cây cổ thụ ở Rừng Folaedelus, muốn đến nhìn tận mắt đất nước phồn vinh của bọn Đế quốc Strone. Orvar muốn quên đi những đau buồn để được sống thật tự do, thoát khỏi những tranh đấu thương tâm vô nghĩa.
“Cha có biết trong sách họ thường nói gì về đảo quốc Froustmoust chúng ta không?” Orvar trầm ngâm hỏi bức tượng bất động. Đôi mắt cậu hấp háy phản chiếu ánh sao trên trời. “Đấy là một nơi thật đẹp nhưng lại rất bi thương.”
Cậu pháp sư tập sự phóng tầm mắt từ trên đỉnh đồi Witkin ra thật xa, ôm lấy toàn cảnh vịnh Isewale vừa mờ vừa tỏ trong ánh đuốc xanh. Hơi thở cậu phả thành làn khói đơn độc trong không gian lạnh ngắt che mờ những ngôi nhà bên dưới túm tụm lại với nhau. Đại dương xa xăm ngoài kia đen thăm thẳm đến nỗi chỉ thấy được lờ mờ bọt sóng gợn lên dưới bầu trời sao. Cảnh tượng mơ hồ ấy như cứa vào tim Orvar. Sâu thẳm trong lòng cậu dâng lên một nỗi khát khao rằng xa nơi đường chân trời kia, hẳn là phải có một nơi đón chào cậu, hẳn là phải có một nơi chờ cậu khám phá. Hòn đảo này, ngôi làng này, thứ tình người ở đây chẳng khác gì một chiếc lồng giam hãm kìm chân, từ từ giết chết cậu.
“Nghe câu này thì có vẻ như cháu đã quyết định rồi nhỉ?” Một giọng nói thân quen nhưng chất chứa ưu tư bỗng cất lên, cắt đứt dòng suy nghĩ của cậu.
Không cần quay người lại, Orvar vẫn biết đó là ai. “Ông ngoại à, ở đây không có chỗ cho cháu. Cháu phải ra đi thôi.”
“Cháu thật sự đành lòng để phong ấn pháp thuật sao?” Giọng ông Alvis trầm và rắn rỏi giống như cơn gió bắc thổi qua những tán thông hùng vĩ, đủ mạnh để làm những cành cây cổ thụ rung lên. Thế nhưng, vẫn không đủ để làm lung lay quyết tâm của cậu pháp sư tập sự.
Orvar cười nhạt. “Cháu vẫn được phép giữ lại một số phép cơ bản mà. Bấy nhiêu đó là đủ rồi. Quyền năng cho lắm để làm gì chứ? Cháu sẽ không đời nào giẫm lên vết xe đổ của cha mẹ cháu đâu.” Orvar ngước đôi mắt ráo hoảnh nhìn ngắm người đàn ông trước mặt, cố lần ra những đường nét mình thừa hưởng từ Sigurd. Từ trước đến giờ, cậu hiếm khi nhìn thẳng vào gương mặt người cha mà cậu không có cơ hội gặp. Orvar căm ghét bức tượng này. Nó cứ đứng trơ trơ ở đó như một lời nhắc nhở rằng cha mày chết rồi! Cậu bất giác mím chặt môi, trong lòng dâng lên một chút đắng cay phẫn nộ. Gió lạnh vẫn điềm nhiên thổi, đùa giỡn với những ngọn đuốc xanh.
“Nhìn thế nào vẫn thấy phần mắt không giống nhỉ?” Đại pháp sư Alvis Heidrun chợt đổi chủ đề. Giọng ông cũng nhẹ hẳn đi như bông đùa. Ông híp híp mắt như đang cố gắng tìm ra khiếm khuyết trên bức tượng. Tà áo chùng trắng toát lướt đến bên cạnh Orvar.
“Cháu không rõ.” Orvar đáp nhẹ hẫng, cố che giấu những cảm xúc chớm dâng lên trong lòng. “Cháu đã bao giờ tận mắt nhìn thấy cha bằng xương bằng thịt đâu.” Cậu chớp chớp mắt rồi nhìn quanh quất, vờ như không quan tâm nhưng vẫn len lén xem xét gương mặt Sigurd. Kỹ thuật điêu khắc của nghệ nhân Froustmoust nổi tiếng khắp cõi Hetra. Những pho tượng họ tạc ra đều trông sống động giống hệt người thật. Orvar từ đó đến giờ vẫn luôn say mê những bức tượng Hải Thần trong Đại sảnh tháp Đại hội đồng nhưng riêng bức tượng của cha thì cậu chưa bao giờ dám nhìn kỹ.
“Đây nhé. Thật ra, mắt phải của Sigurd to hơn mắt trái một chút. Bọn pháp quân dưới trướng luôn cảm thấy Sigurd rất đáng sợ khi bị nó trừng mắt nhưng ông thì chỉ thấy buồn cười.” Đại pháp sư vừa nói xong liền phát ra những tiếng khùng khục làm bộ râu bạc trắng khổng lồ dài đến ngang bụng cũng rung rinh theo. Âm thanh kỳ quái của ông làm tảng băng trong lòng cậu như dần tan ra và khoé miệng Orvar bất giác khẽ cong lên.
Alvis vẫn luôn biết cách khiến cậu mở lòng. Ông đã chăm sóc cho cậu từ nhỏ. Nhờ có ông mà những ngày tháng vắng cha mới trở nên nhẹ nhàng hơn. Trong Alvis giống như có hai con người tồn tại song song. Một hài hước, kỳ kỳ quái quái mỗi khi ở bên cậu. Một nghiêm khắc, quyết đoán khi ông ngự trên ngai băng nhìn xuống toàn bộ đảo quốc.
“Năm nay cháu có dự nghi lễ không?” Đại pháp sư bỗng hỏi sau một lúc im lặng.
“Cháu không thích nghi lễ máu me ấy. Chúng ta tưởng nhớ những người bị giết hại bằng cách đi giết hại những sinh linh khác. Tàn bạo và dã man, hệt như chính cuộc chiến ấy vậy…” Cậu nấc lên.
“Chúng ta đổ máu vật tế trên bàn thờ nhân danh Thiên Thần Cha Cả để ngài ấy chở che bảo vệ con dân Froustmoust không phải đổ máu trên chiến trường.” Đại pháp sư Alvis từ tốn giải thích. “Bao đời nay, chúng ta đều tin theo như thế mà cử hành nghi thức.”
Và chẳng phải bao đời nay, chúng ta vẫn đều đặn đổ máu sao? Orvar không nói ra suy nghĩ của mình. Cậu sinh ra ở đây, được nuôi dạy trưởng thành ở đây, nhưng chính thái độ xa lánh của đồng bào đã khiến cậu từ lâu cũng kháng cự lại những chuẩn mực Froustmoust.
“Nhưng nếu có chết trên chiến trường thì đó cũng là cái chết lẫm liệt nhất!” Đại pháp sư tiếp tục giảng. “Rất xứng đáng để được dự phần vào bàn tiệc của các vị Cổ Thần. Chết càng đau thương thì lại càng vinh dự.”
Phe kia thì lại cam đoan rằng quân của họ mới là những linh hồn được đưa đến với các thần, còn tử sĩ phe ta sẽ vất vưởng nơi Địa ngục… Orvar thở dài chán nản. “Và cha của cháu thì bị hiệp sỹ Henry Surge ném cát vào mắt và đâm lén vào tim. Lẫm liệt như thế nhưng cũng không đủ khiến dân ta ngừng căm ghét cả nhà…”
“Yuk-lip-t’a…” Ông Alvis khẽ thì thầm, nhỏ đến nỗi Orvar không dám tin vào tai mình, nhưng bấy nhiêu đó đã đủ trọng lượng để đập tan những suy nghĩ lơ đễnh trong đầu cậu.
Orvar sững sốt. Tại sao ông lại trả lời bằng Cổ Ngữ? Và từ ấy có nghĩa là “bị phản bội” mà. Mình có nghe lầm không? Cái chết của cha có liên quan gì đến bị phản bội sao? Cậu quay phắt về phía Alvis nhưng Đại pháp sư đã không còn đứng ở đấy nữa.
Tiếng tù và văng vẳng trong không trung như hối thúc khiến ruột gan Orvar nhộn nhạo hết cả lên. Cậu phóng tầm mắt băng qua quảng trường Visund rộng mênh mông, đến nơi phát ra âm thanh trầm đục ấy. Toà tháp Đại hội đồng lừng lững trước mặt, đối diện với hàng tượng băng của những người đã ngã xuống mà bảo vệ nó. Công trình cao vút này được chính tay Thiên Thần đẽo gọt từ một cây cổ thụ khổng lồ. Nó vươn tít tắp chọc thẳng đến bầu trời với những tán lá phủ rộng như muốn bao phủ cả đại phái tộc Njotormoust bên dưới. Ngước mắt nhìn lên chỉ thấy lá cây đan vào mây trời, tạo thành tầng tầng lớp lớp những khối dày đặc vần vũ quanh năm suốt tháng trông cực kỳ bí hiểm. Lốm đốm trên thân cây vĩ đại là những ô cửa sổ thắp đuốc sáng li ti, mỏng manh hệt như tình cảm của cậu đối với vùng đất này.
Lại một hồi tù và nữa vang lên. Orvar tự trấn tĩnh chính mình. Chắc là mình chỉ nghe nhầm thôi... Câu chuyện về cái chết anh dũng của cha cậu được chính ông Alvis kể lại cho toàn dân trên đảo. Lúc đó cậu cũng có mặt ở quảng trường và nghe không sót một chữ nào. Đến mấy năm sau vẫn còn có người bàn tán về chuyện này. Orvar nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần thêm mắm dặm muối của người dân, nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ thấy ai nhắc đến chi tiết phản bội cả. Bình tĩnh lại nào, Orvar. Đừng băn khoăn những chuyện vô ích nữa. Sáu tháng Trường dạ sắp qua rồi. Mặt trời sẽ lại đến, và mình sẽ rời khỏi đây. Không cần phải nhập phái gì cả. Mình sẽ bỏ lại tất cả mà đi.
Hồi tù và cuối cùng gầm gừ vang lên. Tiếng người ồn ào từ phía xa vọng lại kéo cậu ra khỏi dòng suy nghĩ. Orvar trải tầm mắt xuống triền đồi Witkin. Những người dân đảo khắp chốn từ ông bà già cho đến trẻ nhỏ đều vội vã bỏ lại những công việc dở dang để đến hành lễ. Tất cả đều đổi qua áo chùng tím và đem theo lễ vật. Trên tay họ là những bó hoa bạch đầu ông màu tím nhạt thường được dùng trong nghi thức mai táng hoặc lễ tưởng niệm. Không chờ họ đến gần, Orvar đã vội vã lách vào một góc khuất. Mái tóc dài lẫn vào những gốc thông cao vút đen sì. Cậu không muốn bị soi mói bởi những ánh mắt đầy ác cảm đó.
Đi đầu đoàn người, không ai khác hơn chính là Olivette Heidrun — mẹ của cậu. Trên tay bà là một khay hương liệu, hoa bạch đầu ông, và một vò nước phép. Olivette tuy đã có tuổi nhưng vẫn rất yêu kiều. Bước chân bà nhanh nhẹn, tuy có phần gấp gáp nhưng vẫn làm nổi lên dáng người dong dỏng cao cùng mái tóc đen mượt trông đến huyền bí. Những người dân đảo đi phía sau đều cố ý giữ một khoảng cách nhất định. Không phải vì họ kính trọng người thân của vị anh hùng, mà vì họ kinh sợ và căm ghét bà Olivette.
Mẹ cậu là một tiên tri. Và tiên tri, cho dù là ai đi chăng nữa, thì vẫn luôn bị xa lánh, bởi lẽ họ chỉ có thể nhìn thấy được những tai ương sắp đến. Người ta cho rằng chạm mặt tiên tri là xúi quẩy, nghe tiên tri nói là sắp rước họa vào thân. Trước đây, họ kiêng dè Olivette do bà là vợ của Sigurd — một tổng pháp quân danh tiếng lẫy lừng. Từ ngày tổng pháp quân mất đi, mẹ cậu càng bị người dân né tránh, lạnh nhạt. Một số người còn độc miệng bảo rằng sở dĩ cha cậu tử trận là vì lấy phải một người đàn bà hắc ám. Xưa nay, vị tiên tri nào cũng sống một cuộc đời cô quạnh và bị người xung quanh xa lánh đến khi chết. Nơi duy nhất cho họ chỗ đứng chính là bên trong tháp Đại hội đồng, nơi họ lặng thầm dùng tài năng thiên bẩm của mình để bảo vệ đảo quốc.
Vốn dĩ mẹ cậu cũng sẽ chịu chung số phận với những người tiền nhiệm, nhưng bất ngờ thay, bà lại trở thành vợ của một tổng pháp quân. Những tưởng chuyện này sẽ dần thay đổi cách nhìn của mọi người về tiên tri, rằng họ cũng đáng nhận được sự tôn trọng. Nhưng ai ngờ chính cuộc hôn nhân đó lại quay lại cắn mẹ con cậu ngay sau khi Sigurd qua đời. Những khinh bỉ bị dồn nén do nể uy danh của cha cậu cuối cùng cũng có cơ hội thoát ra và trút xối xả lên người mẹ con cậu. Đều là một lũ vong ơn bội nghĩa! Orvar nghiến chặt răng khi thấy điệu bộ rụt rè của những người dân đảo ngay sau lưng bà Olivette.
Ông Alvis luôn bảo hai mẹ con cậu không giống nhau. Bà Olivette là một phù thuỷ mạnh mẽ và ngoan cường, biết cách ngẩng cao đầu mà sống bất chấp những lời quàng xiên. Đôi mắt sáng ngời của một nhà tiên tri luôn biết tảng lờ những kẻ ác mồm ác miệng, bởi lẽ cho dù người xung quanh đối xử với bà ra sao, phép tiên tri vẫn là vận mệnh không thể chối bỏ. Olivette vẫn phải đưa ra lời cảnh báo mỗi khi tai hoạ sắp ập đến cho dù điều đó có khiến bà trở thành con quạ đen xấu xí trong mắt ai đi chăng nữa.
Ta vẫn là tấm khiên che chắn cho cả đảo quốc. Mẹ cậu vẫn thường hay nói như thế. Orvar thì lại không được vị tha và rộng lượng như vậy. Trong lòng cậu luôn giữ một mối thù sâu đậm đối với những kẻ bạc bẽo ở đây. Ẩn mình trong hàng cây, cậu quắc mắt nhìn đoàn người ngay hàng thẳng lối lầm lũi tiến lên đồi Witkin rồi tập trung tại quảng trường Visund trước cổng chính tháp Đại hội đồng.
Gió bắc nhè nhẹ thổi khiến những tà áo chùng tang lễ trông như những đám mây màu tím dập dềnh trong ánh lửa xanh, bầu không khí tràn ngập vẻ ma mị của những bí tích cổ xưa. Người Froustmoust tin rằng sau khi chết, linh hồn sẽ rời khỏi thân xác dưới dạng một cơn gió và quay về với Thiên Phụ Thần — người Cha Cả của vạn vật. Lửa có thể tàn, sông có thể cạn, cây cối có thể mục nát đi, nhưng những cơn gió thì luôn trường tồn vĩnh viễn. Đó chính là cuộc sống đời sau mà Cha Cả dành riêng cho người Froustmoust.
Bà Olivette tiến đến bàn thờ đặt dưới bóng cây sồi tuyết sum suê loà xòa những cành lá trắng phau gần cổng tháp. Olivette trông có vẻ hốc hác tiều tuỵ. Năm nào cũng vậy, cứ đến khoảng thời gian này là bà lại mất ngủ vì bị ám ảnh bởi cơn ác mộng ngày đó. Bà khuỵ gối bày lễ vật lên bàn thờ, suối tóc đen dài rũ xuống trên nền tuyết trắng. Bạch đàn hương được đốt lên toả một mùi thơm ấm áp thoang thoảng trong không gian.
Đây có lẽ là thứ duy nhất mang hơi ấm ở Froustmoust. Mùi bạch đàn luôn luôn khiến Orvar nhớ đến những bài hát ru của mẹ. Cậu lớn lên trong thời chiến nên chưa bao giờ có cha bên cạnh. Sigurd bị cuốn vào những buổi tập huấn khắc nghiệt và những trận giao tranh không hồi kết với Đế Quốc Strone, bỏ lại hai mẹ con cậu bơ vơ ngày đêm lo lắng.
Ngắm nhìn làn khói xám mang theo mùi hương ấm áp uyển chuyển hoà quyện trong không khí, Olivette bất chợt đảo mắt quanh quất như đang tìm kiếm ai đó. Trong một khoảnh khắc, Orvar chạm ánh mắt mẹ. Cậu vội rụt vào nấp sau những cây thông to bè xung quanh quảng trường, lòng thầm mong mẹ chưa phát hiện ra mình.
Trong góc khuất, Orvar thấy Olivette giả vờ nhìn quanh quẩn vài vòng nữa rồi mỉm cười nhẹ nhàng tiếp tục chuẩn bị bàn lễ. Nhìn nụ cười đó, Orvar tin chắc rằng bà đã biết rõ cậu đang ở gần đây. Đó là quyền năng thấu thị của một nhà tiên tri. Bà có thể linh cảm được sự hiện diện của một người hay vật nào đó nên cho dù Orvar trốn ở đâu, Olivette vẫn luôn tìm ra cậu.
Lúc Olivette gần sắp xếp xong bàn thờ thì một luồng khói trắng chợt bốc lên ngay kế bên bà. Từ cuộn khói đó, đại pháp sư chậm rãi bước ra. Ông đã thay tang phục màu tím và cầm theo quyền trượng.
Đại pháp sư khẽ gật đầu với con gái mình, ánh mắt đong đầy sự quan tâm. Bà Olivette mỉm cười nhẹ nhàng rồi lùi về phía đám đông. Họ cũng lùi lại một bước, cố ý đứng cách xa bà một chút. Olivette không thèm để ý đến bọn họ, đôi mắt đượm buồn đang mải nhìn chăm chăm vào bức tượng Sigurd. Orvar trộm nghĩ không biết mẹ đang nhớ lại kỷ niệm gì với vị tổng pháp quân quá cố ấy.
Bỗng, giọng nói vang dội của Alvis cất lên như cắt ngang dòng suy nghĩ của bà. Orvar thấy Olivette thoáng giật mình, rồi hướng sự tập trung về phía Đại pháp sư. Với cây quyền trượng giơ cao, ông bắt đầu cất tiếng vọng khắp quảng trường. Alvis vui tính đã biến mất, thay vào đó là một Đại pháp sư quắc thước, nghiêm nghị.
Alvis hắng giọng rồi bắt đầu đọc bài kinh Tiễn Đưa. Phía dưới, Olivette và cư dân Froustmoust cũng lầm rầm đọc theo. Họ cúi đầu thành kính, chống quyền trượng xuống đất ngay phía trước ngực. Orvar dõi mắt nhìn nghi lễ, trong lòng dâng lên một cảm giác rất khó tả. Cậu buồn rầu nhưng cũng oán giận, thương xót nhưng lại rất phẫn nộ.
“Cha Cả ban cho tôi sự sống và đón chờ tôi trở về. Dù ra đi vì thời gian tôi đã tận hay vì bị cướp mất sinh mạng này; dù để lại cha, mẹ, vợ, chồng, hay con cháu, tôi cũng ngoan ngoãn vâng lời mà quay về với vòng tay Cha rộng mở. Đời tôi cống hiến cho dân tôi, cho đảo tôi. Nay nhiệm vụ đã hết. Tôi ra đi dù trong vinh quang hay tội lỗi. Mạng sống này cúi xin Cha Cả đón nhận trong công bình, yêu thương, và khoan thứ. Xin hãy để tôi hoá thành ngọn gió và bay về bên Cha.”
Không gian vang lời kinh thành kính hoà vào tiếng tù và ngân vang từ mấy tầng tháp cao vọng xuống. Trên bầu trời tím sẫm, từng đàn ngư điểu lượn vòng quanh quảng trường mà quang quác những tiếng thê lương. Ngọn gió bắc nhói buốt vi vu thổi qua những đốm lửa xanh lạnh lẽo. Một thứ lửa giả tạo. Orvar run rẩy nhìn những người dân mà cha cậu đã bỏ cả gia đình, bỏ cả mạng sống bảo vệ, chỉ để cho họ khinh bỉ, xa lánh mẹ con cậu. Orvar uất ức đến ứa nước mắt. Bao nhiêu năm trời, cậu vẫn giằng xé giữa sự kính phục và cơn giận đối với Sigurd. Cậu bấu chặt lấy thân một cây thông, cố gắng dồn nén những cảm xúc phức tạp trong lòng.
Đại pháp sư lại giơ cao trượng phép. “Vì sự hy sinh cao cả cho những người con của đảo. Vì sự kế thừa di sản của Bắc Thần. Chúng ta cảm ơn và an ủi ngọn gió Sigurd Icenstaff. “Qi-yuk ek lup.” Đám đông đồng loạt quỳ xuống, cúi đầu, tựa trán vào quyền trượng đặt trước mặt.
Lúc ấy, có bốn pháp sư khệ nệ gánh từ đến một túi vải khổng lồ lúc nhúc những con cá tươi rói rồi đặt ở trước bàn thờ. Chiếc túi vừa mở ra thì ngay lập tức đàn ngư điểu từ trên trời lao xuống thi nhau xâu xé những con cá đang giãy đành đạch cố gắng chạy trốn. Đám sinh vật oai phong bệ vệ ấy vẫy đôi cánh đại bàng khổng lồ trắng toát khiến gió nổi lên phần phật, rồi lại quẫy chiếc đuôi cá dài gấp đôi cơ thể, lấy đà phóng xuống chụp lấy con mồi. Nhờ khả năng di chuyển linh hoạt trên trời lẫn dưới biển, cùng với sức mạnh và tốc độ đáng nể nên ngư điểu được xem là linh vật của Froustmoust và chúng cũng tượng trưng cho những chiến binh đã khuất. Chính vì lẽ đó mà trong những buổi tưởng niệm, không bao giờ thiếu nghi thức dâng lễ vật cho ngư điểu nhằm thể hiện sự kính trọng đối với linh hồn các pháp quân đã hy sinh.
Ánh lửa xanh loang loáng rọi vào lớp vảy cá bàng bạc nhuốm máu đỏ tươi trông như những con mắt hận thù liên tục nhắm mở. Mùi hôi tanh sực nức trong không khí, lan đến tận những tán thông nơi Orvar đang nấp. Cậu đưa tay lên che mũi, hàng mày chau lại vì ghê tởm, cổ họng thì siết chặt lại để ngăn một cơn buồn nôn đang lăm le dâng lên từ dạ dày. Đây không phải là lần đầu tiên cậu chứng kiến cảnh tượng này, nhưng cứ thấy bãi máu đen thẫm đọng lại trên nền tuyết trắng và ngửi cái mùi tanh tưởi đến lợm giọng đó thì Orvar lại càng thêm chán ghét cái xứ sở này. Cứ nghĩ rằng nghi thức đó đã đủ phần man rợ nhưng những gì xảy ra tiếp theo mới là thứ khiến Orvar thực sự kinh hãi.
Ngay khi bầy ngư điểu vừa bay đi, toàn bộ dân chúng liền chen chúc tranh nhau bôi trát máu cá lên mặt. Họ cho rằng máu của những con cá vừa dâng hiến cho ngư điểu là thứ có thể đem đến may mắn và bảo hộ họ khỏi những biến cố trong cuộc sống. Trước mắt Orvar là một bầy người ngụp lặn trong mớ xương thịt bầy nhầy hôi tanh. Cậu quay mặt đi chỗ khác, không còn đủ can đảm để nhìn tiếp. Thứ truyền thống gắn kết cả đảo quốc kia mỉa mai thay lại là thứ khiến Orvar muốn bỏ xứ mà đi không bao giờ trở lại. Nắm chặt quyền trượng trong tay, Orvar tự thốt lên một lời hứa câm lặng với bản thân. Trong giờ phút linh thiêng này, trái tim cậu đã bay đi đâu đó vượt xa khỏi bờ biển Froustmoust ngoài kia rồi.
Trong lúc người dân còn đang say sưa tắm máu, Olivette chậm rãi tiến lại bàn thờ, thắp lên ba viên quang thạch tượng trưng cho Tam Thần Phương Bắc và đặt chúng lên khay. Bước chân bà có phần rụt rè. Tám năm trôi qua rồi nhưng Orvar biết mẹ mình vẫn chưa bao giờ quen với sự ra đi vĩnh viễn của người chồng yêu dấu. Có những đêm chợt thức giấc, cậu thấy mẹ đứng trước cửa nhà và dõi mắt về phía biển cả mênh mông, hệt như những ngày mà Sigurd vẫn còn rong ruổi chinh chiến ngoài khơi xa.
Bà Olivette vừa định mang đá đến gần bức tượng thì từ đâu có một luồng gió rít gào bất ngờ thổi tới, hung hăng hất tung ba viên quang thạch, đẩy bà ngã ngửa vào vũng máu cá. Đám đông nhất loạt dạt ra xung quanh. Bộ áo chùng tím hoá đỏ vì hút sạch thứ máu sền sệt hôi hám ấy. Bất thình lình, sấm sét chói loà đánh thẳng xuống bức tượng Sigurd. Ánh sáng loá mắt bao trùm cả quảng trường kèm theo tiếng rền vang đinh tai nhức óc.
Đôi mắt Olivette bỗng long lên chỉ còn thấy tròng trắng, miệng bà há hốc kêu gào những âm thanh quái dị, toàn thân run rẩy và co giật, mái tóc vốn đen dài nay hoá trắng xoá và bết bát máu me từng mảng đỏ thẫm. Ba viên quang thạch điên cuồng bay vòng quanh trên người Olivette, bùng cháy dữ dội. Ánh sáng xanh ngắt của chúng toả rợp một góc quảng trường.
Bà đang nhìn thấy một viễn cảnh. Orvar đã từng trông thấy mẹ cậu có viễn cảnh rất nhiều lần, nhưng chưa bao giờ gặp hiện tượng kỳ quái và đáng sợ như thế này. Tâm can cậu nhộn nhạo. Chuyện gì đây?
Đám đông lúc này đang co cụm vào với nhau mà sợ hãi chỉ trỏ. Orvar chạy vụt đến chỗ mẹ, định lay bà tỉnh lại, nhưng ông Alvis giơ trượng phép chặn ngang ngực cậu. Orvar cố gắng vùng ra nhưng cậu không thể kháng cự lại sức mạnh của Đại pháp sư. Cậu giận dữ quay sang định năn nỉ ông cứu lấy mẹ thì đột nhiên, Olivette thét lên một tiếng kinh hoàng rồi bất tỉnh ngay tại chỗ.
Ba viên đá cháy rụi thành một bãi tro đen trên nền tuyết trắng. Bụi đá lác đác bay trong không trung như linh hồn các pháp quân đang trở về trời. Gió ngơi. Ánh mắt mọi người đổ dồn vào bà Olivette rồi lại lấm lét nhìn qua Đại pháp sư chờ đợi. Cả quảng trường phủ kín một sự im lặng chết chóc. Tâm trí Orvar chẳng khác gì một bãi chiến trường.
20 Bình luận
Tiện đây thì cho em hỏi vài chỗ hơi ngớ ngẩn chút :v
Khúc "Thứ mà cha đã chết để bảo vệ ư? Thật oai phong quá!" Là một đoạn hồi tưởng anh dùng để tương phản với thái độ của nhân vật hiện tại, hay là nhân vật chính đang tự mỉa mai, em hơi bối rối
Cái đoạn: " Nói thật ra, Orvar cũng chẳng biết mình nên đi đâu vì chỗ có người tì bị xua đuổi" ở đây là typo phải không nhỉ
Phần đốt bạch đàn trong lễ gợi em nhớ đến một chương trình em từng xem nói việc người ta hạn chế đốt bạch đàn vì nó tạo ra bầu không khí ảm đạm, hmm :v
Đoạn em hỏi là nhân vật chính đang tự giễu nhé. Cha Orvar bán mạng cho một thứ không rõ ràng để rồi chết queo.
Và cảm ơn em đã giúp anh nhặt lỗi typo nhé! *bắt cóc làm ê đít to*
+ "Tàng cây" hay "tàn cây", "tán cây" nhỉ? Theo diễn biến, em đoán là "tàng cây" chuẩn hơn. Kiểu ngang tàng tự do hùng vĩ phù hợp với mong ước của Orvar...Cái này ngoài lề chút thôi :)
+ "Áo chùng", "áo choàng"? Tự nhiên nghĩ hai danh từ ấy thấy thế cho nhau được không? Chẳng là đoạn ông Alvis gặp Orvar đang nhìn bức tượng cha mình, anh dùng "áo chùng trắng toát", rồi khi ông ấy đi thì lại dùng "áo choàng trắng". Đoạn sau, mọi người đều mặc "áo chùng". Nên em tự hỏi có phải là thiếu sự đồng bộ ở đây không?
+ "Nhưng ai ngờ chính cuộc hôn nhân đó lại quay lại cắn mẹ con bà ngay sau khi Sigurd qua đời." Thấy đoạn "cắn" diễn tả hơi thô...Em đang hoà theo không khí trầm trầm của chương :v.
+ Cuối cùng là thắc mắc về hoàn cảnh của Orvar, theo chương thì cậu mất cha khi 16 tuổi nhỉ? Thế mà đoạn này viết:
"Từ trước đến giờ, cậu vẫn chưa lần nào nhìn thẳng vào gương mặt người cha mà cậu chưa từng có cơ hội gặp."
Đọc cứ như cậu mất cha từ lúc sinh ra ấy. Có lẽ tác giả có dụng ý khi viết vậy, có thể ngài Sigurd ở ngoài bảo vệ vương quốc suốt nên Orvar không gặp chăng?
Tóm lại vẫn muốn sự xác nhận của anh một chút :)).
Em xin hỏi luôn là Orvar 24 tuổi ạ? Đoạn này là trước hay sau phần mở? - "Trước" :v
+ Đáp án chính xác là "tàn cây" và "tán lá" nhé. Nếu em có thấy anh ghi chỗ nào là "tàng cây" thì đó là sai chính tả đó.
+ Áo chùng là loại áo phù thuỷ hay mặc mà mình thường thấy trên phim. Nó gồm có cái mũ trùm đầu và phần phủ phía trước. Áo choàng là phụ kiện kèm theo thường được cài cố định ngay cổ áo và để tà áo rũ xuống sau lưng. Trang phục của Frostmost gồm cả hai thứ này và cả hai đều cùng màu.
+ Đoạn "cắn" thì anh hiện tại anh muốn viết như vậy. Đủ để em giật mình thoát khỏi trạng thái trầm trầm buồn ngủ phải không? :D Nói chứ, nếu tương lai đọc lại mà nghĩ ra cách diễn đạt hay hơn thì anh sẽ đổi. Cảm ơn em đã góp ý.
+ Sigurd ra trận trước khi Orvar ra đời. Hai bố con chưa bao giờ gặp mặt nhau. Đến trận chiến cuối cùng với Illuminus, những tưởng có thể gặp lại nhưng ai ngờ đâu Sigurd lại hy sinh. Vậy nên tất cả những gì Orvar có thể mường tượng về cha chỉ có bức tượng đó thôi. Fun fact: Frostmost chỉ là một đảo quốc dạng bộ lạc, không phải vương quốc. Ở đây người đứng đầu không xưng vương và không có chư hầu.
+ Orvar bối cảnh chương 1 là 24 tuổi. Nếu em đọc kỹ chút xíu nữa em sẽ thấy rằng chương Mở nói rằng ngày Xuân Phân tới rồi, còn đầu chương 1 có ghi "90 ngày trước Xuân phân." Đọc kỹ để xem ngữ pháp và từ vựng quá phần nội dung bị lỡ mất thông tin rồi. ^^ Chương 1 đến chương 38 sẽ là những sự kiện trước Xuân phân. Và chương 39 sẽ cùng bối cảnh với chương Mở rồi đi tiếp nhé.
Chiến tranh đúng là đau khổ mà, con không thấy mặt cha, vợ như hòn vọng phu chờ chồng ????...
Vậy đoạn này bị sai chính tả ạ:
"Cậu muốn được khám phá thế giới, được cái nóng cháy bỏng ở Thần Hoả Quốc miết qua da, được đắm chìm vào những tàng cây cổ thụ ở Rừng Folidarc,"
Lúc em nghiên cứu lại thì thấy một số báo dùng "Tàng cây" nên thắc mắc...
đọc lại lần 2 vẫn cảm thấy rợn người .... Do ko bt dùng từ gì diễn đạt...
Nói chung thì cảm giác khi đọc nó trong đầu thì có một luồng điện đâu đó chạy khắp cơ thể và da gà nổi lên nhẹ 1 phát. Đầu hơi rân rân(ko phải lân lân kiểu tê như nhức đầu í. Kinh phật và cả tiếng chuông chùa e đều bị cái này.)
Lời thoại của nhân vật chính quá ít. Có lẽ tôi đang áp đặt phong cách light novel của Nhật Bản, nhưng chỉ là ý kiến riêng thôi. Mình nghĩ tác giả nên thêm những lời thoại vào thay vì quá tập chung vào câu văn miêu tả. Light Novel thường dẫn dắt mạch truyện bằng lời thoại. Tuy vậy cũng không có nghĩa là hoàn toàn dùng lời thoại để dẫn dắt.
Mình vẫn chưa cảm nhận được phần bản sắc của nhân vật chính ( xin phép được gọi là main) do cậu nói ít trong văn quá. Và tác giả giải thích khá là....dài. Diễn biến đôi khi mình cảm giác nó hơi bị át đi bởi đoạn giải thích. Mình nghĩ là bạn nên đẻ truyện tự diễn biến rồi giải thích từ từ sau. Đôi khi nếu quá dài, hãy thêm "có vẻ hơi lệch khỏi chủ đề mất rồi..." chẳng hạn.
Sự mông lung này mình mong là tác giả có thể khắc phục từ từ sau.
P/s: đoạn chú thích, theo mình thì nên cho vào câu văn thay vì đóng note. Note khi ví dụ giải thích hoa hồng là gì ấy, còn giải thích hoa sjdksxsj là gì thì thêm một đoạn giải thích ra thay vì note